Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết bướm trắng của nhất l...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết bướm trắng của nhất linh

.PDF
51
384
61

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGŨ VĂN VŨ THỊ KIM CHI NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT BƯỚM TRẮNG CỦA NHẤT LINH KHOÁ LUẬN TỔT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • • • C h u y ên n gàn h : V ă n h ọc V iệt N am N gười hướng dẫn khoa học TS THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG HÀ NỘI - 2015 LỜI CẢM ƠN Đe hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cồ trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là TS.GVC Thành Đức Bảo Thắng, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, tận tình, chu đáo và động viên giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian học tập và thực hiện khoá luận tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành cảm ơn những người thân và bạn bè đã giúp đỡ em về mọi mặt đế tôi hoàn thành khoá luận này. Do điều kiện và khả năng có hạn nên nội dung của để tài không tránh khỏi nhữỉĩg thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ỷ kiến từ phía các thầy cô đế rút kỉnh nghiệm và bố sung kiến thức cho bản thân. Em xin chân thành cảm ơn ỉ Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015 Sinh viên Vũ Thị Kim Chỉ LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khoá luận là kết quả nghiên cún của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những người đi trước, tham khảo các tài liệu có liên quan dưới sự hướng dẫn của TS.GVC Thành Đức Bảo Thắng. Khoá luận không sao chép từ một tài liệu, một công trình sẵn có. Ket quả khoá luận ít nhiều có đóng góp vào việc tìm hiểu và nghiên cứu tác giả Nhất Linh. Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015 Sinh viên Vũ Thị Kim Chi M ỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN M Ở ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài.........................................................................................................1 2.Mục đích nghiên cứu................................................................................................2 3.ĐỐÌ tượng, phạm vi nghiên c ú n .............................................................................2 4.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 2 5.Lịch sử vấn đ ề ...................................................................................................... 2 ó.cấu trú c ......................................................................................................................6 7.Đóng góp đề tà i.........................................................................................................6 NỘI DƯNG CHƯƠNG 1. NHỮNG VÁN ĐÈ CH U N G .......................................................... 7 1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật.........................................................................7 1.1.1 Khái niệm ...........................................................................................................7 1.1.2 Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật..................................................................... 7 1.2. Nhất Linh và tiểu thuyết Bướm trắng............................................................. 10 1.2.1 Cuộc đ ờ i............................................................................................................ 10 1.2.2 Sự nghiệp văn chương......................................................................................11 CHƯƠNG 2. NGỒN NGŨ TRẦN THUẬT, NGÔN NGŨ ĐÓI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂ M .................................................................................14 2.1. Ngôn ngữ trần thuật hướng tới khai thác tâm lí............................................ 14 2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật với điểm nhìn linh hoạt............................................. 14 2.1.2. Ngôn ngữ trần thuật đan xen giữa kể và t ả .................................................15 2.2. Ngôn ngữ đối thoại........................................................................................... 21 2.2.1. Đối thoại ám c h ỉ............................................................................................ 22 2.2.2. Đối thoại hàm ẩn............................................................................................28 2.3. Độc thoại nội tâm ..............................................................................................30 KẾT L U Ậ N ............................................................................................................... 44 TÀI LIỆU THAM K H Ả O ....................................................................................... M Ở ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ “là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorơki), là một trong những yếu tố quan trọng thế hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Từ ngôn ngữ nghệ thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đường tiếp nhận văn học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học đã thể hiện ý thức cách tân sâu sắc trong các sáng tác của mình. Nhất Linh là người sáng lập, người điều hành, đồng thời cũng là cây bút trụ cột của nhóm. Các sáng tác của ông không nhiều, tuy vậy Nhất Linh đã “vạch ra con đường riêng” theo hướng hiện đại và khắng định được vị trí, vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của văn học. Đúng như Huy Cận nhận xét: Nhất Linh và Tự lực vãn đoàn “đã có những đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào câu văn của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam”. Sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã được nhiều người quan tâm nghiên cún. Tuy nhiên trong những công trình nghiên cún về sự nghiệp văn học cũng như đặc điểm nghệ thuật trong các sáng tác của Nhất Linh đã công bố, chưa có công trình nào tập trung tìm hiểu sâu vào ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. v ấ n đề này cách đây hơn 50 năm, đã được gợi ra: “Vấn đề ngôn ngữ Nhất Linh là một điểm thiết tưởng cần phải được để ý và đề cao” (Nguyễn Văn Trung, Tạp chí Văn số 14, 15.7.1964); nhưng sau nhiều năm trôi qua, việc nghiên CÚ01 ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh vẫn chưa có sự tiến triển đáng kể. Là sinh viên năm cuối, thực hiện đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giảng day và nghiên cứu khoa học sau này. 1 Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Ngôn ngữ nghệ th u ậ t trong tiếu thuyết Bướm trắng của Nhất L inh” nhằm đi sâu nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong phạm vi tác phẩm và thấy được nhũng đóng góp của nhà văn đối với quá trình hiện đại hoá ngôn ngữ văn học dân tộc. 2. Mục đích nghiên cún - Chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nhất Linh thông qua việc phân tích và làm rõ yếu tố ngôn ngữ trong tiểu thuyết Bướm trắng. - Luận văn hướng tới tìm hiểu và phân tích ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh để thấy được giá trị, phong cách, tài năng của nhà văn. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cún trong đề tài này là ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu v ề phạm vi nghiên cứu, chúng tôi dừng lại ở cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của Nhất Linh là Bướm trắng. 4. Phưong pháp nghiên cứu -Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp so sánh - Phương pháp khảo sát - Phương pháp phân tích tổng họp 5. Lịch sử vấn đề Sự xuất hiện của Nhất Linh gắn liền với sự ra đời của một tổ chức văn học có tên Tự lực văn đoàn - tổ chức văn học có vai trò quan trọng trong sự 2 thay đổi diện mạo văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Bởi vậy số lượng bài viết và các công trình nghiên cứu về tác giả này khá phong phú, đề cập đến nhiều phương diện về con người và văn nghiệp. Trong khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi tập trung khảo sát các ý kiến trục tiếp liên quan đến ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nhất Linh nói chung và tiểu thuyết Bướm trang nói riêng, sắp xếp các ý theo trình tự thời gian nhằm tái hiện một cách khách quan của vấn đề. Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, tiểu thuyết của Nhất Linh đã thu hút được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cún, phê bình. Các nhà nghiên cún văn học cùng thời với Nhất Linh đã có nhiều bài viết đánh giá sâu sắc, phản ánh đúng vai trò đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới văn học, trong đó có đề cập đến phương diện ngôn ngữ trong tiểu thuyết Bướm trắng. Trong Tạp chí Thời Tập, Sài Gòn, số 13, tháng 10.1974; khi bàn về sự đa nghĩa trong ngôn ngữ của tiểu thuyết Bướm trắng, ngay nhan đề cũng mang tới những lí giải và nhận thức sâu sắc: Bướm Trắng, biểu tượng tươi đẹp của thời thanh xuân lành mạnh. Bướm Trắng, biếu tượng chập chờn của nội tâm con người bất trắc. Bướm Trắng, biếu tưọng giản dị của tình yêu êm đềm không phức tạp. Ta vân không thê quả quyết giải thích nào gần nhất cho nhan đề Bướm Trang của Nhất Lỉnh. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng nêu lên những nhận định khái quát về nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh như sau: “Neu đọc Nhất Linh từ Nho phong cho đến những tiểu thuyết gần đây nhất của ông, người ta thấy tiếu thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình cảm, qua tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lí; sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn con người ta”. Hay công trình nghiên cún của nhóm Lê Quý Đôn (Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập 3 - từ giữa thế kỉ XIX đến năm 1945, 1957) nhận xét 3 rằng với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn “cả một thế giới tâm tình trước kia hé mở một cách rụt 1'è, e lệ, bây giờ được mổ xẻ phơi bày tinh vi”. “Nhất Linh thành công ở cách bố trí truyện, cách sử dụng cảnh vật xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật”. Một số ý kiến khác như của Dương Thị Hương trong công trình nghiên cứu của mình về Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiếu thuyết Tự lực văn đoàn đã khẳng định tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh “thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể hiện được những luận đề phù hợp với chân lí đời sống , đem lại những khám phá chân thực về nhân vật, về tâm lí”. Phan Cự Đệ thì nhận xét: “Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín đáo và ý nhị”. Khi khẳng định một thế giới mới trong sáng tác của Nhất Linh qua Bướm trắng - thế giới nội tâm bên trong, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) cũng khẳng định: “Qua Bướm trắng Nhất Linh cũng đã đưa ngòi bút phân tích tâm lí vào địa hạt nhân bản muôn thuở với trường họp bi đát con người bị giằng co giữa tình yêu và cái chết” [22; 160]. Những ý kiến đánh giá trên có thể coi là bước mở đường cho các nhà nghiên cứu nhìn nhận và xem xét về tiểu thuyết Bướm trắng giai đoạn sau này. Phan Cự Đệ, trong Lời giới thiệu cuốn Đoạn tuyệt (NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tái bản năm 1991), đã có ý kiến nhận định khái quát về nghệ thuật trong Bướm trắng: “Xét về một phương diện nào đó thì nghệ thuật của Đôi bạn và Bướm trắng già dặn hơn những nhận xét về tâm lí nhân vật sâu sắc và tinh vi hơn” [9;317]. Trong lời giới thiệu nhân tái bản cuốn Bướm trang năm 1989 Trần Hữu Tá đã chỉ ra những khám phá mới cũng như những hạn chế như sau: “Đen Bướm trắng Nhất Linh đã thể hiện một phẩm 4 chất nghệ thuật mới: Tuy có chỗ còn gượng gạo thiếu tự nhiên nhung tác giả đã khai thác tinh tế những tầng lớp, những ngóc ngách tâm lí éo le, khuất khúc của con người”. Trong bài viết Đọc lại Bưóm trắng của Nhất Linh, đăng trên Tạp chí Văn học, số 10-1996, Đỗ Đức Hiển cũng viết: “Bướm trắng là tiểu thuyết hiện đại; nó không phải “cái viết về những cuộc phiêu lưu” (như Thuỷ hử, Quả dưa đỏ, Tiêu son tráng sĩ...) mà “phiêu lun của cái viết”. “Phiêu lun” ở đây là những hành trình qua các ngóc ngách của tình cảm, tư duy, cảm xúc, giấc mơ đẹp, hoảng loạn, cái sống và cái chết... Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là “thế giới bên trong” con người vô cùng biến động cái ý thức và cái tiềm thức, cái vô lí và cái phi lí, giấc mơ, mê sảng, linh cảm ...” [13;328]. Trương Chính trong bài “Nhất Linh” đã so sánh: Lối hành văn của Nhất Lỉnh là lối hành văn rất thỉ vị, thỉ vị ở ý mà ít ở lời. Nhất Lỉnh không đẽo gọt, trau truốt câu văn của mình như Khải Hưng nhưng tự 1ĨÓ có nhịp điệu, tự nó đã du dương bởi ý bao hàm ở trong là một ỷ thơ. Vu Gia cũng có nhận xét về ngôn ngữ của Nhất Linh trong tiểu thuyết “ Bướm trắng”: Ông vẫn duy trì được lối viết trong sáng, giàu chất thơ, chất hoạ vốn đã quen thuộc trong nhiều tác phẩm trước, nhưng đến Bưóm trắng đã thế hiện một phắm chất nghệ thuật mới, tuy đôi chô còn gượng gạo, thiếu tự nhiên, nhưng tác giả đã khai thác tỉnh tế nhữỉĩg tầng, những lớp, những ngóc ngách tâm lí éo le, khuất khúc của con người. Bạch Năng Thi trong bài “Nhất Linh - tác giả tiêu biểu” đã đưa ra những lời đánh giá về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh: ... lời văn ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc (...) Văn Nhất Linh vừa rành mạch, trong sáng, vừa có nhạc điệu, có hình ảnh. Nó diên tả được những cảm giác tinh vi. Nó sử dụng các so sánh cụ thế, có khả năng tạo hình và gợi cảm. 5 Trong công trình nghiên cún “ Những cách tân trong văn xuôi Tự lực văn đ o àn ”, Trịnh Hồ Khoa cũng nêu ra ý kiến xác đáng: Văn Nhất Linh ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, giản dị nhưng không thiếu chất thơ. Giống con người Nhất Linh, vãn ỏng tê nhị, có chừng mực, trang nhã, tả rất đạt những tâm tình thanh sạch... Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Mai Hương - DHSP Thái Nguyên 2008, có đề cập đến một số thủ pháp xây dựng nhân vật, trong đó có nhắc đến đặc điểm về ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nhất Linh qua hai tác phẩm Đôi bạn và Bướm trang. Nhìn chung các nhà nghiên cún mới đã đưa ra những nhận xét khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh hoặc đề cập đến một số đặc điểm về ngôn ngữ trong một vài tác phẩm nói chung và trong tiểu thuyết Bướm trắng nói riêng. Nhũng nhận xét của người đi trước cũng đã gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài này. 6. Cấu trúc Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục và tư liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương: - Chương 1: Những vấn đề chung - Chương 2: Ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm 7. Đóng góp đề tài Luận văn làm rõ ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Bướm trang của Nhất Linh. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên 6 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. NHŨNG VÁN ĐỀ CHUNG 1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật 1.1.1 Khái niệm Theo cuốn L í luận văn học (Phương Lựu chủ biên), ngôn ngữ nghệ thuật là: . một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó” [17; 185/186]. Khái niệm này đã nêu ra cách hiểu khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật nhưng chưa chỉ ra được những nét riêng của ngôn ngữ nghệ thuật với tư cách là phương tiện biểu hiện của các sáng tác văn học - loại hình nghệ thuật ngôn từ. Vì thế khái niệm “ngôn ngữ nghệ thuật” cần được khu biệt rõ hơn. Theo chúng tôi “Ngôn ngữ ngệ thuật” là ngôn ngữ được sử dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ mang tính hình tượng, tính biểu cảm và thế hiện rõ cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong thực tế, thuật ngữ này thường được dùng tương đương với các thuật ngữ: Ngôn từ nghệ thuật, Ngôn ngữ văn học, Lời văn nghệ thuật. Bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm mĩ trong các tác phẩm văn học, chứ không phải là ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác của ngôn ngữ với tư cách đối tượng chuyên biệt của ngôn ngữ học. 1.1.2 Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật - Với nhà vãn : Ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu đế nhà văn xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật, qua đó gửi gắm ý đồ nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật có “cội nguồn từ ngôn ngữ nhân dân”, nhưng 7 được chon lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, trở thành phương tiện biểu hiện nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Phan Cư Đệ nhận thấy: “Ngôn ngữ khoa học không mấy khi có nhiệm vụ tái hiện lại mối quan hệ tình cảm giữa người nói với đối tượng được nói đến. Còn ngôn ngữ nghệ thuật thì bao giờ cũng tìm cách truyền các quan điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy các lối nhìn sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giói của anh ta, nói tóm lại là ngôn ngữ đó mang dấu ấn cá tính và phong cách nghệ sĩ. Đặc điểm nói trên tạo nên sự rung cảm, thuyết phục và thu hút đặc biệt của ngôn ngữ nghệ thuật”. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật đối với hoạt động sáng tạo của nhà văn cũng được các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “Ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” [10;215]. Thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, mỗi nhà văn có điều kiện bộc lộ tài năng và cá tính sáng tạo độc đáo của mình. - Với các thời kì, các trào lim văn học: Ngôn ngữ nghệ thuật chịu sự chi phối của môi trường văn hoá xã hội. Kho ngôn ngữ là của toàn dân, được bồi đắp qua các thời kì lịch sử, nhưng cách sử dụng như thế nào lại phụ thuộc vào nhãn quan ngôn ngữ của mỗi thời đại, mỗi trào lưu văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá của thời đại , mỗi một trào liru văn học, mỗi một thể loại văn học có những nét riêng trong sử dụng ngôn ngữ. Trong những đặc điếm chung về thời đại, về trào lun sáng tác, mỗi nhà văn với cá tính, với vốn sống, trình độ văn hoá và quan điểm thẩm mĩ của mình lại tạo ra phong cách ngôn ngữ riêng. Vì thế ngôn ngữ nghệ thuật cũng góp phần tạo ra diện mạo phong phú, đa dạng của một nền văn học. 8 - Với các thế loại văn học: Mỗi thể loại có đặc điểm ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của thể loại trữ tình mang đậm dấu ấn cảm xúc chủ quan của nhà nghệ sĩ. Sự lựa chon từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hay phê phán của chủ thể trở nên nổi bật. Mỗi câu thơ dường như đều có những từ chứa đựng sức nặng tình cảm. Người xưa gọi đó là “thi nhãn” tức là những tiêu điểm để từ đó nhìn thấu tâm hồn tác giả. Còn thể loại tự sự tái hiện đời sống thông qua việc miêu tả sự kiện. Ở loại này tác giả có thể đứng ngoài kể, cũng có thể để cho nhân vật tự kể. Vì thế ngôn ngữ của thế loại tự sự là ngôn ngữ mang tính khách quan: “lời tự sự là lời miêu tả, trần thuật theo lối kể, phân tích, chỉ ra các thuộc tính một cách khách quan”. Giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ tiểu thuyết, còn nhận thấy sự khác biệt: “Neu như trong thơ, ngôn ngữ trước hết cần phải đẹp, cao cả và trang trọng thì trong tiểu thuyết, ngôn ngữ trước hết cần phải chính xác, có khả năng tái tạo lại các đối tượng trong hình thái cá thể, không lắp lại của nó”. Không chỉ có sự khác nhau trong ngôn ngữ giữa các thể loại, mà ngay trong cùng một thể loại ở mỗi thời đại khác nhau lại có cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ tự sự trung đại khác với ngôn ngữ tự sự hiện đại. Thậm chí trong cùng một thể loại, ở cùng một hoàn cảnh lịch sử, nhung ở những phương pháp sáng tác khác nhau thì ngôn ngữ nghệ thuật có những điểm khác nhau. Ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực cũng khác với ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Ngôn ngữ của tiểu thuyết hiện thực giản dị, chân thật, “mỗi từ đều phải dễ hiểu đối với người đánh xe ngựa chở các cuốn sách từ nhà in đi” (Tônxtôi); đồng thời phải mang tính điển hình nghĩa là phản ánh đúng tính cách, gắn liền với tâm lí xã hội và hoàn cảnh sinh sống của nhân vật, phản ánh đúng các điển hình trong cuộc sống. 9 Còn “trong tiếu thuyết lãng mạn, dấu ấn chủ quan của nghệ sĩ bộc lộ rất rõ trong màu sắc ngôn ngữ, trong lối nói cường điệu và phóng đại, lối nói trang trọng gây hưng phấn, lối dùng các biện pháp tu từ, lối dùng một thứ văn giàu nhạc đ iệu ...” . - Với hoạt động tiếp nhận văn học: Trong hoạt động tiếp nhận văn học, ngôn ngữ nghệ thuật cũng có vai trò quan trọng. Đó là “yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc đối với tác phẩm”; là “hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác phẩm”. Và từ yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy nhất ấy mà người đọc có thể tìm hiểu, khám phá tư tưởng nghệ thuật, thế giới hình tượng... đã được nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Tiếp nhận văn học dù với mục đích nào thì cũng đều phải bắt đầu từ ngôn ngữ nghệ thuật. Bởi vì “cả hình tượng nhân vật, bức tranh phong cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người... chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ”. Ngôn ngữ nghệ thuật chứa đụng trong đó cả thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo, từ nhân vật đến không gian, thời gian, chi tiết, cốt truyện, kết cấu,... không một bình diện nào nằm ngoài ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì thế muốn nắm bắt được thế giới nghệ thuật ấy của nhà văn, người đọc không thế không đi sâu khám phá ngôn ngữ trong tác phẩm. Nghiên CÚ01 ngôn ngữ nghệ thuật của một tác giả hay một thể loại, một trào lưu văn học là một phương diện quan trọng trong nghiên cứu văn học. 1.2. Nhất Linh và tiễu thuyết Bướm trắng 1.2.1 Cuôc đời Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam. Ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1905 tại huyện c ẩ m Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Sâm, có được 7 người con. 10 Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở cẩm Giàng, một huyện nhỏ. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Từ bé, anh em Nguyễn Tường Tam đã tiếp xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều đó ảnh hưởng đến văn học của Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam sau này. Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học ở cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội . Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài "Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều" trên Nam Phong tạp chí. Cuối năm 1923 ông đậu bằng Cao tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đắng, nên ông làm thư ký ở sở tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Năm 1924, ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ Thuật nhưng chỉ một năm rồi bỏ. N ăm l926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học. Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cún về nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cừ nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hoá) và trở về nước trong năm đó. 1.2.2 Sự nghiệp văn chương 1.2.2.1. Hoạt động văn chương Trở về nước, Nhất Linh cùng hai em là Hoàng Đạo và Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng Tiếng cười, nhung thiếu tiền chưa ra được báo thì giấy phép quá hạn, bị rút. Trong hai năm tù’ 1930 đến 1932, ông dạy học tại trường Thăng Long và Gia Long, ở đó ông quen biết với Trần Khánh Giư, tức Khái Hưng. 11 Năm 1932, cùng một số người khác, Nhất Linh mua lại tờ Phong Hoá của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai. Ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích lễ giáo phong kiến, hô hào “Ấu Hoả ” và đề cao chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy mà từ năm 1932 -1935 tờ “Phong H o ả ” đã trở thành nơi tập họp của các cây bút văn chương lãng mạn, là trung tâm của cuộc vận động văn hoá tư sản trên văn đàn công khai lúc bấy giờ. Nhất Linh làm giám đốc kiêm toàn bộ công việc quản lí từ điều khiển ban biên tập dến chỉ sự và cả viết bài vở cho tờ báo Phong Hoá. Năm 1933, Nhất Linh đứng làm chủ soái thành lập nhóm Tự lực văn đoàn gồm có các thành viên: Nhất Linh (Nguyễn Trường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), còn gọi là Nhị Linh, Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú M ỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu). Đây là thời kì mà Nhất Linh viết được nhiều nhất, bởi ngoài việc quản lí, công việc sáng tác cho văn đoàn, để văn đoàn hoạt động mạnh mẽ thôi thúc ngòi bút của ông rất nhiều. Lúc bấy giờ Tự lực văn đoàn đã trở thành nhóm văn học hoạt động có hiệu quả, ngoài việc xuất bản sách của nhóm, còn tổ chức trao giải thưởng mang tên “Giải thưởng Tự lực văn đoàn” thúc đấy văn học phát triến rầm rộ. Năm 1935, sau khi tờ “Phong H o ả ” bị đóng cửa Nhất Linh cho ra đời tạp chí Ngày nay, rồi tham gia thành lập Hội ánh sáng - một tổ chức từ thiện chủ trương “làm nhà họp vệ sinh cho dân nghèo”. Từ năm 1940, khi Nhật vào Đông Dương, Nhất Linh ngừng sáng tác chuyến sang hoạt động chính trị, bí mật thành lập “Đ ảngH ưng Việt”, sau một thời gian hoạt động, Đảng Hưng Việt sát nhập vào Việt Nam quốc dân Đảng. Nhất Linh hoạt động trong tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng, làm tổng thư kí Đảng “Đại Việt dân chính” có tư tưởng chống Pháp thân Nhật rồi thân Tàu Tưởng. Cuối năm 1945 Nhât Linh theo Nguyễn Hải Thần về nước tham gia chính phủ liên hiệp, giữ chức Bộ trưởng bộ ngoại giao. Khi quân đội Tưởng 12 rút về, Nhất Linh chạy theo chúng sang Trung Quốc. Năm 1951, Nhất Linh về Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam, sinh sống ở Đà Lạt, chơi hoa lan và viết sách. Năm 1958, Nhất Linh trở về Sài Gòn lập nhà xuất bản Phượng Giang và nguyệt san Văn hoả ngày nay nhằm tạo dựng lại uy tín của Tự ỉực văn đoàn. Năm 1961, thành lập trung tâm văn bút. Nhất Linh mang tư tưởng chống Cộng triệt để và cũng không đồng tình với chế độ gia đình trị của Ngô Đình Diệm. Vì nghi có liên quan đến vụ chính biến ngày 11-11-1960 do tướng Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, Nhất Linh bị theo dõi và chuẩn bị đưa ra toà án Đặc biệt xử. Ông hoàn toàn bế tắc cả về hoạt động chính trị lẫn sáng tác, mười hai giờ đêm ngày mùng 7 tháng 7 năm 1963 Nhất Linh uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở Sài Gòn, một ngày trước khi ra toà. Nhất Linh là người say mê hoạt động chính trị và văn học nghệ thuật. Trong phần giới thiệu này, chúng tôi chỉ điểm qua những hoạt động của ông trong lĩnh vực báo và văn học trước cách mạng tháng Tám. 1.2.2.2. Tác phẩm - Tiếu thuyết:Gánh hàng hoa (cùng Khái Hung, 1934); Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934); Nắng thu (\934);Đoạn tuyệt (1934-1935); Lạnh lùng (1935-1936); Đôi bạn (1936-1937); Bướm trắng (1938-1939); Xóm cầu mới (1949-1957). Trường thiên, viết dở dang là “Dòng sông Thanh Thủy” (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập: Ba người bộ hành Chi bộ hai người Vọng quốc - Tập truyện:Mzơ phong (1924); Người quay tơ ( 1926); Anh phải sống {cùng Khái Hưng, 1932 - 1933); Đi Tây ( 1935); Hai buổi chiều vàng (1934-1937); Thế rồi một buổi chiều (1934-1937); Thương chằng (1961) - Tiếu luận: Viết và đọc tiếu thuyết (1952-1961) - Dịch phẩm: Đỉnh gió hủ của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974 13 CHƯƠNG 2. NGÔN NGŨ TRÀN THUẬT, NGÔN NGŨ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM 2.1. Ngôn ngữ trần thuật hướng tới khai thác tâm lí 2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật vởi điếm nhìn linh hoạt Bướm trắng là cuốn tiểu thuyết tâm lý, ngôn ngữ kể của tác giả tức ngôn ngữ trần thuật cũng đã khơi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Lý thuyết tự sự học quan niệm diễn ngôn trần thuật là văn bản được tạo ra bởi hành động kể dưới dạng truyền miệng hoặc viết. “Mỗi văn bản trần thuật là sự móc nối và luân phiên giữa diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật” (Dolezel). Theo đó, một văn bản trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật. Diễn ngôn trần thuật trong các tác phẩm của Nhất Linh đã tạo được một tương quan mới có tính nghệ thuật giữa diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật. Ta thấy nếu như ở các tác phẩm trước như Lạnh lùng hay Đoạn tuyệt, Nhất Linh chủ yếu đứng bên ngoài thuật chuyện bằng cái nhìn khách quan, theo trình tự thời gian, xâu chuỗi các sự kiện hiện tại để thúc đẩy cốt truyện vận động, hoặc đôi lúc đoán định tâm trạng nhân vật theo lô gic thông thường trong cuộc sống thì ở Bướm trang Nhất Linh đã đi sâu, thâm nhập vào thế giới nội tâm nhân vật và để nhân vật tự bộc lộ.Vị trí người trần thuật ở ngôi thứ ba, ẩn tàng, có thể thay đổi liên tục điểm nhìn, có thể đi ngược quá khứ, hoặc len lỏi vào ngõ ngách sâu tối nhất của nhân vật, mà không một thế lực nào cản trở, ngôn ngữ kể của Nhất Linh đã trở lên sinh động, đa dạng, không đơn giản chỉ là lời kể về các tình tiết, xâu chuỗi các sự kiện để tạo nên sự vận động của cốt truyện. Có lúc tác giả dùng lời kể khách quan ghi lại diễn biến câu chuyện, có lúc nhập vào tâm trạng của Trương để miêu tả. Tuy trần thuật nhưng thực ra Nhất Linh chỉ đứng ngoài, nhìn nhận, miêu tả tâm trạng nhân 14 vật, nhà văn đã trần thuật theo giọng điệu, ngôn ngữ, tình cảm và ý thức của nhân vật. 2.1.2. Ngôn ngữ'trần thuật đan xen giữa k ế và tả Ngôn ngữ kể trong tiểu thuyết Bướm trắng đi sâu hơn vào nội tâm của nhân vật, dường như nhập hẳn vào dòng suy nghĩ, cảm giác của Trương, đưa người đọc vào miền miên man khó lắm bắt của tiềm thức, của vô thức, thấy được cả những vùng mờ tối của tâm thức con người. Ngay từ nhũng dòng đầu tiên của truyện, tác giả đã đưa người đọc đến với thế giới tâm hồn Trương với biết bao bất ngờ, ẩn chứa bao mâu thuẫn. Chàng “vô cớ” thấy lòng vui đột ngột, khác thường, nhìn cuộc sống khốn khó của con người trong một ngày mùa đông lại thấy thú vị, “tự nhiên” thấy vui thích khi nhìn bà cụ già bán hàng cho một câu bé; nhìn cơn gió thổi bay “mấychiếc lá khô”, bất chợt cảm thấy nỗi buồn hiu quạnh của cuộc đời cô độc; “thốt nhớ đến Liên”, người yêu của mình, “đã chết vì bệnh lao ba năm trước” ; nghĩ đến tâm trạng mình khi mắc bệnh lao, Trương hi vọng là sẽ khỏi bệnh nên “thấy mình náo nức muốn sống, yêu đời và vui vẻ ”, nhung lại một ý nghĩ khác chợt len đến : “thế ngộ nhỡ mình không khỏi bệnh ”... Chỉ bằng một đoạn văn ngắn mà thế giới tâm hồn con người đã được bộc lộ một cách đầy đủ với biết bao những sắc thái mà chúng ta khó tìm thấy lời giải đáp từ thế giới bên ngoài. Đoạn văn trên như muốn dự báo về sự bùng nổ dữ dội của tâm hồn nhân vật trước biến cố của số phận con người. Trương là nhân vật được xây dựng mang trong mình sẵn nỗi cô đơn, nỗi buồn của con người cá nhân. Dù là trần thuật nhưng thực ra Nhất Linh tái hiện lại mọi dòng suy nghĩ nhân vật bằng lời văn của mình. Tác giả miêu tả nhân vật thấy mình trơ trọi, buồn khổ: Trương thấy một nỗi buồn lạnh lẽo thấm vào tâm hon lạnh lẽo. Ngay đầu tác phấm: Trương cảm thấy nôi buồn hưu quạnh của cuộc đời cô độc; chàng cảm thấy mình trơ trọi trước cuộc đòi 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất