Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non (khu vực h...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non (khu vực huyện sóc sơn - thành phố hà nội)

.PDF
75
914
56

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIẢO DỤC TIÊU HỌC LÊ THỊ HƯỜNG MÔT SỐ BIÊN PHÁP SỬA LỎI PHÁT ÂM CHO TRE MẨM NON (KHU v ự c HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHÓ HÀ NỘI) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • • • Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt HÀ NỘI - 2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DUC TIÊU HOC LÊ THỊ HƯỜNG MÔT SỐ BIÊN PHÁP SỬA LỎI PHÁT ÂM CHO TRE MẨM NON (KHU v ự c HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHÓ HÀ NỘI) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • • • Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ LAN ANH HÀ NỘI, 2015 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Tiểu học đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho em thực hiện tốt khoá luận tốt nghiệp đại học. Đặc biệt em xin chân bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - TS. Lê Thị Lan Anh - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khoá luận này. Qua đây em xin gửi tới Ban giám hiệu và các cô giáo trường Mầm non Tiên Dược - xã Tiên Dược - huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội và trường Mầm non Tân Hưng - xã Tân Hưng - huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội, cùng các bạn sinh viên khoa Giáo dục Tiểu học lời cảm ơn chân thành nhất. Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2015 Sinh viên Lê Thị Hường LỜI CAM ĐOAN Đe hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - TS. Lê Thị Lan Anh và các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiếu học. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Kết quả nghiên cứu là trung thực và không trùng với kết quả của các tác giả khác. Hà Nội, ngày thảng 5 năm 2015 Sinh viên Lê Thị Hường MỤC LỤC MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên CÚ01....................................................................................5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cún................................................................... 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................6 6. Phương pháp nghiên cún..............................................................................6 7. Cấu trúc của khóa luận................................................................................. 7 CHƯƠNG 1. C ơ SỞ LÍ LUẬN .......................................................................8 1.1. Cơ sở tâm sinh lý của trẻ mầm non.......................................................... 8 1.1.1. Đặc điềm tâm lý của trẻ mầm non....................................................... 8 1.1.2. Đặc điêm sinh lý của trẻ mầm non.....................................................10 1.2. Cơ sở ngôn ngữ học............................................................................... 11 1.2.1. Đặc điếm của âm tiết Tiếng Việt.........................................................11 1.2.2. Đặc điềm phát trỉên ngôn ngữ củatrẻ mầm non..................................14 1.2.3. Một số lỗi phát âm của trẻ mầm non...................................................26 CHƯƠNG 2. THỤC TRẠNG LỖI PHÁT ÂM CỦA TRẺ MẦM NON VÀ NGUYÊN NHÂN.............................................................. 30 2.1. Thực trạng lỗi phát âm của trẻ mầm non................................................30 2.1.1. Vài nét khải quát về trường Mầm non Tiên Dược - xã Tiên Dược huyện Sóc Son - thành phố Hà Nội và trường Mầm Non Tân Hưng xã Tân Hung - huyện Sóc Sơn -thành phố Hà Nội............................. 30 2.1.2. Điều tra thực trạng.............................................................................. 32 2.1.3. Phân tích kết quả điều tra................................................................... 34 2.2. Nguyên nhân mắc lỗi phát âm của trẻ mầm non................................. 46 2.2.1. Nguyên nhân chủ quan........................................................................ 46 2.2.2. Nguyên nhân chủ quan........................................................................ 47 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬA LỖI PHÁT ÂM CHO TRẺ MẦM NON ..................................................................................48 3.1. Sửa lỗi phát âm thông qua trò chuyện với trẻ hàng ngày.......................48 3.2. Sửa lỗi phát âm thông qua luyện phát âm theo mẫu cho trẻ.................. 49 3.3. Sửa lỗi phát âm thông qua các trò chơi phát triển ngôn ngữ................. 50 3.3.1. Trò chơi luyện thở................................................................................50 3.3.2. Trò chơi “Cáigì thay đôi”.................................................................. 50 3.3.3. Trò chơi “Chiếc hộp thần k ì”.............................................................. 54 3.3.4. Trò chơi “Bắt chước tiếng kêu”..........................................................56 3.3.5. Trò chơi “Thi xem ai tinh ”..................................................................59 3.4. Sửa lỗi phát âm thông qua sử dụng đồ dùng trực quan...........................61 3.5. Sửa lỗi phát âm thông qua đọc thơ, các câu nói có vần, đọc bài đồng dao, tập cho trẻ nói đúng, nói nhanh........................................................63 KÉT LUẬN...................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHĂO..............................................................................70 MỞ ĐÀU 1. Lí do chọn đề tài Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác Giáo dục và Đào tạo, xem đây là nhân tố quyết định đến sự phát triển lớn mạnh của đất nước. Trong đó, Giáo dục Mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân có nhiệm vụ hình thành và phát triển nhân cách trẻ tạo ra những thế hện người có ích đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Đe làm được như vậy thì ngay từ bây giờ chúng ta phải luôn chú trọng đến nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục trẻ. Có như vậy trẻ mới phát triển đúng hướng và toàn diện để phù hợp với mục tiêu chung của ngành giáo dục mầm non. Trong mục tiêu chung của Giáo dục Mầm non đã đặt ra rất nhiều kế hoạch nhằm phát triển trẻ về mọi mặt: tư duy, đạo đức, trí tuệ thẩm mĩ, ngôn ngữ...để trẻ có thể rời trường mầm non, rời cô giáo như người mẹ thứ hai để có thế tự lập bước vào môi trường mới đó là các bậc học phổ thông. Từ mục tiêu trên ta thấy việc giáo dục cho trẻ trước tuổi đi học là vô cùng quan trọng. LN Tônxtôi đã nhận định khi nhấn mạnh ý kiến trước tuổi đi học rằng “Tất cả những gì mà đứa trẻ cỏ sau này khi trở thành người lớn đều thu nhận trong thời thơ ấu. Trong quãng đời còn lại, những cải mà nỏ thu nhận được chỉ đảng 1% những cải đó mà thôi”. Neu ta bỏ mặc trẻ, không giáo dục, không chăm sóc, không cho trẻ được sống trong môi trường xã hội thì đứa trẻ đó không thể lớn lên và phát triển bình thường được. Giáo dục Mầm non không chỉ chú trọng phát triển nhân cách cho trẻ mà qua đó còn chuẩn bị cho xã hội tương lai những người công dân có đầy đủ các phẩm chất, trí tuệ, thể chất, cũng như đạo đức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Với ý nghĩa to lớn ấy, trong khi lựa chọn nội dung đề tài nghiên cứu, chúng tôi không thế không nghĩ đến vai trò vô cùng quan trọng của việc phát âm đúng của trẻ. 1 V.I.Lênin đã nói: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người Do đó ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày, không có ngôn ngữ đứa trẻ không thể phát triển thành người một cách thực thụ, ngôn ngữ là phương tiện để tư duy, nó đóng vai trò rất lớn trong việc phát triến trí tuệ và các quá trình tâm lí khác. Trẻ từ 0 - 6 tuổi đang trong giai đoạn học nói, là giai đoạn siêu tốc trong phát triển ngôn ngữ. Ở giai đoạn này trẻ nói rất nhiều, thường đưa ra nhiều câu hỏi về nguyên nhân, nguồn gốc sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, và đây cũng là thời kì chuẩn bị cho trẻ vào lóp 1 hình thành những yếu tố tiền đọc, tiền viết. Cho nên đây là thời điểm tốt nhất để rèn luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Neu biết tận dụng thời cơ này thì sẽ đạt được hiệu quả cao mà không tốn sức. Từ những lí do trên, bản thân tôi là một người giáo viên mầm non tương lai, với sự nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ chúng tôi đã tìm hiểu về thực trạng lỗi phát âm thường gặp ở trẻ mầm non tù' đó tìm ra nguyên nhân và các biện pháp sửa lỗi phát âm đó cho trẻ. Thông qua đó chúng tôi có thêm điều kiện để bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và đặc biệt chúng tôi mong muốn đề tài nghiên cứu này có thể góp phần nào trong công tác nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường mầm non. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên chúng tôi mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non khu vực huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội”. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Trên thế giới Phát triển ngôn ngữ trẻ mầm non được nghiên cứu rất kĩ lưỡng ở Liên Xô cũ với nhiều nhà sư phạm nổi tiếng. Những công trình này đã được đưa vào Việt Nam khá sớm. Giáo viên và sinh viên các trường đào tạo giáo viên 2 mầm non đã biết đến E.I. Chikhiêva, một nhà sư phạm Nga - Xô viết như một tác giả có uy tín nghiên cún về phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Cuốn sách “Phát triền ngôn ngữ trẻ em dưới tuồi đen trường phố thông ” của bà đã được dịch từ những năm 70 của thế kỉ trước và được coi như một tài “liệu giảng dạy chính trong các trường sư phạm mẫu giáo Việt Nam. Nhiều tác giả Nga khác mà chúng ta biết đến cũng có đóng góp quan trọng vào việc hình thành chuyên ngành phát triển ngôn ngữ trẻ mầm non ở nước ta. Có thể kể đến các tác giả: Xôkhin (1979) “Phương pháp phát triển lời nói trẻ em ”, Nxb Giáo dục Mátxcơva; Barodis A.M (1974) với cuốn “Phươngpháp phát triền tiếng cho trẻ em”, Nxb Giáo dục Mátxcơva... 2.2. Ở Việt Nam Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non được rất nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm và đi sâu tìm hiểu ở các khía cạnh khác nhau. Ớ Việt Nam, Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề này cũng được quan tâm. Một số hội nghị khoa học ở Trung Ương cũng như các địa phương đã hướng nội dung vào việc thảo luận nâng cao chất lượng giảng dạy phát triến ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non. Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn giáo trình “Phương pháp phát triển ngồn ngữ cho trẻ mẫu giảo ” (1997), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là cuốn giáo trình đầu tiên đề cập đến một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề khoa học và thực tiễn của tiếng mẹ đẻ đang được thực hiện trong các lóp nhà trẻ, mẫu giáo ở nước ta. Đây là sản phẩm của niềm say mê hứng thú nghiên cứu, hướng dẫn sinh viên từ thực hành, thực tập trên trẻ, làm khóa luận, luận văn về phát triển tiếng mẹ đẻ cho trẻ mẫu giáo. Trong cuốn giáo trình này tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã đưa ra nhũng nhiệm vụ, nội dung của việc dạy nghe và phát âm đúng cho trẻ. Tác giả đề cập đến một số lỗi phát âm mà trẻ thường mắc phải. Các lỗi phát âm đó được trình bày lần lượt theo cấu 3 trúc của âm tiết: lỗi về thanh điệu, âm chính, âm đầu, âm đệm, âm cuối. Trong mỗi lỗi tác giả đều đề cập đến nguyên nhân mắc lỗi ở trẻ, qua đó Nguyễn Xuân Khoa cũng đưa ra một số trò chơi nhằm luyện cách phát âm cho trẻ. Trong cuốn “Giáo trình phương pháp phát triền ngôn ngữ cho trẻ Mầm non ” của tác giả Đinh Hồng Thái (2006), Nxb Đại học Sư phạm cũng chú trọng tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non: giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng việt, hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo, dạy trẻ các mẫu câu tiếng việt, phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo, phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ mẫu giáo qua thơ và truyện để tạo tiền đề tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Trong tạp chí Giáo dục mầm non số 2/2013 có bài “Mục tiêu phát triển lĩnh vực ngôn ngữ trong chương trình Giảo dục Mam non New Zealand”, Nguyễn Thị Minh Thảo vụ Giáo dục mầm non, Dịch từ chương trình Giáo dục Mam non New Zealand. Bài viết đã đưa ra 4 mục tiêu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ và sự tiếp nối giữa trường mầm non và trường tiểu học. “Phương pháp phát trỉến ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 thảng tuối ” của các tác giả Hoàng Thị Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức (2005) Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội tìm hiểu các vấn đề luyện phát âm cho trẻ ở các lứa tuổi. Trong tạp chí Giáo dục Mầm non, số 1/2006, Đinh Thị Luyên có bài dịch “Tìm hiêu về chương trình phát triền ngôn ngữ cho trẻ mầm non Hàn quốc ”, đây là một góc nhìn mở cho nền giáo dục Việt Nam hiện đại. Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với “Tiếng Việt 1, 2 ” đã cung cấp những kiến thức cơ bản về tiếng việt giúp giáo viên trong việc phát triển ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ cho trẻ. Bài viết “Một sổ biện pháp rèn phát âm L - N cho trẻ 5 tuối, trong tạp chí Giáo dục mầm non số 3/2006, của Đỗ Thị Lương Huệ, trường Mầm non Đằng Hải, quận Hải An - Hải Phòng. Trong bài viết đã đưa ra một số biện 4 pháp để rèn phát âm ỉ - n cho trẻ như: Tự rèn luyện phát âm chuẩn xác / - n, sửa lỗi phát âm phụ âm / - n thông qua hoạt động chung cho trẻ làm quen với chữ cái, rèn cho trẻ phát âm chữ cái ỉ - n thông qua các hoạt động khác, khuyến khích cho trẻ tự phát hiện và sửa lỗi phát âm cho nhau. “Tâm lí học trẻ em ỉứa tuổi mầm non ” của tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã đề cập đến sự phát triển vốn từ của trẻ ở từng giai đoạn lứa tuổi. Trong tạp chí Giáo dục Mầm non số 1/2014 có bài “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuốỉ bang biện pháp sử dụng trò chơi với các con rối ” của tác giả Dương Thị Giác Vũ, trường Mầm non Vàng Anh, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh. Giáo viên đã sử dụng con rối để giúp cho trẻ tập nghe, hiểu, diễn đạt câu... nhằm phát triển ngôn ngũ’ cho trẻ, đáp ứng tốt mục tiêu chăm sóc giáo dục mầm non theo phương châm “chơi mà học, học mà choi”. Và nhiều cuốn sách, tạp chí khác cũng đề cập đến vần đề này. Như vậy có rất nhiều tác giả đã đưa ra những công trình nghiên cún về các phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Tựu chung lại, các nhà khoa học đều hướng tới mục tiêu phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đưa ra các lỗi phát âm ở trẻ, tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của ngành giáo dục mầm non nói riêng và nền giáo dục của đất nước ta nói chung. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này theo nhận định của chúng tôi, chưa có một ai hay chưa một công trình khoa học nào đưa ra được những biện pháp tối ưu nhất, mang tính thực tiễn nhất đế sửa lỗi phát âm cho trẻ. Chính vì lí do này, chúng tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp sửa loi phát âm cho trẻ mầm non khu vực huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”. 3. Mục đích nghiên cứu Đưa ra các biện pháp khắc phục, sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non khu vục huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cửu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Một số lỗi phát âm của trẻ mầm non, nguyên nhân và các biện pháp khắc phục. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong đề tài này, chúng tôi đi vào thực tế tìm hiểu một số lỗi phát âm thường gặp ở trẻ mẫu giáo nhưng do thời gian và điều kiện không cho phép nên chúng tôi chỉ có thể điều tra thực tế lỗi phát âm ở hai trường Mầm non của huyện Sóc Sơn: - Trường Mầm non Tiên Dược - xã Tiên Dược - huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội. - Trường Mầm non Tân Hưng - xã Tân Hưng - huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc tìm ra một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non khu vực huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. - Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân mắc lỗi phát âm của trẻ mầm non. - Đưa ra một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non. 6. Phương pháp nghiên cún Trong đề tài này chúng tôi có sử dụng: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp tổng họp. 6 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu và phần Ket luận, nội dung khóa luận gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Thực trạng lỗi phát âm của trẻ mầm non và nguyên nhân Chương 3: Một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ mầm non 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. C ơ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Co’ sỏ’ tâm sinh lý của trẻ mầm non 1.1.1. Đặc điếm tâm lý của trẻ mầm non Trong năm thứ nhất, ngoài sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ về thể chất thì tâm lí của trẻ mầm non cũng có sự thay đổi rõ rệt và nhanh chóng. Ngay từ thuở lọt lòng, trẻ đã được tiếp xúc vớinhững lời “ầu, ơ”, nhũng câu nựng của bà của mẹ. Tất cả đã ngấmsâu trongtiềm thức non nớt của chúng. Lớn hơn một chút, khi nhu cầu cần được giao tiếp của trẻ phát triển, trẻ biết hóng chuyện thì mẹ là người trò chuyện, tâm sự với trẻ. Khi giao tiếp trẻ bắt chước những âm thanh trong lời nói của nhũng người xung quanh. Sau 3 tháng, một đứa trẻ bình thường có thể phát ra những âm thanh nhỏ “gừ gừ”; thỉnh thoảng ta có thể bắt gặp những âm thanh “ô, a” trong mồm đứa trẻ theo nhịp điệu “à ơi” hay “ầu ơ” trong lời ru của người lớn. Đen độ tuổi hài nhi, trẻ hình thnahí những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ. Lúc này thì giao tiếp xúc cảm trục tiếp với người lớn là hoạt động chủ đạo của trẻ hài nhi. Tất nhiên trẻ chỉ sẵn sàng giao tiếp với người lớn khi nó thấy an toàn và thoải mái về tình cảm. Càng về cuối năm thứ nhất thì trẻ lại càng thích giao tiếp với người lớn bằng những âm bập bẹ của mình. Âm bập bẹ này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ sau này. Như vậy trong quá trình tiếp xúc trực tiếp với người lớn, sự thông hiểu ngôn ngữ của trẻ dần dần mang tính tích cực hơn và trở thành một trong những phương tiện quan trọng để mở rộng khả năng giao tiếp của trẻ với nhũng người xung quanh. Có thế nói giao tiếp với người lớn được coi là điều kiện tiên quyết đế trẻ lớn lên thành người. Ở tuổi ấu nhi (15 - 36 tháng), trẻ đã có thể nắm vững hoạt động với đồ vật và việc giao tiếp với người lớn tạo ra sự biến đổi đáng kể trong các hình thức giao tiếp của trẻ ấu nhi. Điều này quyết định sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở lứa tuổi này. Tuy nhiên, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ ở lưa tuổi này phần lớn phụ thuộc vào sự dạy bảo của người lơn. Những đứa trẻ mà ít giao tiếp hay ít được thỏa mãn nhu cầu giao tiếp thì thường nói rất chậm. Đe kích thích trẻ nói người lớn cần đòi hỏi trẻ phải bày tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói thì mới đáp ứng được nguyện vọng đó. Trẻ đến độ tuổi mẫu giáo đã nắm được một số vốn từ vựng mà người lướn cung cấp. Nét tâm lý đặc sắc ở giai đoạn này là sự tò mò, trẻ luôn muốn được tìm hiểu, được khám phá thế giới xung quanh, trẻ luôn hỏi người lớn “vì sao”, “tại sao” trước những sự vật, hiện tượng lạ và luôn yêu cầu người lớn phải giải thích nghĩa của từ đó cho trẻ hiểu. Thêm vào đó nhờ ngôn ngữ mà tư duy của trẻ mẫu giáo đã phát triển hơn so với trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ. Tư duy của tre mẫu giáo phát triến trên cơ sở kinh nghiệm cảm tính ngày càng tăng, trong quá trình giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ các hình thức tư duy cũng được hoàn thiện dần khi hiểu biết của trẻ càng mở rộng. Sự phát triển tư duy của trẻ gắn chặt với phát triến ngôn ngữ và sự tăng vốn từ. Tư duy trực quan hình tượng của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh mẽ và chủ yếu. Tuy nhiên ở cuối độ tuổi mẫu giáo thì kiếu tư duy này không đáp ứng được nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh mẽ ở trẻ mẫu giáo lớn, vì vậy xuất hiện thêm kiểu tư duy trực - hình tượng mới đó là kiểu tư duy trực quan - sơ đồ, kiểu tư duy này vẫn giũu mãi tính chất hình tượng song bản thân hình tượng cũng trở nên khác trước: hình tượng đã bị mất đi những chi tiết rườm rà mà còn giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát sự vật chứ không phải là từng sự vật riêng lẻ. 9 Như vậy, các đặc điểm tâm lý chung của trẻ mầm non đang được hình thành và phát triển mạnh mẽ song lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự phát triển ngôn ngữ. Sự lĩnh hội ngôn ngữ của độ tuổi này góp phần thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ. Sự lĩnh hội ngôn ngữ của độ tuổi này góp phần thúc đẩy sự phát triến cả thể chất lẫn tâm lí của trẻ, bước đầu hình thành nhũng yếu tố đầu tiên của nhân cách con người mới. 1,1.2. Đặc điếm sinh lý của trẻ mầm non Trẻ em là một thực thê tự nhiên đang phát triển. Trẻ càng nhỏ thì tốc độ phát triển càng nhanh, các cơ quan dần được hoàn thiện về cấu tạo và chức năng, chúng ta có thể quan sát thấy trẻ khôn lớn từng ngày. Tuy nhiên, không phải là luôn luôn giống nhau và trùng nhau về mức độ phát triển mà còn tùy thuộc vào từng cơ quan, hệ sơ quan và các giai đoạn phát triển. Quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cảu các cơ quan hệ cơ quan có tác động lớn đến tất cả các quá trình tâm lí của trẻ. Vì vậy, tính thích nghi và khả năng hoạt dộng khác của trẻ dễ bị thay đổi dưới những tác động khác nhau. • Đặc điếm hệ thần kinh của trẻ Hệ thần kinh điều khiển sự hoạt động của các cơ quan làm cho cơ thể thích nghi được sự thay đổi thường xuyên của môi trường và có thể cải tạo nó. Nhờ có hệ thần kinh mà con người có tư duy, có tâm lý. vỏ não là cơ sở vật chất của toàn bộ hoạt động tâm lý của con người. Ngay từ lúc sinh ra, hệ thần kinh của trẻ chưa phát triển hoàn thiện nên chưa đủ khả năng để thực hiện chức năng của mình. Khi ra đời, não bộ của trẻ chưa phát triển đầy đủ, mặc dù cấu tạo và hình thái không khác người lớn, trọng lượng lúc sơ sinh là 370 - 392 gam, khi được 6 tháng trọng lượng tăng gấp đôi, 3 tuổi tăng gấp 3 và 9 tuổi thì nặng 1300 gam. Sự phát triển các đường dẫn truyền diễn ra rất mạnh và tăng lên theo từng lứa tuổi. Vì vậy sự phát triển hệ thần kinh của trẻ mẫu giáo cao hơn so với trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ. 10 Chức năng của tất cả các cơ quan trong vỏ đại não, hoạt động hệ thần kinh cao cấp được phát triển cao hơn. Các phản xạ có điều kiện được hình thành nhanh chóng trong suốt giai đoạn mẫu giáo theo xu hướng tăng dần. Chức năng của vỏ bán cầu đại não tăng hơn so với trung khu dưới vỏ, do đó ta thấy hành vi của trẻ có tính tổ chức hơn. Trong mối quan hệ chức năng thì hẹ thần kinh mang tính không ổn định nên các quá trình tâm lý diễn ra không đầy đủ. Trẻ em từ 4 - 6 tuổi, quá trình ức chế tích cực đần phát triển, trẻ đã có khả năng phân tích, đánh giá, hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận động và phân biệt được các hiện tượng xung quanh. Hệ thần kinh có một tác dụng chi phối và điều tiết đối với vận động cơ thể cải thiện tính không cân bằng của quá trình thần kinh. Cần chú ý tới sự luân phiên giữa động và tĩnh trong quá trình vận động của trẻ. 1.2. Cơ sở ngôn ngữ học 1.2.1. Đặc điếm của âm tiết tiếng Việt Mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt có 5 thành phần và được sắp xếp theo sơ đồ sau: Thanh điệu (5) Vân Âm đầu (1) • Âm đệm (2) Âm chính (3) Âm cuối (4) Thành phần vị trí 5 là thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết. Có 6 thanh điệu: - Thanh ngang: Trên chữ không ghi dấu khi viết. - Thanh huyền: ( \ ) - Thanh sắc: ( / ) - Thanh nặng: (.) - Thanh hỏi: (?) 11 - Thanh ngã: ( ~ ) • Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm. • Thành phần ở vị trí 2 là âm đệm có hai con chữ thể hiện là o và u, ví dụ: toàn, tuân. • Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính là hạt nhân của âm tiết. • Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối do 6 phụ âm là /m/, /n/, /p/, /t/, /ky và hai bán âm • Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể có hoặc không. - Âm tiết của tiếng Việt có cấu trúc chia làm hai bậc: Âm tiết Bậc 1: Thanh điệu Bậc 2: Phần vần Ảm đẩu Âm tiết Âm đệm Âm chính Âm cuối • Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết: la, lá, lã đối lập với là, lả, lạ. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau phát âm với cao độ thấp. • Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao, 12 trong thời gian âm tiết “la” được phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng; còn “lã” với đường nét biến thiên, cao độ không bằng phang; âm điện là những đường nét biến thiên về cao độ. • Nguyên âm trong tiếng Việt được coi là âm chính, nguyên âm là khi nói âm phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở. Trong tiếng Việt có 16 nguyên âm, bao gồm 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi. - Nguyên âm đơn: + 9 nguyên âm dài: a, ơ, u, e, ê, o, ô, i, ư + 4 nguyên âm ngắn: - Nguyên âm đôi là gồm hai nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi phát âm thì đọc nhanh, đọc lướt từ âm này sang âm kia, lúc đầu mạnh, sau yếu hơn, do đó âm sắc chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. • Phụ âm: Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiếttiếng Việt bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra bị cản ở chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi, có loại bị cản ở răng, có loại bị cản ở thanh hầu. v ề phương thức phát âm người ta chia phụ âm thành: - Phụ âm tắc: Hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi: b, d, t, s, c, k, m,r, ng. - Phụ âm sát: Hơi đi qua kẽ hở miệng: p, V, s, z, I, X, y, h. - Phụ âm vang: Hơi thoát ra đầu lưỡi và bên lưỡi: m, n, nh. - Phụ âm ồn: Hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn: b, d, t, c, k, p, X, V, Z, y, h. - Phụ âm hũai thanh, vô thanh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có rung hay không rung người ta chia ra : + Phụ âm hũu thanh: Dây thanh rung (d, V, y). + Phụ âm vô thanh: Dây thanh không rung (t, к, с, b, s, X, h). 13 1.2.2. Đặc điếm phát triển ngôn ngũ' của trẻ mầm non 1.2.2.1. Đặc điếm vốn từ của trẻ mầm non 1.2.2.1.1. Đăc điểm vốn từ của trẻ từ 0 - 3 tuồi • Trẻ tù’ 0 - 1 tuổi - Trẻ sơ sinh chưa hiểu được ngôn ngữ cảu người lớn. Ở giai đoạn này trẻ mới bắt đầu cảm nhận ngữ điệu trong giọng nói của người mẹ. - Khi trẻ được 7- 8 tháng tuổi trẻ bắt đầu biết tên của mình. - Đen 10-11 tháng, trẻ bắt đầu hiểu một số từ chỉ các sự vật, người mà trẻ thường xuyên tiếp xúc. Ví du: mẹ, bà, gà.... - Đến cuối năm thứ nhất trẻ bắt đầu có từ chủ động. Đó là những từ đơn có cấu tạo âm thanh đơn giản. Ví dụ: đi, bà, mẹ, gà... - Trẻ ở lứa tuổi này có khoảng 5 - 1 0 từ, chủ yếu là danh từ, chỉ có 1 2 động từ. Ví du: đi, chạy, bế... Trong vốn từ của trẻ chưa có tính từ và các loại từ khác. • Trẻ từ 1 - 2 tuổi - So với năm thứ nhất, đầu năm thứ hai môi trường tiếp xúc của trẻ rộng hơn, trẻ được làm quen với nhiều sự vật hiện tượng hơn nên vốn từ của trẻ tăng lên rõ rệt. Trẻ không chỉ hiểu những từ chỉ sự vật cụ thể mà trẻ còn hiểu những từ chỉ tính chất hành động của sự vật. Ví du: ăn, đi, chạy... - Trẻ ở giai đoạn này bắt đầu xuất hiện từ ghép, nhưng khi gặp từ khó phát âm trẻ thường phát âm giản lược hoặc phỏng âm. Ngoài danh từ, động từ, ở trẻ đã có tính từ. Nửa sau năm thứ hai ( 18 - 24 tháng), từ chủ động của trẻ tăng rất nhanh. Trẻ không chỉ hiếu những tù' chỉ tên sự vật, hành động, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan