CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
TẠI DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo
lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định. Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận
trong hệ thống tài chính, tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi
thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh
nghiệp có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền
sản xuất.
(Nguồn: PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, 2003, Giáo trình tài chính doanh nghiệp hiện
đại, NXB Thống Kê)
Bản chất của tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình phân phối các nguồn lực tài chính, được thực hiện thông qua quá trình
huy động và sử dụng các loại vốn, quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.1.2. Chức năng và vai trò của tài chính doanh nghiệp
Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Xác định và tổ chức các nguồn vốn nhằm bảo đảm nhu cầu sử dụng vốn cho quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để thực hiện sản xuất kinh doanh trong điều kiện của cơ chế thị trường có hiệu
quả đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn và có phương án tạo lập, huy động vốn cụ
thể.
+ Thứ nhất, phải xác định nhu cầu vốn (vốn cố định và vốn lưu động) cần thiết
cho quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Thứ hai, phải xem xét khả năng đáp ứng nhu cầu vốn và các giải pháp huy
động vốn:
+ Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng thì doanh nghiệp phải huy động thêm vốn, tìm
kiếm mọi nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn thấp nhưng vẫn bảo đảm có hiệu quả.
+ Nếu khả năng lớn hơn nhu cầu thì doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, mở
rộng thị trường hoặc có thể tham gia vào thị trường tài chính như đầu tư chứng khoán,
cho thuê tài sản, góp vốn liên doanh...
+ Thứ ba, phải lựa chọn nguồn vốn và phương thức thanh toán các nguồn vốn
sao cho chi phí doanh nghiệp phải trả là thấp nhất trong khoảng thời gian hợp lý.
1
Chức năng phân phối thu nhập của doanh nghiệp:
Chức năng phân phối biểu hiện ở việc phân phối thu nhập của doanh nghiệp từ
doanh thu bán hàng và thu nhập từ các hoạt động khác. Nhìn chung, các doanh nghiệp
phân phối như sau:
+ - Bù đắp các yếu tố đầu vào đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh như
chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí vật tư, chi phí cho lao động và các chi phí
khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (nếu có lãi).
+ - Phần lợi nhuận còn lại sẽ phân phối như sau:
Bù đắp các chi phí không được trừ.
Chia lãi cho đối tác góp vốn, chi trả cổ tức cho các cổ đông.
Phân phối lợi nhuận sau thuế vào các quỹ của doanh nghiệp.
-
Chức năng giám đốc đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
Giám đốc tài chính là việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Việc thực hiện chức năng này thông qua các
chỉ tiêu tài chính để kiểm soát tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất - kinh doanh và
hiệu quả sử dụng vốn cho sản xuất - kinh doanh. Cụ thể qua tỷ trọng, cơ cấu nguồn
huy động, việc sử dụng nguồn vốn huy động, việc tính toán các yếu tố chi phí vào giá
thành và chi phí lưu thông, việc thanh toán các khoản công nợ với ngân sách, với
người bán, với tín dụng ngân hàng, với công nhân viên và kiểm tra việc chấp hành kỷ
luật tài chính, kỷ luật thanh toán, kỷ luật tín dụng của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó
giúp cho chủ thể quản lý phát hiện những khâu mất cân đối, những sơ hở trong công
tác điều hành, quản lý kinh doanh để có quyết định ngăn chặn kịp thời các khả năng
tổn thất có thể xảy ra, nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Đặc điểm của chức năng giám đốc tài chính là toàn diện và thường xuyên
trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
-
Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp được ví như những tế bào có khả năng tái tạo,
hay còn được coi như “cái gốc của nền tài chính”. Sự phát triển hay suy thoái của sản
xuất- kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Vì vậy vai
trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu
cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý,
sau đó nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý
kinh tế vĩ mô của nhà nước.
- Tài chính doanh nghiệp- một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh.
2
Thang Long University Library
Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải
có một yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh.
Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp
nghiệp nhà nước được nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn
không được đạt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nước
chỉ là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển
những ngành nghề mới nhằm thu hút được lợi nhuận cao... đã trở thành động lực và là
một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền
kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn. Trong
điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác
thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và
phát triển của mình.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và
hiệu quả.
Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu
quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh
nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng các số liệu của kế
toán và bảng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ tài chính có khả năng
phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn được vốn, mặt
khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh
lời của vốn kinh doanh.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh
doanh.
Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính
doanh nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ
thống ngân hàng thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên
góp vốn đầu tư liên doanh và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh
nghiệp...Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể được diễn ra khi cả hai bên cùng
có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lý có thể sử
dụng các công cụ tài chính như đầu tư, xác định lãi suất, tiền lương, tiền thưởng để
kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn nhằm
thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh.
3
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Thông qua các chỉ tiêu tài chính
như: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn...có thể
dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất
kinh doanh.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh
nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ
thống các chỉ tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh
tế của doanh nghiệp.
1.1.3. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc xem xét đánh giá kết quả của việc quản
lý và điều hành tài chính của doanh nghiệp thông qua các số liệu trên báo cáo tài
chính. Phân tích những gì đã làm được, chưa làm được và dự đoánh những gì xảy ra
đồng thời tìm ra nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp để từ đó đề ra các biện pháp tận dụng những điểm mạnh và
khắc phục những điểm yếu và nâng cao chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Phân tích tài chính là việc ứng dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích đối với các
báo cáo tài chính tổng hợp và mối liên hệ giữa các dữ liệu để đưa ra các dự báo và các
kết luận hữu ích trong phân tích hoạt động kinh doanh. Phân tích tài chính còn là việc
sử dụng các báo cáo tài chính để phân tích năng lực và vị thế tài chính của một Công
ty, để đánh giá năng lực tài chính trong tương lai.
1.1.4. Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp bao gồm những nội dung cơ bản sau:
xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, tìm kiếm và huy động nguồn vốn đáp ứng
tốt nhu cầu và sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động tài chính đóng vai
trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và có ý
nghĩa quyết định trong việc hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vai trò
đó thể hiện ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, trong việc thiết lập các dự án đầu tư
ban đầu, dự kiến hoạt động, gọi vốn đầu tư.
Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, thì các doanh nghiệp cần phải có một
lượng vốn nhất định, bao gồm: vốn cố định, vốn lưu động và các vốn chuyên dùng
khác. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải có những giải pháp hữu hiệu để tổ chức huy
4
Thang Long University Library
động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài
chính, tín dụng và chấp hành luật pháp. Việc tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ
giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực
trạng của hoạt động tài chính, xác định đầy đủ và đúng đắn các nguyên nhân, mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Từ đó, có những
giải pháp hữu hiệu nhằm ổn định và nâng cao tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở
nước ta hiện nay, các doanh nghiệp đều có quyền bình đẳng trước pháp luật trong kinh
doanh thì người ta chỉ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các khía
cạnh khác nhau như: các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng...Nhưng
vấn đề mà người ta quan tâm nhiều nhất là khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng
sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp. Bởi vậy, trong
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thì cần phải đạt được các mục tiêu chủ
yếu sau đây:
+ Một là: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ, kịp thời, trung thực
hệ thống những thông tin hữu ích, cần thiết phục vụ cho chủ doanh nghiệp và các đối
tượng quan tâm khác như: các nhà đầu tư, hội đồng quản trị doanh nghiệp, người cho
vay, các cơ quan quản lý cấp trên và những người sử dụng thông tin tài chính khác,
giúp họ có quyết định đúng đắn khi ra quyết định đầu tư, quyết định cho vay.
+ Hai là: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin quan
trọng nhất cho các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, nhà cho vay và những người sử
dụng thông tin tài chính khác trong việc đánh giá khả năng và tính chắc chắn của các
dòng tiền vào, ra và tình hình sử dụng vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh
toán của doanh nghiệp.
+ Ba là: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin về
nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình, sự kiện, các tình huống
làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.1.5. Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tài chính của
doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc
kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình hình tài
chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ doanh nghiệp và các đối tượng bên
ngoài có liên quan đến tài chính của doanh nghiệp.
5
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp.
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích tài
chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài doanh
nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân
tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tài chính tốt nhất.
Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác nhau
như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt
được mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ.
Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin nhằm thực
hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến hành cân đối
tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính, quyết định
đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần.
- Đối với các nhà đầu tƣ.
Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng
thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện tài chính, tình hình
hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư
còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác quản lý. Những điều đó tạo ra sự
an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư.
- Đối với các nhà cho vay.
Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua việc
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới số lượng tiền và
các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so sánh được và biết
được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Giả sử chúng ta đặt mình vào trường hợp là người cho vay thì điều đầutiên chúng
ta chú ý cũng sẽ là số vốn chủ sở hữu, nếu như ta thấy không chắc chắn khoản cho vay
của mình sẽ đựoc thanh toán thì trong trường hợp doanh nghiệp đó gặp rủi ro sẽ không
có số vốn bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng quan tâm đến khả năng sinh lời của
doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay.
- Đối với cơ quan nhà nƣớc và ngƣời làm công.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, từ đó đưa ra các quyết
định đầu tư bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước nữa hay không.
6
Thang Long University Library
Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư... người lao động có nhu cầu thông
tin cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng
hiện tại và tương lai của họ.
1.2. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Tài liệu phân tích
1.2.1.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý
nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và
quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường, bảng cân đối kế toán được trình bày
dưới dạnh bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán, một bên phản ánh tài sản và một
bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có
đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: Tài sản
cố định và tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài
sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và các
khoản nợ.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng thanh
khoản giảm dần từ trên xuống dưới.
Bên tài sản
Tài sản lưu động (tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản phải thu, dự
trữ), tài sản tài chính, tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Bên nguồn vốn
Nợ ngắn hạn (nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả khác, nợ
ngắn hạn các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác), nợ dài hạn (nợ vay
dài hạn các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát
hành trái phiếu công ty), vốn chủ sở hữu (thường bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi
nhuận không chia và phát hành cổ phiếu mới).
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản, bên
nguồn vốn phải ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính
của doanh nghiệp.
Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu:
Số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng còn có một số
khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: Một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hóa
nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hóa nhận bán hộ, ngoại tệ các loại…
7
Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình
doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế
toán là một tư liệu quan trọng giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân
bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
Một thông tin quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin
phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo
kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh
doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp
trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp các nhà phân tích dễ dàng so
sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ; so sánh tổng chi
phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh
thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh; lãi hay lỗ trong
năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh
doanh, phản ánh tình hình tài chính doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó
cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về
vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh:
doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu
từ hoạt động bất thường và các khoản chi phí tương ứng với các khoản doanh thu đó.
Những loại thuế như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất
không phải là doanh thu và cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không
được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh
nghiệp và các khoản phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước.
1.2.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hay báo cáo dòng tiền mặt là một loại báo cáo tài
chính thể hiện dòng tiền ra và dòng tiền vào của một tổ chức trong một khoảng thời
gian nhất định (tháng, quý hay năm tài chính).
Báo cáo này là một công cụ giúp nhà quản lý tổ chức kiểm soát dòng tiền của tổ
chức. Bảng báo cáo lưu chuyền tiền tệ thông thường gồm có:
- Dòng tiền vào:
+ Các khoản thanh toán của khách hàng cho việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ
+ Lãi tiền gửi từ ngân hàng
+ Lãi tiết kiệm và lợi tức đầu tư
8
Thang Long University Library
+ Đầu tư của cổ đông
- Dòng tiền ra:
+ Chi mua cổ phiếu, nguyên nhiên vật liệu thô, hàng hóa, công cụ dụng cụ…
+ Chi trả lương, tiền thuê và các chi phí hoạt động hàng ngày
+ Chi mua tài sản cố định, máy tính cá nhân, máy móc, thiết bị văn phòng,…
+ Chi trả lợi tức
+ Chi trả thuế TNDN, thuế giá trị gia tăng và các thuế và phí khác.
1.2.1.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo tổng hợp được sử dụng để giải
thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài
chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác chưa trình bày
rõ ràng, chi tiết và cụ thể được.
- Thuyết minh báo cáo tài chính có các tác dụng chủ yếu sau:
+ Cung cấp số liệu, thông tin để phân tích đánh giá một cách cụ thể, chi tiết hơn
về tình hình chi phí, thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Cung cấp số liệu, thông tin để phân tích, đánh giá tình hình tăng giảm tài sản cố
định theo từng loại, từng nhóm; tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu theo từng loại
nguồn vốn và phân tích tính hợp lý trong việc phân bổ vốn cơ cấu, khả năng thanh
toán của doanh nghiệp...
+ Thông qua thuyết minh báo cáo tài chính mà biết được chế độ kế toán đang áp
dụng tại doanh nghiệp từ đó mà kiểm tra việc chấp hành các quy định, thể lệ, chế độ kế
toán, phương pháp mà doanh nghiệp đăng ký áp dụng cũng như những kiến nghị đề
xuất của doanh nghiệp.
1.2.2. Quy trình thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Xác định mục tiêu phân tích
Đây là công viêc quan trọng, quyết định tới chất lượng của báo cáo phân tích và
tác động đến mức độ hài lòng của các đối tượng sử dụng. Việc xác định mục tiêu phân
tích phụ thuộc vào mục đích và ra quyết định của đối tượng sử dụng báo cáo tài chính.
1.2.2.2. Xác định nội dung cần phân tích
Sau khi đã xác định được mục tiêu phân tích, nhà phân tích sẽ xác định các nội
dung cần phân tích để đạt được các mục tiêu đó. Việc xác định nội dung cần phân tích
sẽ đảm bảo cung cấp các thông tin hữu ích nhất cho các đối tượng sử dụng để ra quyết
định hợp lý.
9
1.2.2.3. Thu thập dữ liệu cần phân tích
Căn cứ vào nội dung cần phân tích, nhà phân tích sẽ tiến hành thu thập dữ liệu
phân tích. Các dữ liệu phân tích có thể ở bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp, có
thể thu thập được một cách dễ dàng hoặc khó khăn. Không ai có thể chắc chắn rằng
nhà phân tích luôn thu thập được đầy đủ dữ liệu cần thiết phục vụ cho việc phân tích.
Việc không thể thu thập được đầy đủ dữ liệu sẽ dẫn đến hạn chế của kết quả phân tích.
Bên cạnh đó, để đảm bảo cho tính hữu ích của dữ liệu thu thập được, nhà phân tích cần
kiểm tra tính tin cậy của dữ liệu. Nhà phân tích nên tiếp cận các dữ iệu có nguồn hợp
pháp để nâng cao mưc độ tin cậy của dữ liệu.
1.2.2.4. Xử lý dữ liệu phân tích
Sau khi thu thập được dữ liệu, nhà phân tích sẽ sử dụng các phương pháp hợp lý
để xử lí dữ liệu theo các nội dung phân tích đã xác định. Dữ liệu sau khi được xử lý sẽ
là nguồn thông tinh hữu ích để nhà phân tích nhận định tổng quát cũng như chi tiết
thực trạng vấn đề phân tích, lý giải nguyên nhân cho thực trạng đó và đề xuất kiến
nghị cho các đối tượng sử dụng.
1.2.2.5. Tổng hợp kết quả phân tích
Tổng hợp các kết quả phân tích là bước cuối cùng, kết thúc quá trình phân tích tài
chính doanh nghiệp. Trong bước này, nhà phân tích viết báo cáo về kết quả phân tích
gửi các đối tượng sử dụng. Các hạn chế của kết quả phân tích (như không đủ dữ liệu
phân tích) cũng cần được công cố trong báo cáo.
1.3. Các phƣơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1. Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp tỷ lệ cũng thường được sử dụng trong phân tích tài chính. Các tỷ số
tài chính được thiết lập để phân tích chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Trong phương
pháp này, các tỷ số được chia thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ
bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Một số nhóm tỷ số tài chính:
- Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán: phản ánh khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ
của doanh nghiệp.
- Nhóm tỷ số về khả năng quản lý tài sản: phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn
lực có sẵn của doanh nghiệp.
- Nhóm tỷ số về khả năng quản lý nợ: đánh giá việc sử dụng nợ vay của doanh
nghiệp.
- Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời: cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu
tố đầu vào trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
10
Thang Long University Library
Phân tích tỷ số là công cụ đầy sức mạnh trong việc phát hiện sớm các vấn đề nếu
nó được sử dụng đầy đủ. Bởi việc tính toán các tỷ số dễ dàng thực hiện, không mất
nhiều thời gian và cho cái nhìn trực quan về mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong báo
cáo tài chính. Hơn nữa, việc tính toán này có thể thực hiện trong nhiều thời điểm, có
thể sau 1 tháng, 1 quý hay 1 năm hoặc bất cứ thời điểm nào nên có thể giúp phát hiên
sớm các biến động tài chính bất thường. Mặc dù vậy, phương pháp này chỉ mang tính
thời điểm, không phản ánh được cả một thời kỳ, một giai đoạn hoạt động của doanh
nghiệp. Vì thế các tỷ số này phải được xem xét liên tục và phải xác định nguyên nhân
gây ra kết quả đó như từ HĐKD, môi trường kinh tế, yếu kém trong tổ chức, quản lý
của doanh nghiệp, các nguyên nhân, yếu tố trên mang tính tạm thời hay dài hạn, khả
năng khắc phục của doanh nghiệp, biện pháp khắc phục có khả thi hay không.
1.3.2. Phương pháp so sánh
phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân
tích kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng. Mục đích của phương pháp so
sánh là làm rõ sự khác biệt hay những đặc trưng riêng có của đối tượng nghiên cứu, từ
đó, giúp cho các đối tượng quan tâm có căn cứ để đề ra quyết định lựa chọn. Khi sử
dụng phương pháp so sánh, các nhà phân tích cần chú ý một số vấn đề sau đây:
- Điều kiện so sánh:
+ Các tỷ số phải thống nhất về nội dung và phương pháp tính toán.
+ Các tỷ số phải cùng đơn vị đo lường.
- Nội dung so sánh:
+ So sánh thực tế kì này với kì trước để thấy xu thế thay đổi về tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
+ So sánh giữa số liệu thực tế và kế hoạch để đánh giá mức độ hoàn thành của
doanh nghiệp.
+ So sánh số liệu của doanh nghiệp với doanh nghiệp khác hoặc với trung bình
ngành. Điều này giúp doanh nghiệp đánh giá tình hình tài chính của mình không chỉ so
với các năm gốc mà còn biết mình đang đứng ở mức độ nào so với các doanh nghiệp
cùng ngành.
+ So sánh dọc và so sánh ngang.
Phân tích theo chiều ngang: là việc so sánh cả về số tuyệt đối và số tương đối
trên cùng một hàng (cùng một chỉ tiêu) trên các báo cáo tài chính. Qua đó thấy được
sự biến động của từng chỉ tiêu.
Phân tích theo chiều dọc: là việc xem xét xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu
trong tổng thể quy mô chung. Qua đó thấy được mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu
trong tổng thể.
11
- Kỹ thuật so sánh:
+ So sánh bằng số tuyệt đối: phản ánh tổng hợp số liệu, quy mô của các chỉ tiêu
kinh tế
Y Y1 Y0
+ So sánh bằng số tương đối: thể hiện mối quan hệ tốc độ phát triển
Y
Y1 Y0
100%
Y0
Trong đó:
là số liệu kì gốc dùng để so sánh, là số liệu của kì mang so sánh,
Y là giá trị chênh lệch.
Đây là phương pháp trực quan và đơn giản để thấy được sự thay đổi của các chỉ
tiêu tài chính từ đó có thể nhanh chóng đưa ra các nhận xét và đánh giá, tuy nhiên việc
so sánh không thể đạt hiệu quả cao nếu số liệu chỉ bó gọn trong thời gian ngắn, bởi
như thế sẽ không biết được xu hướng biến động theo chu kì và từ đó sẽ dễ có các kết
luận sai lệch.
1.3.3. Phương pháp loại trừ
Trong phân tích kinh doanh, nhiều trường hợp nghiên cứu ảnh hưởng của các
nhân tố đến kết quả kinh doanh nhờ phương pháp loại trừ.
Loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
đến kết quả kinh doanh, bằng cách khi xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố này,
thì loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
- Cách thứ nhất: có thể dựa trực tiếp vào mức độ biến động của từng nhân tố và
được gọi là phương pháp “số chênh lệch”.
+ Phương pháp tính số chênh lệch là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế
liên hoàn, nhằm phân tích nhân tố thuận, ảnh hưởng đến sự biến động của các chỉ tiêu
kinh tế.
+ Là dạng đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn, nên phương pháp tính số
chênh lệch tôn trọng đầy đủ nội dung các bước tiến hành của phương pháp liên hoàn.
Chúng chỉ khác ở chỗ là khi xác định các nhân tố ảnh hưởng đơn giản hơn, chỉ việc
nhóm các số hạng và tính chênh lệch các nhân tố sẽ ảnh hưởng cho ta mức độ ảnh hưởng
của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Như vậy phương pháp số chênh lệch chỉ được áp
dụng trong trường hợp các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng tích số và cũng có thể áp
dụng trong trường hợp các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng thương số.
- Cách thứ hai: Có thể dựa vào phép thay thế sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố
và được gọi là phương pháp “thay thế liên hoàn”.
12
Thang Long University Library
Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố đến sự biến động của từng chỉ tiêu phân tích. Quá trình thực hiện phương
pháp thay thế liên hoàn gồm các bước sau:
+ Bước 1: Xác định đối tượng phân tích là mức chênh lệch chỉ tiêu kỳ phân tích
so với kỳ gốc.
+ Bước 2: Thiết lập mối quan hệ của các nhân tố với chỉ tiêu phân tích và sắp xếp
các nhân tố theo trình tự nhất định, từ nhân tố lượng đến nhân tố chất
+ Bước 3: Lần lượt thay thế các nhân tố kỳ phân tích vào kỳ gốc theo trình tự sắp
xếp ở bước 2.
+ Bước 4: Xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích
bằng cách lấy kết quả thay thế lần sau so với kết quả thay thế lần trước (lần trước của
nhân tố đầu tiên là so với gốc) ta được mức ảnh hưởng của nhân tố mới và tổng đại số
của các nhân tố được xác định băng đối tượng phân tích.
1.3.4. Phương pháp Dupont
Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn
đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương
pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu
nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số
của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh
hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp.
Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện và
tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có
thể dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont để tìm ra nguyên
nhân chính xác.
Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng
ngành, các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt động của doanh
nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh nghiệp có thể sẽ
gặp phải. Nhà phân tích nếu biết kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp
phân tích Dupont sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp.
- Trước hết Doanh nghiệp cần xem xét mối quan hệ giữa tỷ số lợi nhuận sau thuế
trên doanh thu và tỷ số vòng quay tổng tài sản thông qua:
ROA
=
Lợi nhu n sau thuế
=
Lợi nhu n sau thuế
*
Doanh thu
Tổng tài sản
Doanh thu
Tổng tài sản
Đẳng thức trên cho thấy tỷ suất Lợi nhuận sau thuế trên Tổng tài sản (ROA) phụ
thuộc vào hai yếu tố là tỷ suất doanh lợi doanh thu và vòng quay tổng tài sản. Phân
13
tích đẳng thức này cho phép doanh nghiệp xác định được chính xácnguồn gốc làm
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp:
+ Để tăng ROA có thể dựa vào tăng tỷ suất doanh lợi doanh thu, tăng vòng quay
tổng tài sản, hoặc tăng cả hai. Để tăng tỷ suất doanh lợi doanh thu ta có thể dựa vào
việc tăng lợi nhuận sau thuế nhiều hơn tăng doanh thu. Để tăng vòng quay tổng vốn ta
có thể dựa vào tăng doanh thu và giữ nguyên tổng tài sản (nhưng khi tăng tỷ số tổng
tài sản trên vốn chủ để tăng ROE lại phải tăng tổng tài sản, nên ta có thể đảm bảo việc
tăng tỷ số này bằng cách tăng doanh thu nhiều hơn tăng tổng tài
- Doanh nghiệp cũng cần tính tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE
=
Lợi nhu n sau thuế
Lợi nhu n sau thuế
Vốn CSH
=
Doanh thu
*
*
Tổng tài sản
Doanh thu
Tổng tài sản
Vốn CSH
ROE = Tỷ suất sinh lời trên doanh thu x Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x Đòn
bẩy tài chính
Để tăng ROE có thể dựa vào tăng ROA, tăng tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở
hữu, hoặc tăng cả hai. Để tăng tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ ta có thể hoặc tăng tổng
tài sản, hoặc giảm vốn chủ sở hữu, hoặc vừa tăng tổng tài sản vừa giảm vốn chủ.
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.4.1. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả HĐKD của doanh nghiệp, cần đi sâu phân tích mối quan hệ
và tình hình biến động của các khoản mục trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khi phân
tích, cần tính ra và so sánh mức và tỷ lệ biến động giữa các kì trên từng chỉ tiêu. Đồng
thời, so sánh tình hình của từng chỉ tiêu so với doanh thu thuần và so sánh với số liệu
trung bình ngành để đánh giá xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp với doanh nghiệp khác.
Khi phân tích hiệu quả kinh doanh cần quan tâm phân tích một số chỉ tiêu sau:
- Phân tích doanh thu:
“Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp,
góp phần làm phát triển vốn chủ sở hữu ”.
Doanh thu của các doanh nghiệp bao gồm doanh thu bán hàng, doanh thu CCDV,
hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường.
14
Thang Long University Library
Phân tích doanh thu cần phải phân tích tốc độ phát triển qua các năm, qua đó thấy
được sự biến động và xu hướng phát triển của doanh thu làm cơ sở cho việc xây dựng
kế hoạch kinh doanh trung hạn hoặc dài hạn
- Phân tích chi phí:
Chi phí là sự hao phí thể hiện bằng tiền trong quá trình kinh doanh với mong
muốn mang về một sản phẩm dịch vụ hoàn thành hoặc một kết quả kinh doanh nhất
định. Chi phí phát sinh trong các hoạt động sản xuất, thương mai, dịch vụ nhằm đến
việc đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp: doanh thu và lợi nhuận.
Để phân tích được chi phí tham gia trong kỳ của doanh nghiệp, ta xem xét các
loại chi phí sau: chi phí giá vốn, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài
chính, chi phí khác. Do đó phân tích chi phí để biết xu hướng biến động của chỉ tiêu
này theo thời gian có hướng tích cực hay không và việc quản lý chi phí đã hiệu quả
chưa.
Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh: Là tất cả các loại chi phí liên quan đến
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như chi phí vật tư, khấu
hao TSCĐ, chi phí nhân công, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền.
Chi phí tài chính: Là các khoản chi phí hoặc các khoản chi có liên quan đến
HĐĐT tài chính như hoạt động đi vay, cho vay, góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tư
chứng khoán, mua bán ngoại tệ, cho thuê tài chính... bao gồm: Lãi tiền vay, lãi mua
trả chậm trả góp, chiết khấu thanh toán cho khách hàng, chi phí góp vốn liên doanh,
chi phí giao dịch bán chứng khoán, lỗ do bán chứng khoán ngắn hạn; dự phòng giảm
giá đầu tư chứng khoán.
Chi phí khác : Là chi phí liên quan đến các hoạt động khác của doanh nghiệp, bao
gồm: Chi phí thanh lý nhượng bán TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ thanh lý, nhượng
bán TSCĐ (nếu có); tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế; bị phạt thuế, truy nộp thuế;
các khoản chi phí khác do kế toán bị nhầm, hoặc bỏ sót khi ghi sổ kế toán và các
khoản chi phí khác.
Phân tích lợi nhu n:
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
hoạt động tài chính, hoạt động khác đưa lại, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả
kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường, điều đầu tiên mà
họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả
của quá trình kinh doanh, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn
15
tại và phát triển khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu
quả, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp sẽ bị đào thải, đi đến phá
sản. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường có sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay
gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn
tại của doanh nghiệp. Lợi nhuận tác động đến tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, là điều kiện quan
trọng đảm bảo cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả, có lợi nhuận cao thì khả năng thanh toán mạnh, doanh nghiệp có thể hoàn
trả mọi khoản nợ đến hạn và ngược lại.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi sẽ tạo cho doanh nghiệp một khoản lợi
nhuận sau thuế chưa phân phối, là cơ sở để bổ sung vào nguồn vốn tái đầu tư, áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật thông qua việc đổi mới trang thiết bị…mở rộng quy
mô hoạt động là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại phát triển vững vàng trên thương
trường, làm cơ sở để doanh nghiệp đi vay vốn từ bên ngoài được dễ dàng.
Lợi nhuận cũng là căn cứ để đánh giá năng lực, về nhân sự, năng lực về tài chính,
năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp...
Phân tích lợi nhuận là phân tích, xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố giá bán,
sản lượng, chi phí cố định, chi phí biên đổi và sự tác động của chúng đến lợi nhuận của
doanh nghiệp. Từ việc phân tích này sẽ giúp nhà quản lý khai thác tiềm năng của
doanh nghiệp, là cơ sở đưa ra các quyết định lựa chọn hay quyết định điều chỉnh về
sản xuất kinh doanh như giá bán, chi phí,.. nhằm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Phân tích lợi nhuận giúp doanh nghiệp nhận thức và đánh giá sự biến động của lợi
nhuận qua các kì và bộ phận cấu thành lợi nhuận để từ đó đánh giá sự lựa chon chức
năng và thực hiện chức năng của doanh nghiệp.
1.4.2. Phân tích tình hình tài sản- nguồn vốn
1.4.1.1. Phân tích sự biến động của tài sản
Phân tích sự biến động của tài sản giúp người phân tích tìm hiểu sự thay đổi về
giá trị, tỷ trọng của tài sản qua các thời kì như thế nào. Sự thay đổi này bắt nguồn từ
các dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp với
việc nâng cao năng lực kinh tế đểphục vụ cho chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hay không. Ngoài ra, việc phân tích này còn cung cấp cho nhà
phân tích cái nhìn về quá khứ, xu hướng, bản chất sự biến động tài sản doanh nghiệp.
Phân tích sự biến động về quy mô tài sản của doanh nghiệp nhằm đánh giá kết
quả và trạng thái tài chính tại thời điểm phân tích đồng thời dự đoán những rủi ro và
tiềm năng tài chính trong tương lai.
16
Thang Long University Library
Từ số liệu các khoản mục tài sản trên bảng cân đối kế toán, ta so sánh giữa số
đầu kỳ với cuối kỳ hoặc giữa kỳ này với kỳ khác cả về tuyệt đối, tương đối để xác định
sự biến động về quy mô tài sản của doanh nghiệp. Nói cách khác là ta xem xét sự thay
đổi về độ lớn của một khoản mục nhất định qua các thời kỳ để thấy được quy mô của
nó được mở rộng hay giảm đi.
Phân tích sự biến động của tài sản có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu doanh
nghiệp có một cơ cấu tài sản hợp lý thì các nguồn lực sẵn có ấy sẽ được tận dụng một
cách hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất.
1.4.1.2. Phân tích sự biến động của nguồn vốn
Nguồn vốn của doanh nghiệp về cơ bản bao gồm hai bộ phận lớn: nguồn vốn vay
nợ và nguồn vốn chủ sở hữu. Tính chất của hai nguồn vốn này hoàn toàn khác nhau về
trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp. Đối với nguồn vốn vay nợ (còn gọi là nợ phải
trả), doanh nghiệp phải cam kết thanh toán với các chủ nợ số nợ gốc và các khoản chi
phí sử dụng vốn (nếu có) theo thời hạn đã qui định. Khi doanh nghiệp bị giải thể, phải
thanh lý tài sản thì các chủ nợ có quyền ưu tiên nhận các khoản thanh toán từ tài sản
thanh lý. Ngược lại, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán đối với người góp
vốn với tư cách là chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu thể hiện phần tài trợ của người chủ sở
hữu đối với toàn bộ tài sản ở doanh nghiệp. Vì vậy, xét trên khía cạnh tự chủ về tài
chính, nguồn vốn này thể hiện năng lực vốn có của người chủ sở hữu trong tài trợ
HĐKD.
Phân tích sự thay đổi về quy mô nguồn vốn sẽ đánh giá được khả năng huy động
vốn vào kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên hay giảm đi, có đảm bảo duy trì hoạt
động hiệu quả không.
1.4.3. Phân tích khái quát tình hình lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ý nghĩa rất lớn trong việc cung cấp thông tin liên
quan đến phân tích tài chính doanh nghiệp. Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
ngân hàng, các nhà đầu tư, Nhà nước và nhà cung cấp có thể đánh gía khả năng tạo ra
các dòng tiền từ các loại hoạt động của doanh nghiệp để đáp ứng kịp thời các khoản nợ
cho các chủ nợ, cổ tức cho các cổ đông hoặc nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, đó
cũng là mối quan tâm của các nhà quản lý tại doanh nghiệp để có các biện pháp tài
chính cần thiết, đáp ứng trách nhiệm thanh toán của mình.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn là cơ sở để dự đoán các dòng tiền của doanh
nghiệp, trợ giúp các nhà quản lý trong công tác hoạch định và kiểm soát các hoạt động
của doanh nghiệp. Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người ra quyết định có thể
đánh giá thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp để ra các quyết định kịp thời.
17
Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ ta thường tiếp cận theo các góc độ sau:
So sánh các chỉ tiêu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo chiều ngang thông qua số
tuyệt đối và số tương đối để thấy được quy mô và tốc độ tăng, giảm của các chỉ tiêu
ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và chất lượng dự toán tiền trong kì tới ra sao.
Lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD âm (Thu < chi) thể hiện quy mô đầu tư của
doanh nghiệp mở rộng vì đây là kết quả của số tiền chi ra để mua NVL dự trữ hàng tồn
kho, chi thường xuyên…. Nếu lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD dương thì ngược lại,
quy mô đầu tư của doanh nghiệp bị thu hẹp.
Lưu chuyển tiền thuần từ HĐĐT âm (thu < chi) thể hiện quy mô đầu tư của
doanh nghiệp mở rộng vì đây là kết quả của số tiền chi ra để đầu tư TCSĐ, góp vốn
liên doanh…. Nếu lưu chuyển tiền thuần từ HĐĐT dương thì ngược lại quy mô đầu tư
của doanh nghiệp bị thu hẹp.
Lưu chuyển tiền thuần từ HĐTC âm (thu < chi) thể hiện quy mô đầu tư ra bên
ngoài của doanh nghiệp mở rộng, vì đây là kết quả của số tiền chi ra để mua cổ phiếu,
chi trả nợ gốc vay…. Nếu lưu chuyển tiền thuần từ HĐTC dương thì ngược lại thể
hiện quy mô đầu tư ra bên ngoài của doanh nghiệp bị thu hẹp.
Từ đó, tiến hành so sánh bằng số tuyệt đối và tương đối giữa kì này với kì trước
của từng khoản mục, từng chỉ tiêu trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để thấy được sự
biến động về khả năng tạo ra tiền từ từng hoạt động, sự biến động của từng khoản thu,
chi. Việc phân tích có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định xu hướng tạo ra tiền của
các hoạt động trong doanh nghiệp làm tiền đề cho việc lập dự toán tiền cho kỳ tới.
1.4.4. Phân tích các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp
1.4.4.1. Chỉ tiêu đánh giá năng lực hoạt động của tài sản
- Phân tích năng lực hoạt động của tài sản ngắn hạn
Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các
khoản phải thu
Doanh thu thuần
=
Các khoản phải thu
Đơn vị tính: vòng
Chỉ số này cho biết các khoản phải thu phải quay bao nhiêu vòng trong một kỳ
nhất định để đạt được doanh thu trong kỳ đó. Tỷ số này lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các
khoản phải thu là cao và nếu thấp thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn kém do vốn bị
chiếm dụng nhiều, nhưng nếu quá cao thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh
thu. Quan sát chỉ số này sẽ biết chính sách bán hàng trả chậm hay tình hình thu hồi
công nợ của doanh nghiệp. Vòng quay các khoản phải thu cao hay thấp tùy thuộc
18
Thang Long University Library
chính sách bán chịu của doanh nghiệp, đặc thù của mỗi ngành cũng sẽ ảnh hưởng đến
chính sách bán hàng của doanh nghiệp trong ngành.
Thời gian trả nợ trung bình
360
Thời gian trả nợ trung bình
=
Vòng quay các khoản phải thu
Đơn vị tính: ngày
Tỷ số này cho biết doanh nghiệp mất trung bình là bao nhiêu ngày để thu hồi các
khoản phải thu của mình. Để đánh giá hiệu quả quản lý của doanh nghiệp, cần so sánh
hệ số này với số ngày thanh toán cho các khoản công nợ phải thu mà doanh nghiệp đó
quy định. Nếu chỉ số này quá nhỏ chứng tỏ chính sách tín dụng bán trả chậm cho
khách hàng của doanh nghiệp quá khắt khe, điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, đặc biệt khi mà doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp mạnh,
hoạt động lâu dài, có thị phần lớn.
Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn
kho
Giá vốn hàng bán
=
Hàng tồn kho bình quân
Đơn vị tính: vòng
Vòng quay hàng tồn kho đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh, doanh
nghiệp bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh
nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị
giảm qua các năm.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng
dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả năng
doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần dẫn tới mất cơ
hội thực hiện những hợp đồng, ảnh hưởng đến doanh thu. Hơn nữa, dự trữ nguyên liệu
vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị
ngưng trệ làm tăng chi phí kinh doanh của Công ty, có khả năng gây chậm trễ ảnh
hướng tới tiến độ hợp đồng và uy tín của Công ty.
Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản
xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, hàng tồn kho mang đậm tính
chất ngành nghề kinh doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho
cao là xấu.
19
Thời gian quay vòng hàng tồn kho
Thời gian quay vòng hàng
tồn kho
360
=
Vòng quay hàng tồn kho
Đơn vị tính: ngày
Chỉ số này cho biết hàng tồn kho được lưu trong kho của doanh nghiệp trong bao
nhiêu ngày. Để duy trì HĐKD thì hàng hoá cần phải trữ ở một số lượng cần thiết nào
đó. Tuy nhiên, lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc làm tăng chi phí
lưu kho, chi phí quản lý và tăng rủi ro khó tiêu thụ hàng tồn kho này do có thể không
hợp nhu cầu tiêu dùng cũng như thị trường kém đi. Do vậy tỷ số này cần xem xét để
xác định thời gian tồn kho hợp lý theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và mức độ bình quân chung của ngành cũng như mức tồn kho hợp lý đảm bảo cung
cấp được bình thường.
Thời gian luân chuyển vốn bằng tiền = chu kỳ kinh doanh - thời gian trả nợ
trung bình
Hay:
Thời gian luân chuyển vốn bằng tiền
Thời gian luân
chuyển vốn bằng
tiền trung bình
=
Kì thu tiền
trung bình
Thời quay vòng
hàng tồn kho
+
Thời gian
trả nợ trung
bình
-
Đơn vị tính: ngày
Chỉ số này cho biết khoảng thời gian từ khi thanh toán các khoản nợ cho đến khi
thu được tiền. Thời gian này càng dài thì lượng tiền mặt của doanh nghiệp càng khan
hiếm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cho các hoạt động khác như đầu tư. Nếu
thời gian này nhỏ sẽ được coi là khả năng quản lý tiền tốt. Như vậy, thời gian luân
chuyển vốn bằng tiền có thể được rút ngắn bằng cách giảm thời gian luân chuyển kho
qua việc xử lý và bán hàng hóa nhanh hơn hoặc bằng cách giảm thời gian thu tiền
khách hàng qua việc tăng tốc thu nợ hoặc bằng cách kéo dài thời gian thanh toán qua
việc trì hoãn trả nợ cho nhà cung cấp.
- Phân tích năng lực hoạt động tài sản dài hạn
Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng
=
tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn
Đơn vị tính: lần
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -