Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty trách n...

Tài liệu Khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty trách nhiệm hữu hạn thiên xứng

.PDF
76
288
126

Mô tả:

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1. Tổng quan hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp. Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. 1.1.2. Khái niệm tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp được hiểu là các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền trong nội bộ doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác. (Nguồn: Ths. Nguyễn Ngọc Minh (2011), Bài giảng tài chính doanh nghiệp, http://tailieu.vn/tim-kiem/khái+niệm+tài+chính+doanh+nghiệp.html, 03/06/2011) 1.1.3. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp - Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà Nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước hoặc khi Nhà nước góp vốn với doanh nghiệp. Doanh nghiệp nộp các loại thuế vào ngân sách theo luật định. Nhà nước cấp vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp hoặc tham gia với tư cách là người góp vốn. - Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường, gồm: Quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác. Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư, bạn hàng, khách hàng,…thông qua việc thanh toán tiền mua bán vật tư, hàng hóa, tiền công, tiền lãi,… Quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng, các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động vay, trả nợ vay, lãi,… 1 - Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa người quản lý và cổ đông, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Mối quan hệ đó được thể hiện trong các quy định về tài chính như: Doanh nghiệp nhận và có trách nhiệm bảo toàn vốn của Nhà nước do Tổng Công ty giao. (Nguồn: Lê Mai Phương (2013), Lý luận chung về phân tích tài chính – Phương pháp phân tích tài chính – Tình hình tài chính và hiệu quả phân tích tài chính, http://doc.edu.vn/tai-lieu/ly-luan-chung-ve-phan-tich-tai-chinh-phuong-phap-phantich-tai-chinh-tinh-hinh-tai-chinh-va-hieu-qua-tai-chinh-qua-phan-46376/,19/4/2013) 1.2. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phươn/g pháp, các công cụ để thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. (Nguồn: PGS.TS Lưu Thị Hương, PGS.TS Vũ Duy Hào (2012), Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội, tr.34) Từ đó ta thấy, công tác phân tích tài chính là một quy trình thực hiện phân tích tài chính bao gồm việc tổ chức bộ máy cho việc phân tích, lựa chọn nguồn dữ liệu, thông tin phục vụ cho việc phân tích, lựa chọn phương pháp phân tích và nội dung phân tích phù hợp, từ đó thực hiện phân tích. 1.2.1.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp - Đối với người quản lí doanh nhghiệp: Mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng sẽ bị buộc phải ngừng hoạt động. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất: Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh của mình. Đây chính là một chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Thứ hai: Nguồn vốn tài trợ được lấy từ đâu? Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày thế nào? 2 Thang Long University Library Ba vấn đề trên không phải đầy đủ mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp, nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở để đưa ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó. - Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp: Thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro là mối quan tâm hàng đầu của họ. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh, tình hình hoạt động và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp và chính họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này có thể dẫn tới việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp mà họ góp vốn. Đầu tiên họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những quyết định đầu tư phù hợp. Thông thường các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ với một mức lợi tức yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại lợi nhuận cho những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì nó sẽ trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Như ta biết rằng thu nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn hoạt động vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính. - Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp: Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp thì phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các tổ chức cung cấp tín dụng thương mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những 3 khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc vào khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. - Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong thời gian sắp tới. - Đối với người lao động trong doanh nghiệp: Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. - Đối với các cơ quan quản lí nhà nước: Căn cứ vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng... Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về 4 Thang Long University Library hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp. (Nguồn: Trần Trung Chuyên (2013), Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp và thông tin sử dụng trong phân tích tài chính,http://voer.edu.vn/m/khainiem-va-vai-tro-cua-phan-tich-tai-chinh-doanh-nghiep-va-thong-tin-su-dung-trongphan-tich-tai-chinh/59b75e31, 06/08/2013) 1.2.2. Tổ chức thực hiện công tác phân tích tài chính. Quá trình tổ chức công tác phân tích tài chính được tiến hành theo tùy loại hình tổ chức kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằm mục đích cung cấp, đáp ứng nhu cầu thông tin cho quá trình lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định. Công tác tổ chức phân tích phải làm sao thỏa mãn cao nhất nhu cầu thông tin của từng loại hình quản trị khác nhau. Thông thường công tác phân tích tài chính được tổ chức dưới một số hình thức như sau: Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, công tác phân tích tài chính có thể được bố trí thành một bộ phận riêng biệt đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Bộ máy kế toán được phân chia thành hai cấp riêng biệt là cấp trung tâm và cấp trực thuộc. Kế toán ở cả hai cấp đều tổ chức sổ kế toán và bộ máy nhân sự tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của kế toán phân cấp. Kế toán trung tâm thực hiện các phần hành kế toán phát sinh ở đơn vị chính, công tác tài chính và công tác thống kê trong toàn đơn vị; hướng dẫn, kiểm tra công tác kế toán ở các đơn vị trực thuộc; thu nhận, kiểm tra các báo cáo tài chính, thống kê của các đơn vị trực thuộc, gửi lên và lập báo cáo tài chính, thống kê tổng hợp cho toàn đơn vị. Kế toán trực thuộc thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, tài chính phát sinh ở đơn vị mình từ khâu hạch toán ban đầu, ghi sổ kế toán đến lập các báo cáo tài chính, thống kê định kỳ gửi về phòng kế toán trung tâm. Từ những đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán như mô tả trên, mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán có ưu điểm là công tác kế toán gắn liền với các hoạt động ở các đơn vị trực thuộc, tạo điều kiện thuận lợi cho kế toán kiểm tra, kiểm soát trực tiếp các hoạt động kinh tế tài chính, phục vụ kịp thời cho lãnh đạo ở các bộ phận trực thuộc trong việc điều hành và quản lý hiệu quả các hoạt động ở bộ phận phụ thuộc đó, tạo điều kiện cho tiến hành hạch toán kinh tế nội bộ. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm, mô hình này có nhiều nhược điểm như hạn chế sự lãnh đạo tập trung, thống nhất công tác kế toán trong toàn đơn vị, thông tin kinh tế về các hoạt động trong phạm vi toàn đơn vị không được xử lý và cung cấp kịp thời phục vụ toàn đơn vị không được xử lý và cung cấp kịp thời phục vụ sự lãnh đạo, điều hành và quản lý chung toàn đơn vị, không thuận tiện cho việc phân công lao động và chuyên môn hóa cán bộ kế toán. Theo hình thức này quá trình phân 5 tích thể hiện được toàn bộ nội dung của hoạt động kinh doanh. Nó được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thông tin thường xuyên cho ban lãnh đạo doanh nghiệp. Trên cơ sở này các thông tin qua phân tích được truyền từ trên xuống theo loại hình chức năng quản lý và quá trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp theo cơ cấu từ ban giám đốc đến các phòng ban trong công ty. Đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, công tác phân tích tài chính thường được thực hiện bởi những nhân viên kế toán dưới sự kiểm tra, giám sát của kế toán trưởng. Căn cứ khối lượng công việc kế toán, khối lượng công việc bộ máy kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập cần đảm nhiệm những nội dung như đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin kế toán theo yêu cầu, theo dõi, ghi chép các đối tượng kế toán và đối tượng quản lý chi tiết, xử lý hệ thống chứng từ kế toán, khối lượng dữ liệu cần xử lý, hạch toán trên các tài khoản kế toán cho các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh, lập và gửi báo cáo kế toán theo quy định,… Khối lượng công việc kế toán được ước tính dựa trên đặc điểm hoạt động của đơn vị, mức độ phức tạp của hoạt động, của yêu cầu thông tin và yêu cầu quản lý trong đơn vị. Sau khi phân tích khối lượng công việc dựa vào các chính sách kế toán đã được xây dựng, nhân viên kế toán tổng hợp sẽ là người trực tiếp theo dõi tình hình doanh thu, chi phí, lợi nhuận và lập báo cáo tài chính sẽ tiến hành luôn công tác phân tích tài chính. Công tác phân tích tài chính tổ chức theo hình thức này sẽ không được thực hiện thường xuyên mà tiến hành theo năm, quý hoặc bất thường khi cần thiết. 1.2.3. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp. Để phân tích tài chính doanh nghiệp thực sự phát huy tác dụng trong quản lý tài chính thì hoạt động đó cần phải được thực hiện theo một quy trình khoa học, hợp lý, phù hợp với đặc điểm kinh doanh và mục tiêu của từng đối tượng. Tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của doanh nghiệp mà quy trình tổ chức phân tích tài chính có thể khác nhau, nhưng nhìn chung công tác tổ chức phân tích tài chính thường qua các bước: Chuẩn bị và tiến hành phân tích. - Công tác chuẩn bị Chuẩn bị phân tích là khâu quan trọng, nó ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, thời gian và tác dụng của công tác phân tích tài chính vì công tác chuẩn bị phân tích bao gồm lập kế hoạch phân tích, thu thập các thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc phân tích. Lập kế hoạch phân tích càng tỉ mỉ và chi tiết thì hiệu quả phân tích càng cao. Lập kế hoạch phân tích cần nêu rõ mục tiêu phân tích, nội dung phân tích, phạm vi phân tích, thời gian ấn định trong phân tích, cách tổ chức phân tích. 6 Thang Long University Library + Nội dung phân tích cần xác định rõ các vấn đề cần được phân tích: có thể bao gồm toàn bộ hoạt động hoặc chỉ một số vấn đề cụ thể. Đây là cơ sở để xây dựng đề cương cụ thể phục vụ cho việc phân tích. + Phạm vi phân tích có thể là toàn đơn vị hoặc một số đơn vị được chọn làm điểm để phân tích, tùy yêu cầu và thực tiễn quản lí mà xác định nội dung và phạm vi phân tích phù hợp. + Thời gian ấn định trong phân tích bao gồm cả thời gian chuẩn bị, thời gian tiến hành công tác phân tích và thời gian kết thúc phân tích. Trong kế hoạch phân tích cần phân công trách nhiệm cho các bộ phận trực tiếp thực hiện và bộ phận phục vụ công tác phân tích; cũng như các hình thức hội nghị phân tích nhằm thu nhập nhiều ý kiến, đánh giá đúng thực trạng và đồng thời dự báo các tiềm năng, khả năng giúp doanh nghiệp phấn đấu đạt kết quả cao trong kinh doanh. Bên cạnh việc lập kế hoạch phân tích, trong giai đoạn chuẩn bị phân tích, người phân tích cần phải thu thập và kiểm tra các dữ liệu, tài liệu, thông tin dùng cho công tác phân tích. Như các văn kiện của các cấp bộ Đảng có liên quan đến hoạt động kinh doanh, các nghị quyết chỉ thị của chính quyền các cấp và các cơ quan quản lí cấp trên có liên quan đến hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp. Các tài liệu kế hoạch, dự toán, định mức. Các tài liệu hạch toán kế toán: Báo cáo kế toán quản trị, báo cáo tài chính...Việc xác định tài liệu phân tích phải phù hợp với mục tiêu phân tích, việc thiếu tài liệu sẽ gây khó khăn để đưa ra các kết luận chính xác và toàn diện. Tuy nhiên việc thu thập quá nhiều cũng sẽ gây ra sự lãng phí về thời gian và chi phí phân tích, vì vậy cần bám vào nội dung phân tích để thu thập tài liệu. Các tài liệu cần phải được kiểm tra tính chính xác, tính hợp pháp; kiểm tra các điều kiện có thể so sánh của các chỉ tiêu phân tích. Tiến hành phân tích. Sau khi lập kế hoạch phân tích và thu thập được những tài liệu cần thiết thì người phân tích sẽ tiến hành phân tích theo trình tự sau: - + Tính toán giá trị của các chỉ tiêu phân tích dựa vào các chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu đã xác định theo từng nội dung phân tích, từ đó sử dụng các phương pháp phân tích: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số nhằm đánh giá thực trạng và tình hình biến động của đối tượng phân tích. + Xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, những nguyên nhân người phân tích có thể tính toán, lượng hoá được gọi là nhân tố. Khi xác định được nhân tố ảnh hưởng thì người phân tích cần 7 phải vận dụng phương pháp thích hợp để tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. + Cuối giai đoạn phân tích, người phân tích phải tổng hợp lại, đưa ra một số chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá chung tình hình tài chính của doanh nghiệp, hoặc phản ánh đúng mục tiêu phân tích đã đề ra trong giai đoạn lập kế hoạch phân tích. Trên cơ sở tổng hợp những kết quả đã phân tích, rút ra những nhận xét, đánh giá những thành tựu, những hạn chế trong hoạt động của doanh nghiệp. Cuối cùng, người phân tích sẽ viết báo cáo phân tích để cung cấp cho các đối tượng quan tâm và hoàn chỉnh hồ sơ phân tích. Báo cáo phân tích là văn bản tổng hợp những đánh giá cơ bản, những tài liệu chọn lọc minh hoạ, rút ra từ quá trình phân tích. Những kiến nghị, đề xuất phải đảm bảo tính rõ ràng, thiết thực và có kèm theo điều kiện thực hiện được các đề xuất đó. Sau khi hoàn thiện báo cáo phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, người phân tích cũng phải hoàn thiện bộ hồ sơ phân tích để lưu trữ. (Nguồn: Nguyễn Đình Hiệp (2012), Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, http://luanvan365.com/luan-van/luan-van-hoan-thiencong-tac-phan-tich-tai-chinh-tai-cong-ty-co-phan-cang-doan-xa-10959, 20/09/2012) 1.2.4. Thông tin dùng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. - Thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin từ bên ngoài giúp cho doanh nghiệp phần nào lý giải được các nguyên nhân dẫn đến thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Các thông tin từ bên ngoài mà doanh nghiệp cần thu thập là thông tin về tình hình của nền kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên, nếu những biến động của tình hình kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy để có được sự đánh giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp chúng ta phải xem xét cả thông tin kinh tế từ bên ngoài có liên quan. Những thông tin về tình hình tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội, lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng,… có thể thu thập được từ Tổng cục thống kê. Ngoài các thông tin trên, doanh nghiệp cần thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp cùng lĩnh vực hoạt động. Thông tin căn bản nhất về các doanh nghiệp đó là các báo cáo tài chính thường được công bố trên cổng thông tin điện tử của chính doanh nghiệp đó. 8 Thang Long University Library - Thông tin trong nội bộ doanh nghiệp. Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành lên tài sản. Xét về bản chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả. Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bảng cân đối kế toán. Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Trong bảng cân đối kế toán gồm hai phần là phần tài sản và phần nguồn vốn, trong đó: Tài sản = Nguồn vốn, hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả. Phần tài sản: Bao gồm có tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. + Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai. + Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về quy mô vốn, cơ cấu vốn và quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phần nguồn vốn: Bao gồm nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp. + Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn (Nhà nước, ngân hàng, cổ đông, các bên liên doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh. Về số tài sản hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ (với người lao động, với nhà cung cấp, với Nhà nước...). 9 + Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản hiện có, căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ và kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng thời phần nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô và mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích tài chính đánh giá khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. (Nguồn: Trần Trung Chuyên (2013), Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp và thông tin sử dụng trong phân tích tài chính,http://voer.edu.vn/m/khainiem-va-vai-tro-cua-phan-tich-tai-chinh-doanh-nghiep-va-thong-tin-su-dung-trongphan-tich-tai-chinh/59b75e31, 06/08/2014) Báo cáo kết quả kinh doanh Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng giúp cho các nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh là lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh nghiệp kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là bao nhiêu. Từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước, dự đoán tốc độ tăng trong tương lai. Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, ta cũng biết được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số thuế còn phải nộp lớn chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không khả quan. 10 Thang Long University Library Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp. (Nguồn: Trần Trung Chuyên (2013), Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp và thông tin sử dụng trong phân tích tài chính,http://voer.edu.vn/m/khainiem-va-vai-tro-cua-phan-tich-tai-chinh-doanh-nghiep-va-thong-tin-su-dung-trongphan-tich-tai-chinh/59b75e31, 06/08/2014) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng vào ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính. (Nguồn: Trần Trung Chuyên (2013), Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp và thông tin sử dụng trong phân tích tài chính,http://voer.edu.vn/m/khainiem-va-vai-tro-cua-phan-tich-tai-chinh-doanh-nghiep-va-thong-tin-su-dung-trongphan-tich-tai-chinh/59b75e31, 06/08/2014) Thuyết minh báo cáo tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích, bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được. Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày bảy chỉ tiêu nhằm cụ thể hoá các chỉ tiêu mà bảng cân đối kế toán không thể nêu lên hết được bao gồm: Chỉ tiêu 1: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ tiêu 2: Chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp. Chỉ tiêu 3: “Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính” bao gồm: Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình thu nhập của cán bộ công nhân viên, tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu, tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào đơn vị khác, các khoản phải thu và nợ phải trả. Chỉ tiêu 4: “Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh”. 11 Chỉ tiêu 5: “Phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ”. Chỉ tiêu 6: Đánh giá tổng quát các chỉ tiêu. Đây là phần doanh nghiệp tự đánh giá khái quát tình hình thực hiện các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo của mình cùng những khó khăn, thuận lợi mà doanh nghiệp gặp phải trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu 7: Các kiến nghị, doanh nghiệp đề xuất các kiến nghị với các cơ quan hữu quan về các vấn đề liên quan đến chế độ, chính sách... trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. (Nguồn: Trần Trung Chuyên (2013), Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp và thông tin sử dụng trong phân tích tài chính,http://voer.edu.vn/m/khainiem-va-vai-tro-cua-phan-tich-tai-chinh-doanh-nghiep-va-thong-tin-su-dung-trongphan-tich-tai-chinh/59b75e31, 06/08/2014) 1.2.5. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. Có rất nhiều phương pháp và kĩ thuật khác nhau được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính. Nhưng trong đó có 3 phương pháp phân tích tài chính chủ yếu được sử dụng đó là: 1.2.5.1. Phương pháp so sánh. So sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi phổ biến trong phân tích kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng. Mục đích của so sánh là làm rõ sự khác biệt hay những đặc trưng riêng có của đối tượng nghiên cứu. Từ đó giúp cho các đối tượng quan tâm có căn cứ để đề ra quyết định lựa chọn. (Nguồn: Phạm Ngọc Thu (2013), Phương pháp so sánh trong phân tích tài chính, http://ketoansaovang.com.vn/vn/tin-tuc/120/phuong-phap-so-sanh-trong-phan-tichhoat-dong-tai-chinh.html, 23/06/2013) Nội dung so sánh bao gồm: +So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tình hình tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. + So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành, số liệu của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình so với mặt bằng chung là tốt hay xấu, được hay chưa được. 12 Thang Long University Library + So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. Khi sử dụng phương pháp so sánh phải tuân thủ 2 điều kiện sau: - Điều kiện một: Phải xác định rõ “gốc so sánh” và “kỳ phân tích”. - Điều kiện hai: Các chỉ tiêu so sánh (hoặc các trị số của chỉ tiêu so sánh) phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được với nhau. Muốn vậy, chúng phải thống nhất với nhau về nội dung kinh tế, về phương pháp tính toán, thời gian tính toán. 1.2.5.2.Phương pháp tỷ số. Là việc sử dụng những kỹ thuật khác nhau để phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để nắm bắt được tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp, qua đó đề ra kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất. (Nguồn: Nguyễn Văn Thuận (2014), Phân tích tỷ số tài chính, http://vi.wikipedia.org/wiki/Phân_tích_tỷ_số_tài_chính, 16/07/2014) Nguồn thông tin kinh tế và tài chính là cơ sở cho việc đánh giá các tỷ số tài chính của doanh nghiệp. Phương pháp phân tích này cho phép nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt các tỷ số theo một trình tự nhất định. Lợi thế của phương pháp này còn ở việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số. Về nguyên tắc, phương pháp phân tích tỷ số yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở đó so sánh các tỷ số tài chính của doanh nghiệp so với các hệ số tham chiếu. Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính thường được phân tích thành bốn nhóm chính: Tỷ số về khả năng thanh toán, tỷ số về khả năng hoạt động, tỷ số về khả năng cân đối vốn, tỷ số về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ số lại bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Tuỳ theo từng hoạt động phân tích, người ta sẽ lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình. 1.2.5.3.Phương pháp Dupont. Phương pháp Dupont hay còn gọi là phương pháp tách đoạn. Đó là phương pháp thể hiện mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn. 13 Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét các mối quan hệ tương tác giữa suất sinh lời của tổng tài sản (ROA) với tỷ suất lợi nhuận ròng và hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Lợi nhuận sau thuế ROA = Doanh thu thuần Doanh thu thuần x Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế = Tổng tài sản Số liệu về Lợi nhuận sau thuế được lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh còn chỉ tiêu Tổng tài sản và Vốn chủ sở hữu được lấy từ bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Chỉ tiêu ROA thể hiện tính hiệu quả của quá trình tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả chỉ tiêu cho biết bình quân cứ một đồng tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Ví dụ, ROA = 10% có nghĩa là bình quân một đồng tài sản sử dụng trong sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra 0,1 đồng lợi nhuận. Mặc dù vậy, không phải bất kỳ một đồng tài sản nào cũng tạo ra 0,1 đồng lợi nhuận. Qua phân tích trên có thể thấy suất sinh lời của tổng tài sản (ROA) phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận ròng và hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Trên cơ sở đó nhà quản trị đưa ra các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí. Tiếp theo, chúng ta xem xét suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được tạo thành bởi các mối quan hệ giữa tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu với tỷ suất lợi nhuận ròng và hiệu suất sử dụng tổng tài sản như thế nào. Lợi nhuận sau thuế ROE = Doanh thu thuần Doanh thu thuần x Tổng tài sản Tổng tài sản x Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản = ROA x Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu ROE cho biết số lợi nhuận được thu về cho các chủ sở hữu doanh nghiệp sau khi họ đầu tư một đồng vốn vào sản xuất kinh doanh. Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu tính theo công thức trên đây, cho thấy: Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào hệ số tài sản trên vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của tổng tài sản. Do vậy, để tăng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp phải tìm biện pháp để tăng hệ 14 Thang Long University Library số tài sản trên vốn chủ sở hữu và tăng khả năng sinh lời của tài sản. Bằng phương pháp loại trừ, các nhà phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của từng nhân tố (hệ số tài sản trên vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của tổng tài sản) đến sự thay đổi của khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu trong kỳ. Phân tích tình hình tài chính dựa vào mô hình Dupont có ý nghĩa rất to lớn đối với quản trị tài chính doanh nghiệp. Điều đó không chỉ thể hiện ở việc đánh giá sâu sắc và toàn diện hiệu quả kinh doanh mà còn tìm hiểu một cách đầy đủ và khách quan mối liên hệ giữa các nhân tố. Từ đó nhà phân tích có thể đưa ra các giải pháp tác động trực tiếp vào các nhân tố ảnh hưởng nhằm cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. (Nguồn: PGS.TS Lưu Thị Hương, PGS.TS Vũ Duy Hào (2012), Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội, tr.46-47) 1.2.6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2.6.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp Việc phân tích này cho chúng ta thấy được sự thay đổi của tài sản và nguồn vốn, nó cho biết trong kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu? tình hình sử dụng vốn như thế nào? những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp? Từ đó có các giải pháp khai thác các nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp có thể thấy được điều chỉnh những khoản mục nào thì có thể cải thiện được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Trong quá trình phân tích này những người phân tích tài chính cần phải xây dựng bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn. Bảng này giúp cho việc xác định rõ nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. So sánh sự thay đổi các khoản mục trong một thời kỳ giữa hai thời điểm trong từng chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán. Quá trình phân tích sẽ diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn cho thấy tăng giảm nguồn vốn trong một thời kỳ, tình hình sử dụng vốn, những chỉ tiêu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn. Từ đó cho ta thấy những khoản đầu tư và nguồn vốn chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho những đầu tư đó. Mặt khác, doanh nghiệp cũng sẽ có những giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. 15 1.2.6.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh Để phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, ta có thể sử dụng hai chỉ tiêu là vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản ngắn hạn - Nguồn vốn ngắn hạn + Khi vốn lưu động thường xuyên < 0 (nguồn vốn dài hạn < tài sản dài hạn, tài sản ngắn hạn < nguồn vốn ngắn hạn). Điều này cho thấy nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản dài hạn. Doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản dài hạn từ một phần nguồn vốn ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Khi đó giải pháp của doanh nghiệp là tăng cường huy động vốn ngắn hạn hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc thực hiện đồng thời hai giải pháp đó. + Khi vốn lưu động thường xuyên > 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản dài hạn. Khi đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt, tài sản ngắn hạn đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, tình hình tài chính là lành mạnh. + Khi vốn lưu động thường xuyên = 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn vừa đủ để thanh toán cho tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn. Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu rất quan trọng. Chỉ tiêu này cho biết hai điều: + Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không? + Tài sản cố định và đầu tư dài hạn của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không? Ngoài ra nhằm mục đích nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt đông kinh doanh người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu – Giá trị nợ ngắn hạn + Nếu nhu cầu của vốn lưu động > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn giá trị nợ ngắn hạn. Việc sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Giải pháp trong trường hợp này là: Doanh 16 Thang Long University Library nghiệp phải nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng. - Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 thì các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoải đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn dể tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. 1.2.6.3. Phân tích cơ cấu tài sản - cơ cấu nguồn vốn. Mục đích của phân tích này là xem tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp có được phân bố hợp lý hay không? Tài sản cố định có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không?… Để thực hiện quá trình này dựa vào bảng cân đối kế toán sẽ cho thấy một bảng phân tích kết cấu nguồn vốn và tài sản như sau : Bảng 1.1: Phân tích cơ cấu tài sản và nguồn vốn Kỳ gốc Kỳ phân tích Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Kỳ phân tích so với kỳ gốc Số tiền Tỷ trọng I. Tài sản A. Tài sản ngắn hạn 1. Tiền và các khoản tương đương với tiền 2. Các khoản phải thu ngắn hạn 3. Hàng tồn kho 4. Tài sản ngắn hạn khác B. Tài sản dài hạn 1. Tài sản cố định 2.Tài sản dài hạn khác II. Nguồn vốn 1. Nợ phải trả 2. Vốn chủ sở hữu (Nguồn: PGS.TS Lưu Thị Hương, PGS.TS Vũ Duy Hào (2012), Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội, tr.53) 17 Phân tích cơ cấu và biến động tài sản - Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản được chia thành 2 phần: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài hạn (ĐTDH). Để tiến hành phân tích cơ cấu tài sản thì ta lập bảng cơ cấu tài sản. Phân tích sự biến động và tình hình phân bố tài sản để đánh giá việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Để làm được điều này ta làm như sau: Đầu tiên, phân tích sự biến động của từng chỉ tiêu tài sản qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Trong quá trình đó chúng ta còn xem xét sự biến động của từng chi tiết là do nguyên nhân gì, thông qua việc phân tích này thì chúng ta sẽ nhận thức được tác động của từng loại tài sản đối với quá trình kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tiếp theo, ta xem xét cơ cấu tài sản có hợp lý hay không, cơ cấu tài sản tác động như thế nào đến quá trình kinh doanh; để làm điều này thì chúng ta phải tính tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng tài sản; tỷ trọng của các chỉ tiêu thuộc tài sản ngắn hạn trong tổng tài sản ngắn hạn, tương tự cho tài sản dài hạn. Sau đó so sánh chúng qua nhiều thời kỳ khác nhau để thấy được sự biến động của cơ cấu tài sản, khi đánh giá việc phân bổ tài sản có hợp lý hay không, ta nên xem xét thêm cả đặc điểm ngành nghề và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài việc so sánh tổng tài sản cuối kỳ so với đầu năm vẫn còn phải xem xét tỷ trọng loại tài sản chiếm tổng số tài sản mà xu hướng biến động của việc phân bổ tài sản. Điều này được đánh giá trên tính chất kinh doanh và tình hình biến động của từng bộ phận, tuỳ theo loại tình hình kinh doanh để xem xét tỷ trọng từng loại tài sản chiếm trong tổng số là cao hay thấp. Khi đánh giá sự phân bổ tài sản cố định và ĐTDH trong tổng tài sản kết hợp với tỷ suất đầu tư để phân tích chính xác và rõ nét hơn. Tổng tài sản cố định và đang đầu tư Tỷ suất đầu tư = x 100 Tổng số tài sản Tỷ suất này phản ánh tình trạng trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp trị số chỉ tiêu này phụ thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể. Khi phân tích cơ cấu tài sản, cần xem xét sự biến động của từng khoản mục cụ thể, xem xét tỷ trọng của mỗi loại là cao hay thấp trong tổng số tài sản. Qua đó đánh giá tính hợp lý của sự biến đổi từ đó có giải pháp cụ thể. Có thể lập bảng tương tự như phân tích cơ cấu tài sản. Ngoài việc xem xét đánh giá tình hình phân bổ 18 Thang Long University Library vốn cần phân tích cơ cấu nguồn vốn để đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính cũng như mức độ tự chủ, chủ động trong kinh doanh và những khó khăn làm doanh nghiệp phải đương đầu. (Nguồn: Đại học kinh tế quốc dân (2013), Lý luận chung về hoạt động tài chính và phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, https://voer.edu.vn/m/ly-luan-chung-vehoat-dong-tai-chinh-va-phan-tich-tinh-hinh-tai-chinh-doanh-nghiep/222145a4, 14/07/2014) Phân tích cơ cấu và biến động của nguồn vốn Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng tại doanh nghiệp. Nguồn vốn được chia thành nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp được thể hiện qua cơ cấu và sự biến động về nguồn vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn là tỷ trọng của từng loại nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn; thông qua cơ cấu nguồn vốn thì chúng ta sẽ đánh giá được hướng tài trợ của doanh nghiệp, mức độ rủi ro từ chính sách tài chính đó, ta cũng thấy được khả năng tự chủ hay phụ thuộc về mặt tài chính của doanh nghiệp. Thứ hai, thông qua sự biến động của các chỉ tiêu phần nguồn vốn thì ta sẽ thấy được tình hình huy động của các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho thấy được tính chủ động trong chính sách tài chính hay do sự bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh gây ra. Bằng việc so sánh sự biến động cả về số tuyệt đối và tương đối của các chỉ tiêu phần nguồn vốn, tính tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng nguồn vốn, tỷ trọng của từng chi tiêu thuộc nợ phải trả trong tổng nợ phải trả, tương tự cho vốn chủ sở hữu; sau đó so sánh chúng qua nhiều năm khác nhau để thấy được cơ cấu và sự biến động nguồn vốn của doanh nghiệp. Ngoài việc so sánh cuối thời điểm với đầu thời điểm trong một thời kỳ về lượng và tỷ trọng, ta còn phải so sánh đánh giá tỷ trọng từng loại tài sản và nguồn vốn chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng. Từ đó đánh giá được tình trạng đó là tốt hay chưa tốt. Đối với nguồn hình thành tài sản cần xem xét tỷ trọng của từng loại chiếm trong tổng số cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thì doanh nghiệp có đủ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ là cao. Ngược lại nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số thì khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp. Điều này dễ thấy rằng thông qua chỉ tiêu tỷ suất tài trợ: 19 Tổng nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tài trợ = x 100 Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này càng nâng cao thể hiện khả năng độc lập cao về mặt tài chính hay mức độ tài trợ của doanh nghiệp càng tốt bởi vì hầu hết tài sản mà doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng vốn của mình. Nợ phải trả Tỷ suất nợ = x 100 Tổng nguồn vốn Tỷ suất này cho biết số nợ mà doanh nghiệp phải trả cho các doanh nghiệp khác hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động kinh doanh tỷ suất này càng nhỏ càng tốt. Nó thể hiện khả năng tự chủ về vốn của doanh nghiệp. Sau khi đánh giá khái quát tình hình tài chính thông quá các phân tích chúng thanh toán cần đưa ra một vài nhận xét chung về tình hình tài chính của doanh nghiệp để có cơ sở cho những phân tích tiếp theo. (Nguồn: Đại học kinh tế quốc dân (2013), Lý luận chung về hoạt động tài chính và phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, https://voer.edu.vn/m/ly-luan-chung-vehoat-dong-tai-chinh-va-phan-tich-tinh-hinh-tai-chinh-doanh-nghiep/222145a4, 14/07/2014) 1.2.6.4. Phân tích các chỉ tiêu khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong mỗi giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. - Khả năng thanh toán ngắn hạn: Phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán ngắn hạn Giá trị tài sản ngắn hạn = Giá trị nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán ngắn hạn  1 cho thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp là bình thường hoặc khả quan. Tuy nhiên trên thực tế, nếu không gặp áp lực phá sản sẽ không có doanh nghiệp nào bán toàn bộ tài sản ngắn của mình để thanh toán nợ ngắn hạn, vì điều này sẽ gây khó khăn và gián đoạn hoạt động kinh doanh của 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất