Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp Lựa chọn các bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp Lựa chọn các bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội

.PDF
55
174
87

Mô tả:

1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRƯƠNG VĂN BINH LựA CHỌN CÁC BÀI TẬP NHẰM NÂNG • • • CAO HIỆU QUẢ GIẬM NHẢY TRONG NHẢY CAO NẰM NGHIÊNG CHO NAM HỌC SINH KHỐI 11 TRƯỜNG THPT NGUYỄN VÃN CỪ - HÀ NỘI KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • HÀ NỘI - 2011 • • TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRƯƠNG VĂN BINH LựA CHỌN CÁC BÀI TẬP NHẰM NÂNG • • • CAO HIỆU QUẢ GIẬM NHẢY TRONG NHẢY CAO NẰM NGHIÊNG CHO NAM HỌC SINH KHỐI 11 TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN CỪ - HÀ NỘI KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • • • C H U Y ÊN NG À N H : C N K H SP TDTT- G D Q P Người hướng dẫn khoa học TH.S DƯƠNG VĂN Vĩ HÀ NỘI - 2011 3 LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là Trương Văn Binh Sinh viên lớp K33 khoa GDTC trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cam đoan kết quả nghiên cứu của đề tài là do tôi làm. Kết quả nghiên cứu này mang tính thời sự, cấp thiết và phù hợp với điều kiện khách quan của trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2011. Sinh viên Trương Văn Bỉnh 4 D A N H M ỤC CÁC TỪ V IẾT TẮT Gdtc : Giáo dục thể chất Tdtt : Thể dục thể thao Thpt : Trung học phổ thông. Vđv : Vận động viên. tn : Thực nghiệm. đc : Đối chứng HLV : Huấn luyện viên 5 D A N H M Ụ C BẢ N G BIÊU Bảng 3.1 Thực trạng đội ngũ giáo viên trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm - Hà Nội Bảng 3.2. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập môn GDTC Bảng 3.3. Kết quả quan sát sư phạm các bài tập của học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội Bảng 3.4. Kết quả phỏng vấn các thầy cô giáo việc sử dụng bài tập trong giảng dạy kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng cho học sinh khối 11 trường THPT Nguyên Văn Cừ - Hà Nội (n= 15) Bảng 3.5. Kết quả học tập môn nhảy cao nằm nghiêng của nam học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội Bảng 3.6. Kết quả phỏng vẫn những sai lầm thường mắc và nguyên nhân dẫn tới những sai lầm khi học kỹ thuật giai đoạn giậm nhảy của kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng (n = 15) Bảng 3.7. Kết quả phỏng vấn các bài tập trong giảng dạy kỹ thuật giậm nhảy của kiểu nhảy cao nằm nghiêng ( n = 16) Bảng 3.8. Kết quả phỏng vấn đội ngũ giáo viên TDTT về việc lựa chọn các test đánh giá bài tập bổ trợ nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy cho đối tượng nghiên cứu (n = 14) Bảng 3.9. Tiến trình giảng dạy Bảng 3.10. Kết quả kiểm tra 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm (nA= nB= 35). Bảng 3.11. Kết quả kiểm ưa 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng sau thực nghiệm(nA= nB= 35). 6 Bảng 3.12. Bảng tổng kết điểm nhảy cao của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm trước thực nghiệm (n = 35). Bảng 3.13. Bảng tổng kết điểm nhảy cao của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm sau thực nghiệm (n = 35). Biểu đồ 1: Thành tích bật xa tại chỗ (cm). Biểu đồ 2: Thành tích nhảy cao toàn đà (cm). Biểu đồ 3: Thành tích chạy 30m xuất phát cao (giây). 7 MỤC LỤC Trang Đặt vấn đề ..........................................................................................................1 Chương 1. Tổng quan các vấn đề nghiên c ứ u ................................................ 5 1.1. Khái niệm về kĩ thuật, vai ừò của kĩ thuật điền kinh .................................5 1.2. Khái niệm, vai trò và tác dụng của bài tập chuyên môn .............................6 1.3. Xu thế nghiên cứu sử dụng các phương tiện bài tập chuyên môn trong thể thao nói chung và trong giảng dạy môn nhảy cao nằm nghiêng nói riêng. .7 1.4. Cơ sở sinh lý của các tố chất thể lực.............................................................9 1.5. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh THPT..........................................16 Chương 2. Nhiệm yụ, phương pháp và tổ chức nghiên cứu.......................19 2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 19 2.2. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 19 2.3. TỔ chức nghiên cứu.................................................................................. 21 Chương 3. Phân tích kết quả nghiên cứu....................................................24 3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và việc sử dụng bài tập chuyên môn trong giảng dạy kỹ thuật giậm nhảy trong nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội...................... 24 3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập chuyên môn nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong nhảy cao nằm nghiêng của nam học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm - Hà N ộ i................................32 Kết luận và kiến nghị ................................................................................... 45 Tài liệu tham khảo........................................................................................ 47 Phụ lục 8 ĐẶT VẤN ĐỂ Trong xu thế hội nhập kinh tế, Quốc tế, sự bùng nổ của công nghệ thông tin truyền thông cùng với sự phát triển mạnh mẽ ở đất nước ta. Nó càng phải đòi hỏi mỗi chúng ta phải không ngừng cố gắng để đáp ứng với sự nghiệp của thời đại. Chính vì vậy, TDTT là một hoạt động không thể thiếu trong đời sống xã hội loài người. Ngay từ khi mới ra đời nó đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền văn hoá xã hội, là phương tiện giáo dục thể chất góp phần phát triển toàn diện nhân cách, nâng cao sức khoẻ phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hoạt động TDTT không chỉ đem lại sự thoả mãn về nhu cầu tinh thần và thể chất mà thông qua TDTT chúng ta có thể đánh giá được sự phát triển văn hoá thể chất của mỗi địa phương, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, nó còn là phương tiên giao lưu mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới, là niềm tự hào dân tộc, cũng như sự khẳng định vị thế của mình trên vũ đài quốc tế. Thấy được ý nghĩa xã hội to lớn của hoạt động TDTT mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định, giáo dục thể chất (GDTC) trong sự nghiệp giáo dục là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình phát ừiển và hoàn thiện nhân cách của mỗi học sinh, sinh viên, vận động viên (YĐV) nói riêng, cho mỗi người dân nói chung nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển con người toàn diện phù hợp với thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong tình hình đất nước đổi mới và phát triển, thể thao Việt Nam đã và đang phát triển lớn mạnh. Được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, ngành TDTT đã bước sang giai đoạn phát triển. Vì vậy một trong những công tác trọng tâm của công cuộc đổi mới chung của toàn ngành là tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi, huấn luyện viên có trình độ chuyên môn tốt, đào tạo những tài năng thể thao thúc đẩy phong trào TDTT phấn đấu đạt thứ hạng cao tại các kì thi đấu ữong khu vực và quốc tế. Những thành tích thể thao mà chúng ta đã đạt được tại các kì Seagams, Asia... Là những dấu hiệu khả 9 quan cho tương lai thể thao của nước nhà. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng khẳng định: “Công tác thể dục thể thao coi trọng và nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học, tổ chức, hướng dẫn và vận động nhân dân tham gia rèn luyện hàng ngày. Nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục và đào tạo” [14]. Do có tầm quan trọng và những lợi ích to lớn mà Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực TDTT. Vì vậy, Chỉ thị 112 của Hội đồng bộ trưởng ngày 09/06/1989 về công tác thể dục thể thao trong những năm trước mắt[5] và Chỉ thị 36CT-TƯ của Ban Bí thư trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới ra đời là cần thiết[4]. Nghị quyết trung ương II về công tác giáo dục đào tạo lại càng khẳng định giáo dục thể chất trong trường học là cực kỳ quan trọng. [9] Trong mục tiêu đào tạo con ngưòi toàn diện về: Đức, ừí, thể, mĩ cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Tại Hội nghị TW4 khoá v i n về đổi mới công tác giáo dục đào tạo, trong Nghị quyết có ghi: Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức... Đã khẳng đinh mục tiêu giáo dục là nhằm giáo dục và hình thành nhân cách, tăng cường thể lực cho học sinh, sinh viên. Vì vậy, chúng ta phải phấn đấu thực hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát triển phong trào TDTT trong những năm đầu của thế kỉ XXI đưa thể thao Việt Nam hoà nhập, đua tranh với các nước trong khu vực và thế giới[8]. Ngày 7/8/1995 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 133/TTg nêu rõ yêu cầu đối với Tổng cục TDTT cũng là UBTDTT - Việt Nam tỉnh thành và mã ngành có liên quan: “Ngành TDTT phải xây dựng định hướng phát triển có tính chiến lược, trong đó quy định rõ các hình thức hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối tượng lứa tuổi tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của quần chúng, khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [6]. Trong đó GDTC là một bộ phận hết sức cần thiết nó gắn liền và góp phần vào mục tiêu giáo dục và đào tạo, có vai trò quan trọng để chuẩn bị thể lực chung cho học sinh, đổng thời GDTC còn giúp rèn luyện ý chí, tinh thần dũng cảm, ý 10 thức tổ chức kỉ luật và là một trong những nội dung đánh giá tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh. Không chỉ vậy, GDTC trong nhà trường THPT nhằm từng bước nâng cao trình độ văn hoá, thể chất và thể thao cho người học, góp phần vào sự nghiệp TDTT của đất nước trong khu vực và quốc tế. Điền kinh là một môn thể thao đa dạng và phong phú. Nó bao gồm các hoạt động tự nhiên của con người như: Đi bộ, chạy, nhảy và nhiều môn phối hợp. Điền kinh được coi là một bộ phận giảng dạy chính thức trong các trường, các cấp từ cơ sở đến cấp trung học trong các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học. Nó vừa là môn học rất cơ bản và làm tiền đề cho các môn học khác, mặt khác nó đánh giá thực tiễn về các chỉ tiêu rèn luyện thân thể của học sinh, sinh viên. Khi tập luyện điền kinh sẽ làm cho cơ thể biến đổi rõ rệt về hình thái chức năng cũng như các tố chất thể lực, tập luyện điền kinh không đòi hỏi sân bãi, dụng cụ phức tạp, ngưòi tập có thể tận dụng mọi địa hình, địa phận. Do đó, môn thể thao này cũng thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng tham gia tập luyện. Đặc biệt, là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển thể chẩt trong các trường học, các cấp học và đây cũng chính là cơ sở sớm phát hiện ra tài năng trẻ của nước nhà. Ở nước ta bộ môn điền kinh ra đời và phát triển cũng rất sớm song nó chi thực sự phát triển manh từ sau năm 1975 cả về số lượng và chất lượng. Thành tích môn thể thao nói chung và điền kinh nói riêng được chi phối bởi 2 yếu tố chủ yếu là: - Trình độ kỹ thuật. - Trình độ thể lực. Hai yếu tố trên quan hệ rất mật thiết và khăng khít nhau, tác động qua lại hỗ trợ cho nhau. Do vậy trong thực tế để có được thành tích nhảy cao tốt, người tập ngoài việc có kỹ thuật và thể lực tốt cần phải biết kết hợp giữa kỹ thuật và thể lực. Môn điền kinh thật phong phú và đa dạng song môn thi đấu nhảy cao là môn rất hấp dãn, nó được phát triển từ rất sớm với nhiều kỹ thuật khác nhau, mục đích của con người là vượt qua được chướng ngại vật, từ chạy đà theo phương 11 nằm ngang sang giậm nhảy theo phương thẳng đứng. Nhảy cao là môn thể thao không có chu kỳ, nó gồm nhiều động tác khó và phức tạp đòi hỏi người tập phải có kỹ năng phối hợp vận động.Thành tích của nhảy cao phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó kỹ thuật chạy đà và giậm nhảy cũng như thể lực vận động là quyết định nhưng giậm nhảy là yếu tố cơ bản quyết định đến thành tích. Mục đích của giậm nhảy là đưa được trọng tâm cơ thể lên cao nhất để thực hiện kỹ thuật tiếp theo, cho nên việc học tập để hoàn thiện kỹ thuật giậm nhảy là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình huấn luyện, giảng dạy kỹ thuật nhảy cao cho vận động viên và học sinh. Thông qua một số buổi quan sát và kết quả nhảy cao của học sinh ở một số trường trong thành phố Hà Nội, chúng tôi nhận thấy thành tích và hiệu quả đạt được chưa cao. Nguyên nhân chính là do chưa phát huy được hiệu quả kỹ thuật giậm nhảy, tổn tại nguyên nhân đó là do chưa có đủ dụng cụ sân bãi đáp ứng yêu cầu tập luyện của môn học, đội ngũ giáo viên còn hạn chế, số học sinh nhiều. Vì vậy, việc giảng dạy kỹ thuật còn hạn chế và kết quả chưa cao. Xuất phát từ lý do trên, để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường nói chung và một số trường nói riêng, Tôi lựa chọn đề tài “Lựa chọn các bài tập chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội”. * Mục đích nghiên cứu: Dựa trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn chúng tôi ứng dụng các bài tập chuyên môn sao cho phù hợp với điều kiện lứa tuổi, giới tính... nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy ừong nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội. 12 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VAN ĐỂ NGHIÊN c ứ u 1.1. Khái niệm về kỹ thuật, vai trò của kỹ thuật điền kinh Kỹ thuật là hệ thống các cử động, các thao tác được thực hiện để giúp người tập hoàn thành nhiệm vụ vận động với hiệu quả cao nhất.[3] Để đạt được thành tích tốt nhất trong điền kinh, vận động viên phải có kỹ thuật thực hiện động tác hợp lý và hiệu quả tốt nhất. Kỹ thuật phải phù hợp với đặc điểm cá nhân của vận động viên và điều kiện thực hiện động tác. Thành tích thể thao cao phải dựa trên sự huấn luyện kỹ thuật, thể lực cho vận động viên. Để nắm được kỹ thuật, vận động viên phải có sức mạnh, sức nhanh, sức bền, độ mềm dẻo và sự khéo léo được phát triển ở mức cao. Một trong những điều kiện cơ bản để nắm vững kỹ thuật thể thao có hiệu quả là sự tự giác của vận động viên trong tất cả các giai đoạn hoàn thiện, phải tìm hiểu, suy luận để hiểu rõ kỹ thuật mà mình áp dụng là thực sự hợp lý hay chưa. Trong điều kiện hiện nay, khi trình độ thành tích thể thao ở mức rất cao, nếu không nghiên cứu sâu để hoàn thiện kỹ thuật thì không thể đạt được thành tích cao, nhất là đối với những môn có kỹ thuật phức tạp. Việc hoàn thiện kỹ thuật được tiếp tục trong suốt quá trình huấn luyện. Huấn luyện không được bỏ qua việc dạy các thành phần kỹ thuật riêng lẻ, khắc phục các sai sót trong kỹ thuật. Vốn dự trữ kỹ năng vận động được tạo nên thông qua việc áp dụng các bài tập huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn khác nhau. Điều quan trọng là phải tính đến mối quan hệ hữu cơ giữa việc phát triển các tố chất thể lực với việc tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật. Nội dung chủ yếu trong việc hoàn thiện kỹ thuật các môn điền kinh là các phương pháp và phương tiện tạo nên khái niệm đúng về động tác, nắm vững các động tác thực hành, đánh giá được mình thực hiện, xác định được sai lầm và tìm cách sửa chữa. 13 1.2. Khái niệm, vai trò và tác dụng của bài tập chuyên môn. 1.2.1. Khái niệm Từ trước tới nay, khái niệm về bài tập chuyên môn được nhiều tác giả khác nhau nêu ra như: Theo các nhà khoa học cho rằng: Bài tập chuyên môn là một trong những biện pháp giảng dạy bao gồm các bài tập mang tính chuẩn bị cho vận động viên, bài tập mang tính dẫn dắt, bài tập mang tính chuyển đổi và bài tập tăng cường tố chất thể lực. Còn theo lý luận và phương pháp giáo dục thể dục thể thao của Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn và các cộng sự thì cho rằng: Bài tập chuyên môn là các bài tập phức hợp các yếu tố của động tác thi đấu cùng các biến dạng của chúng cũng như các bài tập dẫn dắt tác động có chủ định và có hiệu quả ở chính ngay môn thể thao đó [10]. Các khái niệm trên tuy có khác nhau về cách trình bày nhưng luôn có sự thống nhất về ý nghĩa. Như vậy, có thể chốt lại về khái niệm bài tập chuyên môn là các bài tập mang tính chất chuẩn bị, tính dẫn dắt, tính chuyển đổi và tính thể lực chuyên biệt cho từng kỹ thuật và từng môn thể thao khác nhau. 1.2.2. Vai trò và tác dụng của bài tập bổ trợ chuyên môn. Theo các nhà khoa học, các chuyên gia, huấn luyện viên thể thao thì các bài tập chuyên môn là biện pháp quan trọng trong giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật. Một kỹ thuật thường được cấu trúc các chuỗi động tác gắn kết có trình tự, có sự liên quan phối hợp lẫn nhau. Thúc đẩy hoặc hạn chế nhau để cùng thực hiện yếu lĩnh kỹ thuật động tác nào đó, một kỹ thuật thường gắn nhiều khâu, nhiều cử động, nhiều giai đoạn nên cùng một lúc người học không thể hình thành ngay các khái niệm cũng như tạo ra các đường mòn liên hệ trên vỏ đại não các cử động đó. Do vậy, người ta phân chia nhỏ kỹ thuật phức tạp thành các giai đoạn khác nhau. 14 Trong nhảy cao, người ta phân kỹ thuật ra thành 4 giai đoạn là: Chạy đà, giậm nhảy, trên không qua xà và tiếp đất. Trên cơ sở đó người học nắm bắt được từng phần sau đó liên kết lại thành kỹ thuật hoàn chỉnh. Ở mỗi giai đoạn kỹ thuật, để giúp người học hình thành được kỹ thuật người ta sử dụng các bài tập khác nhau: - Mang tính chuẩn bị nhằm đưa người tập vào trạng thái sinh lí tâm lí thích hợp với việc tiếp thu kỹ thuật. - Mang tính dẫn dắt nhằm làm cho người tập nắm được các yếu lĩnh từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến hoàn thiện một kỹ thuật. - Mang tính chuyển đổi từ động tác này sang động tác khác với các không gian và thời gian khác nhau nhằm tạo ra sự lợi dụng các kỹ năng đã có hình thành ra các kỹ năng mới. Và có thể đáp ứng cho người học thực hiện thuận lợi các kỹ năng đang học, người ta còn cần tập các bài tập chuyên môn cho người tập. Muốn giậm nhảy tốt, người tập phải có sức manh bột phát của chân giậm nhảy kết hợp đặt chính xác chân giậm giậm vào vị trí giậm nhảy cũng như tốc độ chạy đà, tư thế thân người có góc độ của chân giậm nhảy. Vì vậy, đi đôi với các bài tập chuyên môn về kỹ thuật, người ta cũng chú trọng đưa vào trong quá trình giảng dạy huấn luyện các bài tập để tăng cường một số tố chất thể lực chuyên môn vừa là biện pháp để nắm kỹ thuật phức tạp và khó, vừa là một khâu quan trọng để thúc đẩy nhanh quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động. 1.3. Xu thế nghiên cứu sử dụng các phương tiện bài tập chuyên môn trong thể thao nói chung và trong giảng dạy môn nhảy cao nằm nghiêng nói riêng. Do vai trò tác dụng của to lớn nói trên bài tập chuyên môn đối với quá trình giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật nên nhiều nước có nền công nghiệp hiện đại đã đầu tư cải tiến, vận dụng những thành quả của ngành khoa học kỹ thuật để tạo ra nhiều các bài tập chuyên môn. 15 Nhìn chung, người ta có thể thấy các xu thế nghiên cứu sử dụng bài tập chuyên môn sau: * Nghiên cứu phát triển công cụ và phương tiện để sử dụng cho các bài tập chuyên môn Các cuộc thi chính thức khởi nguồn lịch sử môn Nhảy cao lẩn đầu tiên có từ hơn 100 năm trước. Ngày đó môn Nhảy cao chủ yếu diễn ra trên hố cát và các đường chạy bằng đất nện hoặc sỉ than, các kỹ thuật còn nghèo nàn, công cụ và phương tiện tập luyện còn hạn chế. Do vậy, các hình thức của các bài tập chuyên môn cũng đơn điệu, nghèo nàn. Nhờ có khoa học phát triển, nên có sự ra đòi của các dụng cụ và máy móc tập luyện khác nhau làm cho các bài tập càng đa dạng phong phú hơn, đáp ứng các mục đích có yêu cầu chuyên biệt của các môn thể thao. * Tận dụng các phương tiện về ánh sáng, âm thanh tăng hiệu quả các bài tập chuyên môn Hiện nay, các nhà khoa học đã phát hiện thấy mối quan hệ giữa các giác quan thuộc xúc giác, thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác, đều có tác động quan trọng tới việc nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo và phát triển các tố chất vận động. Yì vậy, nhiều chuyên gia thể thao đã dùng ánh sáng hoặc âm thanh, tác động vào tâm lí cũng như quá trình hưng phấn của người tập giúp cho tập luyện đạt hiệu quả cao. * Xu thế tập luyện bài tập chuyên môn theo nhịp sinh học của người tập. Nhịp sinh học được hai nhà khoa học người Mỹ đề xuất vào thế kỷ 19. Theo hai ông, nếu tính từ ngày sinh thì cứ 23 ngày là một chu kỳ thể lực, 28 ngày là một chu kỳ tình cảm và 33 ngày là một chu kỳ trí lực. Nếu tập luyện vào nhịp sinh học cao nhất của thể lực, trí lực hoặc tình cảm thì hiệu quả sẽ cao hơn, còn các ngày khác cần có sự tập luyện vào thời điểm nhịp sinh học cao sẽ có hiệu quả cao. 16 Tóm lại, các xu thế nói ừên để nâng cao hiệu quả các bài tập chuyên môn đang ngày càng được các nước có nền thể thao tiên tiến sử dụng rộng rãi trong quá trình giảng dạy và huấn luyện thể thao. Họ coi đó là những biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và huấn luyện các môn thể thao nói chung và môn Nhảy cao nói riêng. 1.4. Cơ sở sinh lý của các tố chất thể lực. Kỹ năng vận động: Là khả năng điều khiển các động tác ở mức độ còn phải tập trung ý thức vào các thao tác, cách thức thực hiện và động tác chưa ổn định. [7] Kỹ năng vận động là tổ hợp các động tác vận động trong cuộc sống cá thể do tập luyện TDTL Kỹ xảo vận động là khả năng điều khiển có tính chất tự động hoá với các động tác trong hành vi vận động toàn vẹn và động tác được tiến hành với độ vững chắc cao. * Kỹ năng vận động được hình thành theo 3 giai đoạn: - Lan toả: Là hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não, vì chưa hình thành được một tổ hợp các phản xạ tối ưu. Nhiều nhóm cơ không cần thiết cũng tham gia hoạt động. Động tác vì vậy không chính xác, nhiều cử động thừa, không tinh tế. - Tập trung: Là hưng phấn tập trung ở những vùng nhất đinh trên vỏ não, cần thiết cho vận động. Các vận động thừa mất đi, cơ năng và co bóp ở mức độ hợp lí, động tác trở nên nhịp nhàng, chính xác và thoải mái hơn. Khả năng vận động được hình thành tương đối ổn định - Giai đoạn ổn định: Là không cần có sự chú ý của ý thức. Khả năng vận động ở giai đoạn này ổn đinh, cho phép thực hiện nhiều động tác khác nhau cùng một lúc. * Các tố chất vận động (tố chất thể lực): Trong sinh hoạt, lao động tập luyện TDTT, con người phải vận động nhanh, có lúc làm việc lâu dài với lực tương đối nhỏ, có lúc thực hiện các động tác mang vác rất nặng, thể hiện các mặt 17 khác nhau của khả năng vận động được gọi là tố chất vận động hay tố chất thể lực. Năng lực vận động của con người được thể hiện qua 4 loại tố chất sau: * Sức mạnh là khả năng khắc phục trọng tải bên ngoài bằng sự căng cơ. Sức mạnh cơ bắp phụ thuộc vào đặc tính của quá trình thần kinh điều khiển. [7] Sức manh mà cơ phát ra phụ thuộc vào: - Số lượng đơn vị vận động (sợi cơ) tham gia vào căng cơ. - Chế độ co của các đơn vị vận động đó. - Chiều dài ban đầu của sợi cơ trước lúc co. Khi số lượng sợi co cơ là tối đa, các sợi cơ đều co theo chế độ co cứng và chiều dài ban đầu của sợi cơ là chiều dài tối ưu thì cơ sẽ co với lực tối đa. lực đó gọi là sức mạnh tối đa. Sức mạnh tối đa của một cơ phụ thuộc vào số lượng sợi cơ và tiết diện ngang của các sợi cơ. Trong thực tế, sức manh cơ của con người được đo khi co cơ tích cực, nghĩa là co cơ với sự tham gia của ý thức. Vì vậy, sức manh mà chúng ta xem xét thực tế chỉ là sức mạnh tích cực tối đa, nó khác với sứcmanh tối đa sinh lý của cơ mà ta cũng có thể ghi được bằng kích thích điện lên cơ. Sức manh tích cực tối đa (sức mạnh tuyệt đối) của cơ chịu sự ảnh hưởng của hai yếu tố chính là: - Các yếu tố trong cơ ở ngoại vi: Nhóm này gồm: Điều kiện cơ học của sự co cơ, chiều dài ban đầu của cơ, độ dày (tiết diện ngang) của cơ, đặc điểm cấu tạo cả các loại sợi cơ chứa trong cơ. - Các yếu tố thần kinh trung ương điều khiển sự co cơ và phối hợp giữa các sợi cơ và cơ. Điều kiện cơ học của sự co cơ, chiều dài ban đầu của cơ là các yếu tố kỹ năng của hoạt động sức manh, hoàn thiện kỹ thuật động tác chính là tạo ra điều kiện cơ học và chiều dài ban đầu tối ưu cho sự co cơ. Do sức manh cơ phụ thuộc 18 vào tiết diện ngang (độ dày), nên khi tiết diện ngang tăng lên thì sức mạnh cũng tăng lên. Tăng tiết diện ngang của cơ do tập luyện thể lực được gọi là phì đại cơ. Sợi cơ là một tế bào đặc biệt rất cao. Vì vậy sợi cơ có thể phân chia để tạo tế bào mới. Sự phì đại cơ xảy ra do số lượng và khối lượng các tơ cơ, tức là bộ máy co bóp của sợi cơ, đều tăng lên. Quá trình tổng hợp đạm trong sợi cơ tăng lên, trong khi sự phân hủy của chúng lại giảm đi. Hàm lượng ARN và AND trong cơ phì đại tăng cao so với bình thường. Hàm lượng creatin cao trong cơ khi hoạt động có khả năng khích thích sự tổng hợp actin và myozin và như vậy thúc đẩy sự phì đại cơ. Các yếu tố thần kinh trung ương điều khiển sự co cơ và phối hợp hoạt động giữa các cơ trước tiên là khả năng chức năng của nơron thần kinh vận động, tức là mức độ phát xung động với tần số cao. Như đã biết, sức manh tối đa phụ thuộc vào số lượng đơn vị vận động tham gia vào vận động. Vì vậy, để phát lực lớn, hệ thần kinh cần phải gây hưng phấn ở rất nhiều nơron vận động. Trên cơ sở các yếu tố nêu trên, cơ sở sinh lý phát triển sức manh là tăng cường số lượng đơn vị vận động tham gia vào hoạt động, đặc biệt là các đơn vị vận động nhanh, chứa các sợi cơ nhóm II có khả năng phì đại cơ lớn. Để đạt được điều đó, trọng tải phải lớn để gây hưng phấn mạnh đối với các đơn vị vận động nhanh có ngưỡng hưng phấn thấp. Trọng tải đó phải không nhỏ hơn 70% sức manh tích cực tối đa. * Sức nhanh (tốc độ) là khả năng thực hiện động tác trong một khoảng thời gian ngắn nhất. Sức nhanh có thể được biểu hiện bằng hình thức đơn giản hoặc hình thức phức tạp. [7] Sức nhanh như một tố chất thể lực có thể biểu hiện ở dạng đơn giản và ở dạng phức tạp. Dạng đơn giản của sức nhanh bao gồm: Thời gian phản ứng, thòi gian của một động tác đơn lẻ và tần số của hoạt động cục bộ. 19 Dạng phức tạp của sức nhanh là thời gian thực hiện các hoạt động thể thao phức tạp khác nhau, như chạy lOOm, tốc độ đấm trong quyền Anh, tốc độ dẫn bóng trong bóng đá... Các dạng đơn giản của sức nhanh liên quan chặt chẽ với kết quả của sức nhanh của dạng phức tạp. Thời gian phản ứng, thời gian của một động tác đơn lẻ hoặc tần số động tác cục bộ càng cao thì tốc độ thực hiện các hoạt động phức tạp sẽ càng cao. Song các dạng biểu hiện sức nhanh đơn giản lại phát triển tương đối độc lập với nhau. Thời gian phản ứng có thể rất tốt, nhưng động tác đơn lẻ lại chậm hoặc tần số của động tác lại thấp. Vì vậy sức nhanh là yếu tố tổng hợp của ba yếu tố cấu thành, là thòi gian phản ứng, thời gian của động tác đơn lẻ và tần số hoạt động. Yếu tố quyết đinh tốc độ của tất cả các dạng sức nhanh nêu trên là độ linh hoạt của các quá trình thần kinh và tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thể hiện ở khả năng biến đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trung tâm thần kinh. Ngoài ra, độ linh hoạt thần kinh còn bao gồm cả tốc độ dẫn truyền xung động trong các dây thần kinh ở ngoại vi. Sự thay đổi nhanh giữa hưng phấn và ức chế làm cho các nơron vận động có khả năng phát xung động với tần số cao và làm cho đơn vị vận động thả lỏng nhanh, đó là các yếu tố tăng cường tốc độ và tần số của động tác. Tốc độ co cơ phụ thuộc trước tiên vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó cơ. Các cơ có tỷ lệ sợi cơ nhanh cao, đặc biệt là sợi cơ nhóm II - A có khả năng tốc độ cao hơn. Tốc độ co cơ chịu ảnh hưởng của hàm lượng các chất cao năng ATP và CP. Vì vậy khi hàm lượng ATP và CP trong cơ cao thì khả năng co cơ nhanh cũng tăng lên. Tập luyện sức nhanh làm cho hàm lượng ATP và CP trong các sợi cơ, nhất là sợi cơ nhanh II - A và II - в tăng lên, tốc độ co cơ còn phụ thuộc vào hoạt tính của men phân giải và tổng hợp ATP và CP. Trong các hoạt động TDTT, tốc độ và sức mạnh có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến sức nhanh. Kết quả hoạt 20 động phụ thuộc không chỉ vào sức nhanh hay sức mạnh riêng lẻ mà phụ thuộc vào sự phối hợp hợp lý giữa hai tố chất. Các hoạt động như vậy được gọi là hoạt động sức manh - tốc độ (ném, chạy ngắn, nhảy...). Như vậy sức nhanh phụ thuộc chủ yếu vào tính linh hoạt của thần kinh và tốc độ co cơ. Cả hai nhóm các yếu tố ảnh hưởng đó, mặc dù có biến đổi dưới tác động của tập luyện, nhưng nói chung đều là những yếu tố được quyết định bởi các đặc điểm di truyền. Do đó quá trình tập luyện, sức nhanh biến đổi chậm và ít hơn sức manh và sức bền. Cơ sở sinh lý để phát triển sức nhanh và tăng cường độ linh hoạt là tốc độ dẫn truyền hưng phấn ở trung tâm thần kinh và bộ máy vận động, tăng cường sự phối hợp giữa các sợi cơ và các cơ, nâng cao tốc độ thả lỏng cơ. Các yêu cầu nêu trên có thể đạt được bằng cách sử dụng các bài tập tần số cao, trọng tải nhỏ có thòi gian nghỉ dài. * Sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào đó. Nó thể hiện khả năng chống đỡ của cơ thể với những biến đổi bên trong, xảy ra do hoạt động cơ bắp kéo dài. [7] Trong sinh lý thể thao, sức bền thường đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể lực kéo dài từ 2 - 3 phút trở lên, với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn (1/2 toàn bộ lượng cơ bắp của cơ thể), nhờ sự hấp thụ ôxy để cung cấp năng lượng cho cơ chủ yếu hoặc hoàn toàn bằng con đường ưa khí. Như vậy sức bền trong thể thao là khả năng thực hiện lâu dài hoạt động cơ bắp toàn thân hoàn toàn hoặc chủ yếu mang tính ưu khí. Đó là tất cả các hoạt động ưa khí như chạy 1500m trở lên, đi bộ thể thao, đua xe đạp đường dài... Sức bền phụ thuộc vào: Khả năng hấp htụ ôxy tối đa V02 max của cơ thể và khả năng duy trì lâu dài mức hấp thụ ôxy cao. Mức hấp thụ ôxy tối đa của một người quyết định khả năng làm việc trong điều kiện ưa khí của họ. V02 max càng cao thì công suất hoạt động ưu khí tối đa sẽ càng lớn. Khả năng hấp thụ ôxy tối đa được quyết định bởi khả năng của hai hệ thống chức năng chính là: Hệ vận chuyển ôxy đảm nhiệm vai trò hấp thụ ôxy từ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan