Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm “thời thơ ấu” của ...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm “thời thơ ấu” của macxim gorki

.PDF
66
144
114

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON NGUYỄN THỊ DUNG TÌM HIỂU NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM “THỜI THƠ ẤU” CỦA MACXIM GORKI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học trẻ em HÀ NỘI – 2019 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON NGUYỄN THỊ DUNG TÌM HIỂU NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM “THỜI THƠ ẤU” CỦA MACXIM GORKI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học trẻ em Người hướng dẫn khoa học TS. Dương Thị Thúy Hằng HÀ NỘI – 2019 LỜI CẢM ƠN Đề tài: Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki là nội dung tôi chọn để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHSP Hà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo - TS. Dương Thị Thúy Hằng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ động viên tôi trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận. Quá trình nghiên cứu đề tài, tôi không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Người thực hiện Nguyễn Thị Dung LỜI CAM ĐOAN Đề tài Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của cô giáo - TS. Dương Thị Thúy Hằng không trùng với kết quả nghiên cứu nào khác. Đề tài chưa được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Người thực hiện Nguyễn Thị Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................2 3. Mục đích - Phạm vi nghiên cứu....................................................................4 4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................4 5. Bố cục khóa luận...........................................................................................4 CHƯƠNG 1: TÁC PHẨM “THỜI THƠ ẤU” NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG............................................................................................5 1.1. Vài nét về tác giả Macxim Gorki và tác phẩm “Thời thơ ấu”....................5 1.1.1. Nhà văn Macxim Gorki...........................................................................5 1.1.2. Tác phẩm “Thời thơ ấu”..........................................................................7 1.2. Một số phương diện về nội dung của tác phẩm “Thời thơ ấu”..................9 1.2.1. Tác phẩm về những số phận bất hạnh, bi thảm.......................................9 1.2.1.1. Số phận cậu bé Alexei và những đứa trẻ bất hạnh...............................9 1.2.1.2. Số phận bất hạnh của những người phụ nữ........................................18 1.2.1.3. Những số phận khốn khổ khác...........................................................23 1.2.2. Câu chuyện về cái xấu trong xã hội Nga cũ..........................................27 1.2.3. Tác phẩm về tình người, tình đời..........................................................31 Chương 2: TÁC PHẨM “THỜI THƠ ẤU” NHÌN TỪ MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT................................................................43 2.1. Nghệ thuật kể chuyện trong tự truyện......................................................43 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật..................................................................48 2.2.1. Miêu tả ngoại hình.................................................................................48 2.2.2. Khắc họa nội tâm...................................................................................51 2.3. Kết cấu......................................................................................................53 2.4. Thời gian và không gian nghệ thuật.........................................................55 KẾT LUẬN....................................................................................................59 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................61 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. “Tuổi thơ ta là nơi hiền hậu nhất” (Lưu Quang Vũ). Tuổi ấu thơ chính là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Những dấu ấn thời thơ bé sẽ theo con người trên suốt cả chặng đường sau này. Trong thế giới tuổi thơ ấy, những câu chuyện, những bài thơ… thật sự có ý nghĩa bồi đắp và làm giàu có đời sống tinh thần của các em. Nó sẽ là tấm gương để các em học tập và xây đắp những khả năng của mình. Những câu chuyện về tuổi thơ luôn có khả năng mang lại rung động hồn nhiên, cảm động cho người đọc, người nghe, bởi nó chạm đến miền thân thuộc mà đầy kỷ niệm của mỗi một con người. 1.2. Macxim Gorki (1868 - 1936) là nhà văn kiệt xuất người Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ông là người khai sinh ra nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, tạo ra một huyền thoại trong văn học thế giới thế kỷ XX: một con người từ dưới đáy xã hội, không được học hành, bằng nghị lực và ý chí của mình đã vươn lên trở thành một trong những cây bút vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ XX. Người ta biết đến ông không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà hoạt động cách mạng, nhà thiết kế văn hóa của nước Nga nói riêng và của toàn nhân loại nói chung. Tuy nhiên, vinh quang không làm mất đi vẻ bình dị trong con người Gorki. Ông tự nhận xét một cách khiêm tốn về tài năng của bản thân: chỉ là một người thợ trung thực trong công việc của mình. Và người thợ đó, cho đến cuối cuộc đời vẫn hết sức cần cù, nhẫn nại cày xới, vun đắp cho cánh đồng văn chương. Mỗi trang văn của Macxim Gorki thực sự là một trang đời, lấp lánh ánh sáng của tinh thần nhân văn, hướng đến vẻ đẹp cao cả của “Con Người viết hoa”. Nhiều tác phẩm của ông trở thành tác phẩm kinh điển của văn học thế giới, tạo ra những dấu ấn không phai nhạt. “Thời thơ ấu” là tác phẩm nổi tiếng của Macxim Gorki nói riêng, của văn học thế giới nói chung. Đó là câu chuyện vô cùng xúc động và ý nghĩa kể về một cậu bé tên là Alexei với tuổi thơ bất hạnh, tủi nhục và đầy cơ cực. “Thời thơ ấu” cũng chính là tác phẩm tự truyện về chính tuổi thơ bất hạnh của Macxim Gorki. Macxim Gorki từng nói rằng “Đọc Thời thơ ấu các em sẽ thấy 1 rằng tôi hoàn toàn là một con người nhỏ bé như các em, chỉ khác ở chỗ: Ngay từ bé tôi đã duy trì được lòng ham muốn học tập và không sợ bất cứ thứ lao động nào”. Kể từ khi ra đời cho đến nay, “Thời thơ ấu” đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của thế hệ tuổi thơ nhiều quốc gia trên thế giới, để lại những dấu ấn tốt đẹp trong tâm trí độc giả. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki là một trong những con đường để khám phá thế giới nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm nổi tiếng này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cùng với “Kiếm sống”, “Những trường đại học của tôi”; “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki đã nhận được sự quan tâm, chú ý của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Qua bộ ba tiểu thuyết mang tính chất tự truyện này, Macxim Gorki đã tái hiện lại quá khứ của bản thân, tái hiện lại quá trình trưởng thành của một người lao động từ dưới đáy xã hội vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao văn hóa và đấu tranh cho tự do. Trong bộ ba tiểu thuyết mang tính tự truyện ấy, “Thời thơ ấu” là khúc đầu tiên, dấu ấn đầu tiên, những buồn vui cay đắng đầu tiên trên hành trình kiếm sống, mưu sinh, bị đày đọa khổ ải và trưởng thành của Macxim Gorki. Khi đọc “Thời thơ ấu”, nhà văn Pháp R. Roland từng khẳng định rằng: “Chưa bao giờ chúng tôi đọc trong văn học Nga một tác phẩm nào hay hơn cuốn thời thơ ấu của anh… Chưa bao giờ anh khéo léo sử dụng nghệ thuật của mình một cách thành thạo như thế”. Ở Việt Nam, Macxim Gorki và tác phẩm của ông sớm được giới thiệu như là một minh chứng của “cánh chim báo bão”, “lá cờ đầu” của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Macxim Gorki là một huyền thoại: một con người từ "dưới đáy" xã hội, hoàn toàn bằng con đường tự học đã vươn lên thành một nhà văn vĩ đại. Mọi người nói ông là người vô thần, ông không tin vào Chúa. Điều đó có lẽ cũng không hoàn toàn đúng. Trong ông luôn có một vị Chúa toàn năng: đó là "Con Người viết hoa" - con người của lao động, của tự do, con người luôn kiếm tìm sự thật, kiếm tìm chân lý - con người đó luôn có thể vượt lên tất cả, làm được tất cả” (Trần Thị Phương Phương - Macxim Gorki 2 huyền thoại về một con người). Tác giả Nguyễn Văn Chiến (vanvn.net) trong bài viết “Nhớ về Macxim Gorki” đã khẳng định: “sức sống nơi con người ông và tính nghệ thuật lẫn tính nhân văn cao cả của truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch, tùy bút, chính luận… của ông vẫn nóng bỏng, vẹn nguyên và phát triển vì sách của ông vẫn được dịch, được in ở khắp nơi trên thế giới. Độc giả các thế hệ vẫn đang tìm tới ông với tư cách người bạn, người thầy, người hướng đạo trong văn chương, sự nghiệp và sự sống!”. Về bộ ba tiểu thuyết tự truyện nói chung, tác phẩm “Thời thơ ấu” nói riêng, các ý kiến nhìn chung đều đề cao tài năng của Macxim Gorki. Trong cuốn “Lịch sử văn học Nga”, phần viết về Macxim Gorki, các tác giả (Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Trường Lịch, Huy Liên) đã dành ra khoảng 5 trang để điểm qua về bộ ba tiểu thuyết tự truyện của Gorki, trong đó có “Thời thơ ấu”. Đặc biệt, khi nói về nghệ thuật của bộ ba tiểu thuyết, ở trang 550, các tác giả khẳng định: “Cũng như những hồi kí tự thuật khác, bộ tiểu thuyết của Gorki không có một cốt truyện theo nghĩa thông thường, quen thuộc trong tiểu thuyết. Từ chương này qua chương khác trong suốt ba tập, trước mắt chúng ta, tái hiện lại những cảnh đời, những con người mà Aliosa từng gặp trên bao chặng đường phiêu lưu của mình” [2; 550]. Khi nói về nghệ thuật kể chuyện, cuốn sách có viết: “Mở đầu là âm điệu “đau buồn, chết chóc (bố chết, nghĩa địa hoang vắng, huyệt sâu thẳm…), nhưng rồi tiếp ngay sau đó, một âm điệu khác vang lên, âm điệu của sức sống phong phú, của vẻ đẹp đa dạng (hình ảnh người bà với mái tóc đen nhánh, ánh xanh kỳ lạ” (…). Hai âm điệu đó tạo nên hợp âm mở đầu cho giai điệu toàn tác phẩm” [2; 551]. Trong cuốn “Văn học Nga trong nhà trường”, tác giả Hà Thị Hòa cũng từng nhận xét: “Viết tự truyện, khai thác đề tài quá khứ, Gorki muốn miêu tả quá trình phức tạp, gian khổ của một con người xuất thân từ tầng lớp nhân dân lao động nỗ lực không ngừng vươn tới đỉnh cao văn hóa, trở thành con người ưu tú của thời đại mới” [5; 76]. Dịch giả Trần Khuyến cho rằng, “Thời thơ ấu” giúp hiện lên trước mắt chúng ta “một phòng trưng bày những mẫu người với những tính cách muôn màu muôn vẻ một bộ bách khoa toàn thư về con người của nước Nga cũ. Gorki gọi văn học nghệ thuật là “nhân học” và “dân tộc học”. 3 Tuy nhiên, việc nghiên cứu, tìm hiểu về Macxim Gorki ở Việt Nam chủ yếu dừng lại trên các phương diện lớn về mặt nội dung và nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của ông. Việc tìm hiểu các tác phẩm riêng biệt của Macxim Gorki còn là một khoảng trống. Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào tìm hiểu chi tiết về nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết mang tính tự truyện “Thời thơ ấu”. Đây chính là gợi ý để chúng tôi thực hiện đề tài: Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm nổi tiếng, có ý nghĩa giáo dục cao đối với trẻ em. 3. Mục đích - Phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khóa luận được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Thời thơ ấu” (Macxim Gorki). Từ đây, khóa luận bước đầu rút ra một số giá trị giáo dục đối với trẻ em từ tác phẩm này. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của khóa luận tập trung vào tác phẩm “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki. Trong quá trình thực hiện khóa luận, để làm nổi bật hơn nội dung tìm hiểu, chúng tôi có đối chiếu, so sánh với một số tác phẩm của Macxim Gorki nói riêng, một số tác phẩm mang tính chất tự truyện về thời thơ ấu của các tác giả khác nói chung. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp phân tích, đánh giá Phương pháp so sánh, đối chiếu 5. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận chia thành 2 chương như sau: Chương 1: Tác phẩm “Thời thơ ấu” nhìn từ phương diện nội dung. Chương 2: Tác phẩm “Thời thơ ấu” nhìn từ một số phương diện nghệ thuật. 4 CHƯƠNG 1: TÁC PHẨM “THỜI THƠ ẤU” NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG 1.1. Vài nét về tác giả Macxim Gorki và tác phẩm “Thời thơ ấu” 1.1.1. Nhà văn Macxim Gorki Cuộc đời Macxim Gorki tên thật là Aleksey Maksimovich Peshkov. Ông sinh ngày 28 tháng 3 năm 1868, là con trai của một người thợ mộc Maxim Savatievich Peshkov tài ba và có hiểu biết tại thành phố Nizhnii Novgorod nước Nga. Tuổi thơ của Macxim Gorki đầy bất hạnh. Ông mồ côi cả cha lẫn mẹ khi chỉ vừa tròn 11 tuổi. Thời thơ ấu ông phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau như rửa chén bát, gác đêm, công nhân, làm thợ lò rèn,… bởi chẳng có sự thành công nào dễ dàng có được nếu không được trải qua sự tôi luyện, rèn giũa thậm trí nghiêm khắc đến tàn bạo. Năm 13 tuổi, Macxim Gorki đọc cuốn “Eugenie Grandet” của Balzac và hiểu ra ý nghĩa thực sự của văn chương. Trong những năm tháng cơ cực ấy, ông không ngừng trau dồi vốn tri thức của mình qua sách và kinh nghiệm của trường đời đầy khắc nghiệt. Năm 16 tuổi, Macxim Gorki đã đến thành phố Kazan với dự định thi vào trường đại học. Nhưng chính cái nghèo đã khiến ông không thể thực hiện ước mơ. Tại đây, ông phải làm phu thợ tại các bến tàu, chính những người công nhân, những tên trộm cướp lưu manh đã vô tình trở thành những “người thầy bất đắc dĩ” mài giũa, tôi luyện tâm hồn ông và đó cũng chính là “ngôi trường đại học” đầu tiên của Macxim Gorki. Macxim Gorki là một đại văn hào của dân tộc Nga, là người truyền cảm hứng và động lực cho nhân loại về tinh thần tự học, vượt khó, vượt khổ, ông đã khẳng định rằng “Dòng sông Volga và thảo nguyên là trường đại học lớn nhất của tôi”. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố thăng trầm nên ông rất hiểu và đồng cảm với nỗi thống khổ của người dân, với khát vọng lớn lao của họ. Dưới góc nhìn của một nhà văn, ông nhận ra rằng chẳng có thứ “vũ khí” nào “sắc nhọn” như văn học. Nó có thể làm thay đổi tích cực một tư tưởng hoặc “giết chết” một tâm hồn. Và quả đúng như vậy, với tình yêu nước nồng 5 nàn, ông đã cho ra đời những đứa con tinh thần giàu tính nhân văn, truyền tải những thông điệp ý nghĩa về cuộc sống, là động lực giúp những người dân Nga vươn lên giành lấy lợi ích chính đáng về mình. Có thể nói, nếu như lịch sử nước Nga cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX được ví như một dòng sông thì Macxim Gorki chính là cây cầu bắc ngang dòng chảy phức tạp đó. Ông là “nhân chứng sống” cho ta cái nhìn toàn vẹn về cách mạng Nga và văn học Nga. Ngày 18 tháng 6 năm 1936, Macxim Gorki qua đời. Gần nửa thế kỉ miệt mài lao động trí óc, ông đã cống hiến cho nhân loại vốn sống vừa hiện thực, vừa lãng mạn, thức tỉnh sự tự ý thức vươn lên tìm ánh sáng của nhân dân lao động. Sự nghiệp sáng tác Nhắc đến Macxim Gorki là nhắc đến “người anh cả mẫu mực” của văn chương thế giới, người sáng lập ra khuynh hướng sáng tác văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông là cha đẻ của một kho tàng đồ sộ những tác phẩm mang đậm giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Hòa cùng dòng chảy văn học đa dạng nước Nga, ngòi bút Macxim Gorki luôn tạo ra dấu ấn riêng. Ngòi bút của Macxim Gorki để lại dấu ấn mạnh mẽ ở nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, soạn kịch, thơ,... Trong đó văn xuôi mang cho ông nhiều thành công hơn cả. Ngày 12 tháng 9 năm 1892, truyện ngắn đầu tay “Makar Chudra” được đăng tải trên tờ báo Kavkaz ở Tiflis với nghệ danh Macxim Gorki đã gây tiếng vang lớn. Nó chính là “quả bom” đầu tiên được “kích nổ” mở đường cho sự nghiệp sáng tác sau này của ông. Năm 1898, bộ truyện ngắn đầu tiên được xuất bản gồm 2 tập, mỗi tập khoảng 10 truyện. Với giọng văn mới mẻ, chân thực nó khiến độc giả nước Nga không khỏi “giật mình” chú ý. Năm 1899, tiểu thuyết đầu tiên của ông mang tên “Foma Gordev” ra đời nhằm phê phán thói tham lam, ích kỉ, hống hách của bọn trưởng giả. Năm 1901, vở kịch mang tên “Dưới đáy” đánh dấu bước ngoặt trên con đường sáng tác của ông. 6 Tên tuổi của ông còn gắn liền với với 2 cuốn tiểu thuyết “Người mẹ” (1906 - 1907) và “Cuộc đời Klim Xamghin” (1925 - 1936). Cùng với đó, Macxim Gorki gây được tiếng vang lớn với bộ 3 tác phẩm tự thuật “Thời thơ ấu”, “Kiếm sống” và “Những trường đại học của tôi” (1913 1923). Ông nổi tiếng với câu nói “văn học là nhân học”. Do đó, xuyên suốt trong các tác phẩm của mình tính nhân văn, nhân đạo được ông phác họa rất rõ nét. Và ta có thể dễ dàng nhận thấy các sáng tác của Macxim Gorki đi theo hai khuynh hướng đó là văn học lãng mạn và văn học hiện thực. Sự nghiệp sáng tác của Macxim Gorki có thể ví như một “tấm thảm” rộng lớn, trải dài khắp dải đất Nga màu mỡ mà những dấu chân của người dân Nga, chế độ Nga, lịch sử nước Nga thời đó chính là những con chữ sống động tạo ra một Macxim Gorki tài năng mà chúng ta có như ngày hôm nay. 1.1.2. Tác phẩm “Thời thơ ấu” Hoàn cảnh ra đời Năm 1908, Lenin đã có chuyến thăm đến nơi ở của người bạn Macxim Gorki. Được sự gợi ý và động viên của Lenin, ông đã viết bộ tự thuật nổi tiếng, trong đó có “Thời thơ ấu” (1913 - 1914). Cuộc đời Macxim Gorki được gói gọn trong bộ ba cuốn tiểu thuyết tự thuật đó là “Thời thơ ấu”, “Kiếm sống”, “Những trường đại học của tôi”. Trong đó, “Thời thơ ấu” được viết năm 1913 - 1914, đó là những trang hồi kí vừa bi thương vừa hài hước của cuộc đời cậu bé có nghị lực sống phi thường. Bi thương ở chỗ cậu bé ấy còn quá nhỏ để phải chứng kiến sự ra đi của những người cậu yêu thương và những trận đòn roi “nhẫn tâm” giáng xuống cơ thể non nớt ấy. Hài hước ở chỗ mặc dù cuộc sống tàn nhẫn là thế nhưng chẳng thể nào vùi lấp được những suy nghĩ ngờ nghệch đáng yêu cậu bé Alexei hay những thói xấu của xã hội thật khiến người ta bật cười. Tất cả những điều ấy tạo thành những vết sẹo chằng chéo nhau giày xéo tâm can cậu bé mà không ai khác chính là Macxim Gorki. “Thời thơ ấu” là một tác phẩm kinh điển của nhân loại. Truyện dài 13 chương với 350 trang. Cũng giống như nghệ danh Gorki nghĩa là cay đắng thì 13 là một con số có dụng ý mà nhà văn lựa chọn để kể về cuộc đời mình. 7 Theo quan niệm của người châu Âu 13 là con số không may mắn và xui xẻo. Macxim Gorki đã dùng chính con số đó để nói về cuộc đời mình, đó là một tuổi thơ bất hạnh và đầy đau khổ. “Thời thơ ấu” là câu chuyện xúc động kể về một cậu bé tên là Alexei với một tuổi thơ tủi nhục, cơ cực và đầy bất hạnh. Cậu mồ cô cha khi mới lên 4, mẹ đi lấy người khác, cậu trưởng thành trong tình yêu thương của bà và sự dạy dỗ nghiêm khắc của người ông. Với tâm hồn nhạy cảm của một nhà văn, ông đã sử dụng khéo léo ngòi bút tài hoa của mình để khắc họa nên hình ảnh chân thực về cuộc đời của một cậu bé tên là Alexei trong cuốn tự truyện “Thời thơ ấu”. Cách mở đầu và kết thúc của tác giả vô cùng ấn tượng, với cảnh chết chóc của cha và mẹ Alexei. Cái chết ấy cũng chính là cái chết của đại bộ phận người dân Nga bởi sự nghèo đói, dịch bệnh và sự vô tình của con người lúc bấy giờ. Alexei khi ấy còn quá nhỏ để có thể cảm nhận được sự mất mát đó, những câu hỏi ngờ nghệch của cậu bé thật khiến người ta đau lòng. Sau khi mất đi người đàn ông trụ cột trong gia đình, cậu theo bà và mẹ rời Astrakhan về thị trấn Nijni xinh đẹp sinh sống. Cũng chính từ đây cuộc đời cậu bước sang một trang mới với những nỗi buồn không báo trước. Không xinh đẹp như vẻ bề ngoài mà nó khoác lên, Nijni thực chất là mảnh đất u tối và xám xịt nuôi lớn những con người sống trong đau khổ. Đó là nơi Alexei luôn phải chịu những trận đòn chết đi sống lại từ tay ông ngoại, hay những trận cãi vã xung đột xảy ra triền miên trong chính gia đình cậu và thậm trí những cái chết cũng đến như cơm bữa. Nhưng may thay, cậu lại có một người bà vô cùng nhân từ, luôn yêu thương cậu hết mực. Cuộc sống khắc nghiệt chẳng đủ sức để bóp méo “phần người” của cậu bé Alexei. Càng đau khổ bao nhiêu, những giá trị của cuộc sống càng trỗi dậy mạnh mẽ bấy nhiêu. Nó đã giúp cậu tìm thấy những người bạn đáng quý, bồi đắp lòng nhân ái, bao dung con người, hoàn thiện nhân cách, dám đứng lên vì chính nghĩa. Mãi về sau này, nhà văn mới hiểu “Người dân Nga, do quẩn quanh sống trong sự nghèo khổ và buồn tẻ, người ta bèn nghĩ ra cách giải trí bằng sự đau khổ. Họ đùa cợt với đau khổ vui như chơi đùa với lũ trẻ và hiếm khi 8 cảm thấy sự xấu hổ hay nhục nhã về những nỗi bất hạnh. Giữa những chuỗi ngày nhàm chán vô tận thì sự đau khổ chính là ngày hội và cháy nhà là một trò vui. Trên bộ mặt nhẵn thín thì vết trầy xước cũng trở thành một thứ đồ trang sức hiếm hoi…” [3; 249]. Thời thơ ấu là một cuốn tự truyện lạ, lạ từ hình ảnh cho đến ngôn từ và cách ứng xử của người Nga lúc bấy giờ. Truyện không có cao trào, chỉ có những chuỗi ngày đau buồn không chấm dứt. 1.2. Một số phương diện về nội dung của tác phẩm “Thời thơ ấu” 1.2.1. Tác phẩm về những số phận bất hạnh, bi thảm 1.2.1.1. Số phận cậu bé Alexei và những đứa trẻ bất hạnh Alexei Alexei là nhân vật chính trong cuốn tự truyện “Thời thơ ấu” của Macxim Gorki. Hay nói cách khác, cuộc đời của cậu bé cũng là cuộc đời của chính nhà văn. Tất cả diễn biến trong tác phẩm đều được tái hiện thông qua cái nhìn đầy cảm xúc của cậu bé Alexei. Với ngòi bút chân thực, hình ảnh cậu bé Alexei hiện lên thật đáng thương và lấy đi nước mắt của nhiều độc giả. Đó là một cậu bé hồn nhiên, ngây thơ. Cuộc đời cậu trải qua nhiều biến cố thăng trầm khi phải tận mắt chứng kiến sự ra đi của từng người mà cậu yêu quý nhất. Song cũng không thế phủ nhận một điều rằng nếu như không có một quá khứ tàn nhẫn như vậy thì chắc gì nhân loại đã có một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước Nga nói riêng và của toàn nhân loại nói chung như ngày hôm nay. Tuổi thơ của Alexei vô cùng bất hạnh, cậu sớm mồ côi cha khi mới lên bốn. Khung cảnh “Thời thơ ấu” mở ra khi ấy thật ngột ngạt, bi thảm, đó là hình ảnh cha cậu nằm bất động trên sàn, còn bà và mẹ khóc thảm bên cạnh. Alexei thật đáng thương bởi sự ngô nghê của cậu bé bốn tuổi khi ấy vẫn chưa hiểu được nỗi đau mất cha và tương lai khắc nghiệt khi thiếu vắng trụ cột trong gia đình là như nào “Tôi chưa từng thấy người lớn khóc bao giờ, cũng không tài nào hiểu nổi những lời bà cứ lặp đi lặp lại với tôi: “Kìa, từ biệt cha đi con. Con sẽ không bao giờ nhìn thấy cha con nữa đâu. Khổ thân, cha con mất sớm quá” [3; 6]. Khi chôn cất cha xong, Alexei vẫn không rơi nước mắt, 9 khi được bà hỏi lí do, cậu đáp rất thản nhiên “Con không muốn” [3; 10], bởi “Điều này làm tôi cực kì ngạc nhiên. Tôi hiếm khi khóc, mà nếu có thì cũng vì tức giận nhiều hơn là vì buồn rầu. Vả lại, cha thường bật cười khi trông thấy tôi giọt vắn giọt dài” [3; 10]. Cậu cũng không hiểu tại sao cha lại biến mất “Tôi vừa mới ốm dậy, hay nói đúng hơn, tôi vừa mới bò ra được khỏi giường. Nhưng tôi vẫn nhớ hồi tôi mới ốm, cha vẫn luôn quanh quẩn bên giường để chăm sóc và đùa giỡn với tôi. Thế rồi một ngày nọ đột nhiên cha biến mất, thay vào đó là bà ngoại tôi - người vô cùng lạ lẫm, tôi chưa từng thấy bao giờ” [3; 6]. Sự đáng thương của cậu còn được thể hiện ở hình ảnh những con ếch nhái bị chôn vùi cùng chiếc quan tài của cha cậu, đến khi rời khỏi cậu vẫn không ngừng lo lắng cho đám ếch ấy mà tuyệt nhiên không có một lời nào nhắc về cha “Thế lũ ếch ấy có thoát ra được không hở bà?” [3; 10]. Những suy nghĩ non nớt, ngây ngô của cậu bé như ngàn mũi dao chĩa thẳng vào trái tim của những người đang sống. Sau khi cha mất, cậu về quê ngoại sống, đó là một thị trấn xinh đẹp nằm ở ngã ba sông nhưng mảnh đất ấy vốn chẳng bình yên như vẻ bề ngoài của nó. Những con người ở đó tạo ra cảm giác khó chịu với Alexei “Tôi không thích bọn họ, cả người lớn lẫn trẻ con. Tôi cảm thấy mình như người lạ ở giữa họ. Thậm chí ngay cả bà cũng bằng một cách nào đó mà trở nên xa cách và lạ lẫm với tôi. Đặc biệt tôi rất không thích cậu. Vừa gặp, tôi đã cảm thấy cậu ở phía đối nghịch với mình, với cậu tôi chỉ cảm thấy vừa tò mò vừa e ngại” [3; 22]. Và ngay cả ngôi nhà mà cậu sống cũng vô cùng đáng ghét “Từ ngoài đường nhìn vào ngôi nhà trông có vẻ rộng rãi, nhưng bước vào bên trong mới biết nó đã bị ngăn thành nhiều phòng hẹp tối om và chật chội. Mọi người ra ngấm vào nguýt lẫn nhau, ai nấy đều cáu bẳn chẳng khác gì ở chỗ cầu tàu, và có một mùi gì kinh tởm bao trùm cả căn nhà. Tôi bước ra ngoài sân, nhưng ngay cả nó cũng đáng ghét” [3; 22]. Ngay từ đầu Alexei đã không thể hòa hợp với cuộc sống nơi đây, bầu không khí cũng làm cậu cảm thấy chán ghét, ngôi nhà ấy và cả những con người ấy chính là những nỗi đau cũng vừa là nguồn cảm hứng văn chương sau này của cậu. Những người trong gia đình cậu bé Alexei thật kì lạ, họ “yêu thương” nhau bằng bạo lực và sự ghanh ghét đố kị “Người nhà Kashmirin không thích 10 những ai tốt đẹp đâu. Họ ghen ghét, họ khó chịu, họ tìm cách tống khứ đi cho khuất mắt” [3; 61]. Và Alexei cũng không phải là ngoại lệ, cậu thường xuyên “được” ông ngoại dạy dỗ bằng những trận đòn roi như mưa đến chết đi sống lại “Tôi chết ngất đi giữa trận đòn của ông. Tôi ốm suốt mấy hôm sau, phải nằm sấp trên một chiếc giường rộng nhưng ngột ngạt, bí bức trong căn phòng bé tẹo chỉ có mỗi một cửa sổ cùng ngọn đèn tù mù đặt ở góc phòng” [3; 38]. Và cũng chính trận đòn ấy đã mở đường cho trái tim cậu “Nhưng cũng chính những ngày đen tối ấy lại là quãng thời gian đáng ghi nhớ nhất của cuộc đời tôi. Bản thân tôi đã thay đổi và trưởng thành hơn rất nhiều. Tôi bắt đầu biết quan tâm đến người khác, trái tim tôi giống như vừa bị xé toạc và trở nên đặc biệt nhạy cảm với mọi nỗi đau đớn cùng sự sỉ nhục dù là của bản thân tôi hay người khác” [3; 38]. Ai rồi cũng sẽ khác, dù là nỗi đau hay niềm vui, nước mắt hay nụ cười thì tất cả đều khiến chúng ta mạnh mẽ hơn, thấu hiểu hơn. Nhưng đòn roi chẳng thể dập tắt hơi thở sống mãnh liệt của cậu bởi tâm hồn ấy luôn được nuôi lớn từng ngày bằng tình yêu thương vô bờ bến của bà ngoại - một người phụ nữ hiền hậu “Lời nói của bà nhỏ nhẹ bổng trầm khắc sâu trong tâm trí tôi như những đóa hoa ngát hương tươi thắm vĩnh hằng” [3; 16]. Bà chẳng khác nào một bà tiên xuất hiện đúng giây phút cậu cần một người quan tâm, vỗ về thay thế cho người cha quá cố của cậu. Ngay từ nhỏ Alexei đã bộc lộ bản chất là một cậu bé thông minh “Tôi học đọc và viết khá dễ dàng” [3; 110]. Không chỉ vậy Alexei còn là một cậu bé có tấm lòng nhân ái “Những vết bầm tím, xây xước không làm tôi sợ, song sự tai ác của lũ trẻ cùng các lề luật tàn bạo của đường phố luôn khiến tôi điên tiết. Tôi không sao kìm lòng nổi khi chứng kiến chúng trêu chọc chó và gà, hành hạ mèo, dọa lũ dê của mấy người Do Thái sợ chạy toán loạn, trêu chọc những người lang thang say xỉn, và nhất là khi chúng vui sướng hét váng lên “Lão Igosha - Tử thần trong túi!” [3; 152]. Nhưng trái tim cậu đau lòng hơn cả là “cảnh tượng bác thợ cả Gregory Ivanovithch, nay đã mù, phải ăn xin trên phố” [3; 154]. Alexei vẫn đang độ tuổi trẻ thơ, mà đã là trẻ thơ thì sẽ vô cùng bướng bỉnh và nghịch ngợm. Mặc cho sự cấm đoán của ông, Alexei không thể từ bỏ 11 thú vui của mình với những “trận chiến” cùng lũ trẻ hàng xóm “Bọn trẻ con tụ tập ở bờ dốc lập tức ném tới toi những viên đá hay sỏi nho nhỏ, tôi cũng ném trả lại bọn nó đầy hứng thú” [3; 109]. Chúng luôn coi cậu là “kẻ thù” và một mình cậu không ngại “chiến đấu” với tất cả “Tôi đang hào hứng bước vào trận chiến mà một mình chơi lại cả lũ, càng hào hứng hơn bởi những viên đá nhỏ trong tay tôi ném bao giờ cũng trúng đích khiến tụi kia bỏ chạy tán loạn hoặc phải lẩn trốn vào các bụi cây” [3; 110]. Ở độ tuổi của Alexei, đáng nhẽ ra cậu phải có một cuộc sống vô tư, hồn nhiên như bao đứa trẻ cùng trang lứa, thời điểm ấy ít ai có thể hiểu được trong hình hài nhỏ bé ấy luôn tồn tại sự cô đơn đáng sợ đến nhường nào “Cuộc sống của tôi thật nặng nề, tôi cảm thấy tuyệt vọng khi cố gắng tìm người đồng cảm với mình. Tôi tìm mọi cách che giấu tâm trạng của mình đi, để bên ngoài tôi vẫn là một đứa trẻ vô tư, hiếu động, ngang bướng” [3; 232]. Alexei có một gia đình nhưng chính những con người ấy lại khiến cậu cảm thấy cô độc với nỗi buồn nội tâm giằng xé. Nghịch ngợm, hiếu động là thế nhưng tất cả chỉ là vỏ bọc che đi đôi mắt đượm buồn và một trái tim thơ trẻ đang rỉ máu. Alexei cô đơn đến mức đã có những lúc khi nhìn những đứa trẻ khác chơi đùa vui vẻ, cậu “đã chơi cùng chúng trong ý nghĩ, và có lúc đã say sưa đến mức không biết rằng mình đã hét lên hoặc cười thật to” [3; 199]. Alexei là một đứa trẻ rất liều lĩnh, cậu phản ứng dữ dội để trả thù những kẻ dám bắt nạt người thân của cậu. Đó là khi mụ chủ quán ném củ cà rốt vào người bà và chửi rủa độc ác khiến Alexei vô cùng căm phẫn, cậu quyết trả thù bằng được “Rình lúc mụ vợ chủ quán xuống hầm, tôi sập cửa và khóa trái lại ngay. Tôi sung sướng nhảy nhót trên nắp hầm một hồi rồi ném chìa khóa lên mái nhà” [3; 140]. Hay cậu sẽ nổi giận ném chăn gối, ủng vào người ông ngoại và cắt nát cuốn lịch mà ông yêu quý khi ông dám đánh bà. Tệ hại hơn là có lần cậu đã dùng con dao đâm vào cha dượng khi ông ta đánh đập mẹ “Tôi nghe thấy tiếng ông ta đánh mẹ tôi, và khi chạy vào tôi thấy mẹ khuỵu ngã xuống đất” [3; 321]. Cảnh tượng mất nhân tính ấy diễn ra ngay trước mắt Alexei nó khiến cậu không chịu đựng được nữa “Tôi chộp lấy con dao cán bạc ở trên bàn vốn dùng để cắt bánh mì. Đây là vật duy nhất còn lại thuộc về bố tôi mà mẹ vẫn còn giữ đến tận lúc bấy giờ. Và tôi lấy hết sức bình sinh đấm tới. May 12 mắn thay mẹ tôi đã kịp đẩy Maximov ra khỏi tầm dao, khiến nó chỉ làm cái áo khoác rách một lỗ và làm ông ta bị trầy xước” [3; 321]. Cậu không độc ác, cũng không phải là một đứa trẻ hư, trong người cậu không chứa mầm mống của một tên lưu manh, những phản ứng mỗi lúc một dữ dội của cậu chỉ là hệ quả tất yếu bởi những tổn thương dồn nén quá sức chịu đựng của một đứa trẻ, nó thôi thúc cậu phải đứng lên bênh vực lẽ phải, bênh vực kẻ yếu. Alexei cũng là một đứa trẻ “cá biệt” đến mức đáng yêu, những suy nghĩ và trò “trả đũa” của cậu thật khiến người ta phải bật cười. Khi được đến trường học, cậu nhanh chóng kết bạn được với lũ con trai nhưng trong mắt giáo viên cậu là một thằng nhóc cá biệt và cái tên của cậu đã được đưa vào “danh sách đen” khiến Alexei cảm thấy vô cùng khó chịu “Điểm khó ưa nhất trên gương mặt của thầy có lẽ là đôi mắt màu xám lạnh như chì. Nó luôn dán vào tôi đến mức tôi ước gì có thể dùng tay để bóc toạc ánh nhìn khỏi mặt mình mà quoẳng đi” [3; 309]. Và cậu được các thầy quan tâm đến mức dành cho cậu một vị trí đặc biệt ngay tại bàn đầu đối diện bàn giáo viên, ông thầy “dường như chả buồn đếm xỉa đến đứa học trò nào khác” [3; 309] chỉ săm soi có riêng Alexei “Trò Pyeshkov, không được mặc đồ dơ đến lớp… Trò Pyeshkov, đừng có mà lấy chân làm ồn… Trò Pyeshkov, em chưa buộc dây giày kìa” [3; 309]. Sự “quan tâm” thái quá của thầy mỗi lúc một tăng dần và khiến Alexei không chịu đựng được nữa. Có lẽ thầy không biết rằng trò Alexei của thầy là một thằng nhóc không dễ bị người khác bắt nạt, cậu sẽ phản kháng lại ngay bằng những cách trả thù hết sức oái oăm và vô cùng sáng tạo “Một ngày nọ, tôi lấy nửa quả dưa hấu đã đông lạnh, nạo phần thịt dưa đi, rồi buộc nó vào sợi dây treo ngay ở cửa ra vào. Lúc thầy giáo mở cửa, quả dưa bị rút lên cao, nhưng khi vừa đóng cửa lại thì nó rơi ụp ngay xuống đầu thầy như một cái mũ ngộ nghĩnh” [3; 309]. Chưa dừng lại ở đó, vào một lần khác cậu “rải bột thuốc lá lên bàn thầy giáo, khiến ông ta hắt hơi đến mức phải bỏ dở tiết giảng và nhờ người em rể đến trông lớp hộ” [3; 309]. Cậu bé Alexei bé bỏng không ngờ rằng trường học giống như “kẻ thù” không đội trời chung với cậu, bởi lẽ ngay đến cả giáo viên dạy môn Thần học cũng không ưa cậu vì cậu không có sách Kinh Thánh nhưng cậu lại vô cùng yêu mến thầy. Những tưởng rằng cậu sẽ bị sớm đuổi học nhưng may thay vào những thời điểm Alexei 13 cảm thấy tuyệt vọng nhất thì luôn có những bàn tay sẵn sàng chia ra để giúp đỡ cậu bé. Đó là chuyến viếng thăm không báo trước của ngài giám mục Khrisanph, ông đã mở ra ánh sáng cho con đường tăm tối của cậu, tiếp thêm sức mạnh để cậu vững bước trên con đường khai hóa văn hóa cho bản thân. Khi được bác Peter hỏi về ước mơ sau này, cậu không ngại ngần trả lời rằng sẽ đi lính. Một lần khác, khi được Sascha con trai cậu Michael rủ cậu bỏ nhà để gia nhập hội của bọn cướp, Alexei đã từ chối, bởi lúc này cậu “Đã muốn trở thành một sĩ quan có thanh gươm lóe sáng” [3; 258] để diệt những kẻ ác. Điều này cho chúng ta thấy được ngay từ nhỏ mặc dù phải sống trong những điều dơ bẩn của xã hội nhưng tâm cậu luôn sáng và phân biệt được những gì nên làm. Với tư duy của một đứa trẻ sớm trải qua những nỗi đau cắt da xé thịt cậu không cho phép mình lầm đường lạc lối. Và quả thật như vậy, khi lớn lên cậu bé ấy đã đi theo ánh sáng của cách mạng, đi theo con đường chân chính đưa người Nga thoát khỏi những tư tưởng sai lệch và giúp họ tìm thấy một cuộc sống hạnh phúc hơn, ấm no hơn. Khi phải chứng kiến thường xuyên những giọt nước mắt, những tiếng cãi cọ hay những sự giày vò lẫn nhau trong gia đình, cậu bé Alexei bé bỏng ngày nào còn cảm thấy đau đớn thì giờ đây trái tim cậu trở nên chai sạn và quen dần với chúng, những chuyện ấy không còn làm cậu kích thích hay đau lòng nữa. Cậu thu mình và trở nên lạnh nhạt với cuộc sống “Tôi cũng trở nên thờ ơ hơn, không muốn kết thân với ai hết. Ngay cả tiếng reo vui vẻ của lũ trẻ con nhà Ovsyanikov cũng không còn mời gọi được tôi nữa. Và tôi thấy khó chịu khi mấy đứa em họ đến chơi… Những cuộc trò chuyện của ông tôi dần tẻ nhạt, chỉ toàn những lời càm ràm ai oán. Chúng khiến tôi chán ngấy” [3; 299]. Phải chăng nỗi đau nối tiếp nỗi đau khiến trái tim cậu trở nên vô cảm và tê liệt, cậu như người sống dở chết dở lạc lõng giữa dòng đời. Ngay từ nhỏ, Alexei đã bộc lộ ra bên ngoài là một đứa trẻ ham hiểu biết, thích học hỏi. Những vụ rắc rối ở trường học liên tiếp xảy ra, bị thầy ghét, các bạn trêu chọc, chế nhạo, nào là “Thằng ăn xin” [3; 340] hay “Thằng nhặt giẻ rách” [3; 340]. Trái tim cậu đã tổn thương biết nhường nào khi ngay cả ở trường không cũng không nhận được sự đồng cảm. Nhưng với lòng quyết tâm và nghị lực phi thường, lòng ham hiểu biết, yêu tri thức không chịu khuất phục 14 trước những thử thách của cuộc sống cuối cùng cậu cũng vượt qua được kì thi lên lớp 3. Những nỗ lực của cậu đã được đền đáp bằng quả ngọt “Tôi được nhà trường thưởng cho cuốn Phúc Âm cùng tập ngụ Thơ Ngụ Ngôn của Krilov đóng bìa cứng hẳn hoi, và cuốn Fata-Morgana, tuy còn mới nhưng lại không có bìa” [3; 341]. Cậu cũng được thưởng cả tấm bằng khen khiến ông ngoại vui khôn tả “Lúc tôi đem những phần thưởng ấy về nhà, ông tôi mừng lắm” [3; 341]. Đó chính là minh chứng sống của một con người vượt nghèo, vượt khổ bước đầu dành được sự vẻ vang cho bản thân và gia đình. Cuộc đời nhiều đau buồn nhưng Alexei lại có những suy nghĩ tích cực, lạc quan về cuộc sống. Đó là khi cậu được chơi với lũ bạn nghèo trong những năm tháng cậu đi nhặt rác và trộm gỗ cùng ván trên sông Oka “Và nhìn đi nhìn lại thì tôi thấy rằng chúng tôi sống cũng chẳng khổ. Bởi theo tôi, thì tôi rất thích cuộc sống tự do tự tại theo ý mình. Tôi càng quý mến mấy đứa bạn này, chúng đã cho tôi những cảm tình sâu sắc, và tôi luôn mong mỏi được làm những điều tốt nhất cho chúng” [3; 340]. Sau cái chết của mẹ, ông ngoại “đuổi” Alexei ra khỏi nhà và cách cậu chấp nhận nó vô cùng thản nhiên “Và thế là tôi bước vào đời” [3; 350]. Cậu chấp nhận bị “tống cổ” ra khỏi nhà như một điều hiển nhiên không sớm thì muộn, như thể cậu đã chờ câu nói này từ rất lâu. Alexei bước vào đời với hai bàn tay trắng, cậu kiếm sống bằng đủ mọi nghề với những đắng cay, tủi nhục. Càng đau khổ bao nhiêu, trái tim cậu càng cứng cáp và trưởng thành bấy nhiêu. Bóng tối không làm ta mù đường, càng tối bao nhiêu những chân lí sống đẹp đẽ càng sáng bấy nhiêu. Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, Alexei đã mang đầy đủ những đặc tính di truyền của “người mẹ” sinh ra cậu. Chính vì vậy, mặc dù tuổi còn rất nhỏ, nhưng cậu đã chẳng sợ bất cứ thứ lao động nào. Cậu không ngừng miệt mài lao động và học tập. Đôi bàn tay nhỏ bé ấy trở nên thô ráp nhưng thứ mà cậu nhận được còn đáng quý hơn nhiều. Người ta nhìn thấy ở cậu lấp lánh lí tưởng sống cao đẹp và khát vọng vươn lên chinh phục giành lấy sự sống. Số phận của Maxim - em trai ruột của Alexei, Sacha và em Nikolai em cùng mẹ khác cha của Alexei 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan