CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và mang tính cạnh tranh như hiện
nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn phát triển và đứng vững trên thị trường đòi
hỏi cần có một đội ngũ nhân viên có trình độ, kỹ thuật, tay nghề cao cùng với một cơ
sở vật chất hạ tầng hiện đại. Một doanh nghiệp nếu chỉ có con người với kỹ thuật công
nghệ thôi thì vẫn chưa đủ để cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra, mà cần phải có
vốn kinh doanh. Đúng vậy, vốn kinh doanh rất quan trọng không những đối với mỗi
doanh nghiệp mà còn rất quan trọng trong nền kinh tế của cả thế giới. Để doanh
nghiệp được hình thành và có thể tiến hành sản xuất kinh doanh được thì bắt buộc
doanh nghiệp đó phải có vốn kinh doanh để hoạt động. Hơn thế nữa, một doanh
nghiệp biết sử dụng nguồn vốn kinh doanh của mình một cách hiệu quả nhất sẽ tồn tại,
phát triển và đứng vững được trên toàn thị trường. Vậy vấn đề đặt ra ở đây: Vốn kinh
doanh là gì? Các doanh nghiệp cần bao nhiêu vốn kinh doanh thì đủ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Đó luôn là một bài toán đau đầu đối với một công ty nhỏ
hay với một tập đoàn đa quốc gia. Việc nắm bắt được các vấn đề cốt lõi về vốn kinh
doanh làm cho các chủ doanh nghiệp quản lý, và sử dụng vốn kinh doanh của mình
một cách tốt hơn.
1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Trong nền kinh tế hiện nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, để tiến
hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Vốn là điều
kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh.
Doanh nghiệp sẽ dùng vốn này để mua nguyên liệu, trả lương cho nhân viên và các chi
phí khác nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới các góc độ nghiên
cứu khác nhau và những điều kiện kinh tế khác nhau thì quan điểm về vốn kinh doanh
có sự khác biệt.
Theo quan điểm của Mác, dưới góc độ các yếu tố sản xuất, Mác cho rằng: “Vốn
kinh doanh (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản
xuất”. Định nghĩa của Mác về vốn có tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ bản chất
và vai trò của vốn kinh doanh. Bản chất của vốn kinh doanh là giá trị, mặc dù nó được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Tài sản cố định, nguyên vật liệu, tiền công...
Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ phát triển của nền kinh tế, Mác chỉ bó hẹp khái niệm
về vốn kinh doanh trong khu vực sản suất vật chất và cho rằng chỉ có quá trình sản
1
xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế trong quan niệm
về vốn của Mác [6, tr.119].
P.A.Samuelson, đại diện tiêu biểu của học thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại,
coi đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn kinh doanh và hàng hoá
chỉ là kết quả của sản xuất. Vốn kinh doanh bao gồm các loại hàng hoá lâu bền được
sản xuất ra và được sử dụng như các đầu vào hữu ích trong quá trình sản xuất sau đó.
Một số hàng hoá vốn kinh doanh có thể tồn tại trong vài năm, trong khi đó một số khác
có thể tồn tại trong một thế kỷ hoặc lâu hơn. Đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá vốn
kinh doanh thể hiện ở chỗ chúng vừa là sản phẩm đầu ra vừa là yếu tố đầu vào trong
sản xuất. Về bản chất vốn kinh doanh là phương pháp sản xuất gián tiếp tốn thời gian
[5, tr.26].
Còn theo David Begg, trong cuốn “Kinh tế học” ông đã đưa ra hai định nghĩa về
vốn kinh doanh là: Vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự
trữ các hàng hóa đã sản xuất ra để sản xuất hàng hóa khác. Vốn tài chính là các giấy tờ
và tiền mặt của doanh nghiệp [3, tr.67].
Nhưng ở Việt Nam, vốn kinh doanh được coi là tiền đề cho mọi quá trình đầu tư
sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, nó là tiềm lực về tài chính của một doanh
nghiệp [1, tr.48].
Có người lại cho rằng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một lượng tiền nhất
định để mua sắm các yếu tố đầu vào cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh [1, tr.49].
Từ những phân tích trên có thể hiểu: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình được đầu tư vào kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời” [3, tr.68].
1.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VKD đòi hỏi doanh nghiệp phải nhận thức
đúng đắn các đặc trưng của VKD. Dưới đây là bảy đặc trưng chủ yếu của VKD [3,
tr.103].
Một là, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định. Đó có thể là những tài
sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc thiết bị, sản phẩm...) hoặc tài sản vô hình (nhãn
hiệu, bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ...).
Hai là, VKD của doanh nghiệp phải đạt tới mục tiêu sinh lời, nó có thể thay đổi
hình thái biểu hiện trong quá tình luân chuyển vốn kinh doanh từ hình thái tiền sang
hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình của doanh nghiệp, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn
phải là hình thái tiền.
2
Thang Long University Library
Quá trình luân chuyển vốn kinh doanh được thể hiện qua sơ đồ sau:
Tiền –> Hàng hóa … Sản xuất … Hàng hóa’ –> Tiền’
Trong quá trình vận động trên, nếu Tiền’ > Tiền, doanh nghiệp kinh doanh có
lãi. Ngược lại, khi Tiền > Tiền’ doanh nghiệp bị kinh doanh thua lỗ. Vốn bắt đầu
bằng hình thái tiền tệ, tiếp đến là hình thái vật tư hàng hóa sử dụng trong quá trình sản
xuất và kết thúc ở hình thái tiền khi giá trị hàng hoá dịch vụ được bán. Do sự luân
chuyển không ngừng đó mà tại một thời điểm bất kỳ trong hoạt động SXKD của
doanh nghiệp. Vốn kinh doanh có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ba là, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát
huy được tác dụng trong hoạt động kinh doanh. Đặc trưng này đòi hỏi doanh nghiệp
cần lập kế hoạch để huy động đủ lượng vốn cần thiết và trong quá trình kinh doanh
cần tái đầu tư lợi nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Bốn là, vốn phải có giá trị về mặt thời gian. Nghĩa là phải xem xét yếu tố thời
gian của đồng tiền. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như lạm phát, giá cả thay đổi, tiến
bộ khoa học không ngừng nên sức mua của đồng tiền ở mỗi thời điểm đều khác nhau.
Đây là một đặc điểm mà các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm nhất là khi xem xét,
lựa chọn các phương án đầu tư.
Năm là, vốn là một loại hàng hoá đặc biệt. Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu
vay vốn của các doanh nghiệp rất cao. Do đó xuất hiện những tổ chức cá nhân tiến
hành cho doanh nghiệp vay vốn, nhưng doanh nghiệp chỉ được quyền sử dụng vốn
trong khoảng thời gian nhất định và phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn trong một
khoảng thời gian đó.
Sáu là, tại một thời điểm vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, vốn
không chỉ biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà của cả tài sản vô hình.
Đặc trưng này giúp doanh nghiệp có sự nhìn nhận toàn diện về các loại vốn, từ đó có
thể đưa ra các biện pháp phát huy tổng hợp của VKD.
Bảy là, vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà
nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như: Nhãn hiệu, bản quyền, phát
minh sáng chế, bí quyết công nghệ, vị trí địa lý kinh doanh… Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ thì những tài sản vô hình
ngày càng phong phú và đa dạng, giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng
sinh lời của doanh nghiệp. Do vậy, tất cả các tài sản này phải được lượng hóa để quy
về giá trị. Việc xác định chính xác giá trị của các tài sản nói chung và các tài sản vô
hình nói riêng là rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá doanh
nghiệp, khi xác định giá trị để phát hành cổ phiếu.
3
1.1.3. Phân loại vốn kinh doanh
Để quản lý và sử dụng VKD có hiệu quả hơn cần hiểu rõ về các loại VKD, căn
cứ vào đó để đưa ra các quyết định đúng đắn cho doanh nghiệp. Do quá trình luân
chuyển, vốn có nhiều hình thái khác nhau nên cách phân loại vốn cũng khác nhau.
1.1.3.1. Phân loại theo nguồn hình thành vốn kinh doanh
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra ổn định doanh
nghiệp cần có một lượng vốn ổn định nhất định. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn,
doanh nghiệp có hai nguồn: Vốn chủ sở hữu và Vốn nợ.
a, Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu đầu tư vào kinh doanh. Số vốn này
không phải là một khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. VCSH
có thể do các chủ sở hữu góp (góp lần đầu và góp bổ sung trong quá trình hoạt động)
hoặc được hình thành từ các nguồn khác (từ kết quả kinh doanh để lại, từ các nguồn tài
trợ,...) [2, tr.263].
b, Nợ phải trả
Nợ phải trả là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế. Đó là số tiền vốn mà doanh
nghiệp đi vay, chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức, cá nhân như: Vốn vay của ngân
hàng thương mại, các tổ chức tài chình khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu,
các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán [1, tr.3].
Qua tiêu thức phân loại này cho thấy kết cấu vốn sản xuất kinh doanh được hình
thành bằng vốn bản thân doanh nghiệp cung cấp và từ các nguồn vốn huy động bên
ngoài doanh nghiệp thuộc nợ phải trả. Từ đó giúp cho doanh nghiệp tổ chức tốt hơn và
sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả và hợp lý, doanh nghiệp biết được khả năng của
mình trong việc huy động vốn là cao hay thấp.
1.1.3.2. Phân loại theo phương thức chu chuyển của vốn kinh doanh
Trong mỗi doanh nghiệp, tùy theo từng cách phân loại mà vốn kinh doanh được
chia thành các loại khác nhau, song nếu cứ căn cứ vào vai trò và đặc điểm luân chuyển
giá trị của vốn kinh doanh khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì vốn kinh
doanh của doanh nghiệp được chia làm hai bộ phận: Vốn cố định và Vốn lưu động.
a, Vốn cố định
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các
tài sản cố định (TSCĐ) của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Vốn
cố định của doanh nghiệp là số vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là
luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng
tuần hoàn khi TSCĐ hết hạn sử dụng. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu
4
Thang Long University Library
được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi
tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ của mình và làm nguồn vốn cho một chu
kỳ tiếp theo. Quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định đến quy mô của
TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình vận hàng bộ máy hoạt động của
doanh nghiệp. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ
hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn đầu tư
ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp
sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ của mình. Vì
vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên nó ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại, những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá
trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển
của vốn cố định.
Từ những lý luận ở trên, ta có thể đúc kết ra định nghĩa về vốn cố định như sau:
“Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà
đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và
hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng” [1, tr.74].
Vốn cố định là sự biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, vì vậy đặc điểm của
vốn cố định phụ thuộc vào đặc điểm của tài sản cố định. Các đặc điểm đó là:
Một là, vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và chỉ hoàn
thành một chu kỳ luân chuyển sau nhiều chu kỳ sản xuất, đến khi tài sản cố định hết
niên hạn sử dụng, tài sản sẽ được bán thanh lý và hoàn thành một chu kỳ luân chuyển.
Hai là, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, về số lượng (số tài sản cố
định) không đổi, nhưng về mặt giá trị vốn cố định được chuyển dần vào trong giá
thành sản phẩm mà chính vốn cố định đó sản xuất ra thông qua việc tài sản cố định bị
khấu hao, giá trị chuyển dần đó sẽ cộng dần vào hao mòn lũy kế để tính khấu hao, cho
đến khi khấu hao hết giá trị của tài sản cố định.
Vốn cố định bao gồm toàn bộ tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Đó là số vốn ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định… bởi vậy quy mô
vốn cố định lớn hay bé hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô của tài sản cố định. Hay nói
cách khác: Vốn cố định là sự biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Nên thực chất
của việc phân loại và cách nhận biết vốn cố định là việc phân loại và cách nhận biết tài
sản cố định.
5
Dựa vào hình thái biểu hiện: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình
Tài sản cố định hữu hình là bộ phận tư liệu sản xuất, giữ chức năng là tư liệu lao
động có tính chất vật chất trong quá trình sản xuất. Chúng có giá trị lớn, thời gian sử
dụng lâu dài, tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất, nhưng vẫn giữ nguyên hình
dáng hiện vật ban đầu. Riêng về mặt giá trị, tài sản cố định chuyển dần giá trị của
chúng vào trong giá trị của sản phẩm mà chính tài sản cố định đó sản xuất ra thông qua
hình thức khấu hao tài sản cố định, do vậy giá trị tài sản cố định bị giảm dần tùy theo
mức độ hao mòn của chúng cho đến khi tài sản khấu hao hết. Trong quá trình sản xuất
tài sản cố định hữu hình gồm các loại sau: Đất, nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết
bị, phương tiện vận tải, truyền dẫn cáp điện, nước, thông tin, thiết bị, dụng cụ quản lý,
cây lâu năm, súc vật làm việc cho sản phẩm, các tranh ảnh tác phẩm nghệ thuật.
Tài sản cố định vô hình là tài sản không có hình dáng vật chất (không nhìn thấy
hoặc khó nhìn thấy), chúng được thể hiện bằng một lượng tiền tệ nào đó được đầu tư,
hoặc đó là lợi ích, các nguồn có tính kinh tế mà giá trị của chúng xuất phát từ các
doanh nghiệp, chúng có liên quan đến nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của chúng giảm
dần do được chuyển vào giá trị của sản phẩm sản xuất ra. Trong quá trình sản xuất
kinh doanh tài sản cố định vô hình gồm: Chi phí thành lập doanh nghiệp (chi phí điều
tra, khảo sát, lập dự án thành lập doanh nghiệp, chi phí hội họp, giao dịch), chuẩn bị
sản xuất – kinh doanh, giá trị bằng phát minh – sáng chế, chi phí nghiên cứu và phát
triển, chi phí mua bằng phát minh – sáng chế (bản quyền, bí quyết công nghệ, chuyển
giao công nghệ), chi phí lợi thế thương mại về vị trí hay uy tín của doanh nghiệp mà
doanh nghiệp phải trả khi thành lập hay sát nhập, các tài sản cố định vô hình khác
(quyền đặc nhượng, quyền thuê nhà, độc quyền sản xuất kinh doanh).
b, Vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư được ứng trước về tài
sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp thực hiện được
thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình sản xuất. Khác với VCĐ, VLĐ chuyển
toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh
doanh, VLĐ được luân chuyển không ngừng qua ba giai đoạn: Dự trữ, sản xuất và tiêu
thụ do vậy VLĐ chu chuyển nhanh hơn VCĐ về mặt thời gian. Để quản lý và sử dụng
vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại VLĐ của doanh nghiệp theo các
tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại như sau:
Phân loại theo vai trò từng loại VLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh: Vốn
lưu động trong sản xuất, vốn lưu động trong lưu thông và vốn lưu động trong dự trữ.
Vốn lưu động trong sản xuất (Là nguồn vốn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất).
Vốn lưu động trong lưu thông (Là nguồn vốn trực tiếp tham gia vào quá trình lưu
6
Thang Long University Library
thông như vốn tiền mặt, thành phẩm…). Vốn lưu động trong dự trữ (Là nguồn vốn
dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế… dự trữ và đưa vào sản xuất).
Phân loại theo hình thái biểu hiện: Vốn lưu động vật tư hàng hóa và Vốn lưu
động bằng tiền mặt, Vốn lưu động về chi phí trả trước. Vốn lưu động vật tư hàng hóa
(Là nguyên vật liệu, nhiên vật liệu, bán thành phẩm, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng
cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm…). Vốn lưu động bằng tiền (Là tiền
mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, đầu tư chứng khoán hay các khoản nợ phải thu khách
hàng, các khoản tạm ứng…). Vốn lưu động về chi phí trả trước (Là những khoản chi
phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được
phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: Chi phí sửa chữa,
chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng,
lắp đặt các công trình tạm thời…)
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rõ sự khác nhau giữa VCĐ và VLĐ: VCĐ
tham gia vào quá trình sản xuất như tư liệu lao động, còn VLĐ được coi như là đối
tượng lao động. Nếu như VLĐ tạo ra thực thể của sản phẩm hàng hóa thì VCĐ là
phương thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hóa. Điều khác biệt lớn nhất
giữa vốn cố định và vốn lưu động là VLĐ được kết chuyển hết một lần vào giá trị sản
phẩm hàng hóa mỗi chu kỳ và thu hồi ngay sau khi quá trình sản xuất kinh doanh kết
thúc thì VCĐ lại chuyển dần giá trị của nó vào sản phẩm thông qua mức khấu hao.
1.1.3.3. Phân loại theo thời gian huy động vốn và sử dụng vốn
Theo cách phân loại này thì nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia
làm hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời, do tính chất sử dụng
của hai nguồn vốn này là khác nhau, vì vậy cần phân biệt rõ ràng để có cách sử dụng
thích hợp với từng nguồn.
a, Nguồn vốn thường xuyên
Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định và lâu dài. Doanh nghiệp dùng nguồn
vốn này để đầu tư vào TSCĐ và một phần của TSLĐ thường xuyên cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài
hạn. Vốn được xác định bằng cách:
Vốn thƣờng xuyên = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
b, Nguồn vốn tạm thời
Đây là nguồn vốn ngắn hạn (dưới một năm) và không có tính chất ổn định bao
gồm: Các khoản vay, nợ ngắn hạn hay các khoản chiếm dụng vốn của doanh nghiệp
với các bạn hàng. Nguồn vốn này sẽ cung cấp cho những nhu cầu mang tính chất tạm
thời, bất thường không ổn định được phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
7
Vốn tạm thời = Tổng giá trị tài sản – Vốn thƣờng xuyên
Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp xem xét, lựa chọn nguồn
vốn phù hợp với thời gian sử dụng và có cơ sở để lập các kế hoạch tài chính. Vấn đề
đặt ra với các doanh nghiệp là sẽ huy động vốn bao nhiêu và lấy từ nguồn vốn nào để
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời phải tiết kiệm tối đa chi phí sử dụng
vốn và có biện pháp quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.3.4. Phân loại theo phạm vi huy động
Theo tiêu thức này, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành hai nguồn:
nguồn vốn bên trong doanh nghiệp và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
a, Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là nguồn vốn có thể huy động từ bản thân
doanh nghiệp, bao gồm vốn tự bổ sung từ lợi nhuận sau thuế, các khoản dự trữ, dự
phòng, thu thanh lý nhượng bán tài sản cố đinh, tiền khấu khao tài sản cố định, quỹ
đầu tư phát triển kinh doanh. Nguồn vốn bên trong có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
phát triển của doanh nghiệp, một mặt nó phát huy được tính chủ động trong việc sử
dụng vốn, mặt khác làm gia tăng mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp [5,
tr.16].
b, Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp là nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy động
được từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Nguồn vốn bên ngoài bao gồm: Vốn vay của ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, nợ người cung cấp, phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các khoản nợ khác. Huy
động nguồn vốn bên ngoài tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu tài chính linh hoạt hơn,
mặt khác có thể làm gia tăng lợi nhuận cho vốn chủ sở hữu rất nhanh nếu mức doanh
thu đạt được cao hơn chi phí sử dụng vốn và ngược lại [5, tr.16].
1.1.4. Vai trò của vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp
Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh nghiệp,
ngành nghề kinh tế kỹ thuật, dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần nắm giữ một lượng vốn nhất định nào đó. Số vốn
này thể hiện cho toàn bộ giá trị tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp đó trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, vốn kinh doanh có vai trò quyết định trong
việc thành lập, hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Cụ thể, vốn kinh doanh
của các doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển
của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định của nhà nước. Đó là điều kiện tiên
quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đó.
Tùy theo từng nguồn vốn kinh doanh, cũng như phương thức huy động vốn mà doanh
8
Thang Long University Library
nghiệp được chia thành các loại khác nhau như: Công ty Cổ phẩn, Công ty trách nhiệm
hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh…
Vốn kinh doanh còn là một trong những tiêu thức để phân loại quy mô của doanh
nghiệp, xếp loại doanh nghiệp vào loại lớn, nhỏ hay trung bình và là một trong những
tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện có và
tương lại về sức lao động, nguồn cung ứng hàng hóa, mở rộng và phát triển thị trường,
mở rộng lưu thông hàng hóa. Bởi vậy các doanh nhân thường ví “buôn tài không bằng
dài vốn”. Điều này muốn hướng các doanh nghiệp nên chú trọng vào vốn kinh doanh
của mình là chính chứ không nên nghĩ có tài kinh doanh là sẽ thành công. Trong cơ
chế kinh doanh mới, trong điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh bao giờ cũng là cơ sở, là tiền đề để doanh nghiệp
tính toán hoạch định các chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Đó cũng là chất keo để
chắp nối, kết nối các quá trình và quan hệ kinh tế và đó cũng là dầu nhờn bôi trơn cho
cỗ máy kinh tế vận động có hiệu quả. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là
yếu tố giá trị, nó chỉ phát huy được tác dụng khi bảo tồn được và tăng lên được sau
mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn không được bảo toàn và tăng lên mỗi kỳ kinh doanh
thì vốn đã bị thiệt hại, đó là hiện tượng mất vốn. Sự thiệt hại lớn sẽ dẫn đến doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán sẽ làm cho doanh nghiệp bị phá sản, tức là vốn kinh
doanh đã bị sử dụng một cách lãng phí, không hiệu quả.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là kinh
doanh được lợi nhuận tối đa. Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của các hoạt động sản
xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của
doanh nghiệp, lợi nhuận tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô hoạt động cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp không
ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó việc tổ chức huy động
vốn đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và việc sử dụng vốn có hiệu quả có ý
nghĩa rất quan trọng.
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, đều mong muốn đạt được những
kết quả hữu ích nào đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng phần nào
yêu cầu của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, kết quả đó được tạo ra ở mức nào là vấn đề
phải xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo nên kết quả đó. Hiệu quả
của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận: Hiệu quả xã hội và Hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả xã hội “là đại lượng phản ánh mức độ thực hiện các mục tiêu xã hội của
doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được của doanh nghiệp đến xã
9
hội và môi trường từ đó doanh nghiệp xác định hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp”
[5, tr.47].
Hiệu qủa kinh tế “là hiệu quả chỉ xét trên phương diện kinh tế của hoạt động kinh
doanh. Nó mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được với
chi phí đã bỏ ra để đạt được lợi ích đó. Vì vậy, doanh nghiệp cần cân bằng giữa hai
bên để đạt được hiệu quả cao nhất” [5, tr.47]. Thực chất của hiệu qủa kinh tế là thực
hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, biểu hiện trình độ sử dụng các nguồn lực
của doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu xác định. Đó là quy định, động lực phát triển
của lực lượng sản xuất. Làm tiền đề tạo nên điều kiện phát triển văn minh xã hội và
nâng cao đời sống của loài người qua mọi thời đại để từ đó có thể cải thiện đời sống xã
hội được tốt hơn.
Tóm lại, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn kinh doanh, làm
cho đồng vốn kinh doanh sinh lời tối đa, nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá giá trị
tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được lượng hóa hoá thông
qua các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng VCĐ, VLĐ… Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu
ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể
là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Kết quả thu được càng cao
so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh càng cao.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Ngày nay nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú càng ngày bị khan hiếm do
vậy việc tìm kiếm nguyên vật liệu để sản xuất phục vụ nhu cầu đời sống con người bị
hạn chế. Nếu như nguồn tài nguyên là vô tận thì việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, sản xuất cho ai, sẽ không trở thành vấn đề đáng quan tâm. Từ đó bắt buộc các nhà
kinh doanh, nhà sản xuất phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, lựa chọn sản xuất kinh
doanh, sản phẩm tối ưu, sử dụng lao động cũng như chi phí để hoàn thành sản phẩm
một cách nhanh nhất, tốn ít tiền nhất. Sự lựa chọn đúng đắn đó sẽ mang lại cho doanh
nghiệp hiệu quả kinh tế cao, thu được nhiều lợi nhuận. Không chỉ vì nguồn tài nguyên
khan hiếm mà ngay trên thương trường sự cạnh tranh giữa các sản phẩm ngày càng
gay gắt, do vậy doanh nghiệp nào có công nghệ cao, sản xuất sản phẩm với giá thấp
hơn, chất lượng hơn thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, chứng tỏ hiệu quả
kinh tế kinh doanh của họ là cao. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là một
trong những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận, đến quyền lợi đến mục
đích cao nhất của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có nghĩa là nâng cao
lợi nhuận, chẳng có một lý do nào để doanh nghiệp có thể từ chối việc làm đó. Có thể
tổng quát một số lý do cơ bản, cụ thể làm nên sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như sau:
10
Thang Long University Library
Thứ nhất: Do sự tác động của cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước. Kinh tế thị trường theo đuổi một mục đích lớn và cốt yếu là lợi nhuận. Tiền
đề của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp là vốn kinh
doanh, đồng vốn sản xuất kinh doanh phải có khả năng sinh lời mới là vấn đề cốt lõi
liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bởi thiếu vốn thì mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị ngưng trệ, doanh nghiệp có thể
dẫn tới phá sản.
Thứ hai: Với nền kinh tế mở cửa như hiện nay thì thị trường chính là nhân tốt
định đoạt số phận của mỗi doanh nghiệp, doanh nghiệp không những phải tạo ra sản
phẩm tốt mà còn phải thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Muốn vậy, doanh
nghiệp phải biết sử dụng đồng vốn hiệu quả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu thị trường
hiện nay.
Thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng là một nội dung cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp, trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt hiện nay thì điều này càng được
khẳng định chắc chắn hơn. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì điều kiện
tiên quyết không thể thiếu được là doanh nghiệp phải xem xét vấn đề chất lượng sản
phẩm, mẫu mã sản phẩm và phải quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, vấn đề
này quyết định lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một tất yếu trong cơ chế thị
trường cạnh tranh gay gắt. Nó góp phần nâng cao khả năng hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, tăng nhanh tốc độ hoạt
động của doanh nghiệp nhằm đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận và lợi nhuận ngày
càng cao, góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội.
1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của nó không
thể tách rời ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh cũng như đặc điểm riêng của nó. Vì
vậy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của các yếu tố đó một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan
Đây là nhân tố chủ yếu quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn. Nhân tố này gồm
nhiều yếu tố cùng tác động trực tiếp đến kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh
doanh cả trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vậy, việc xem xét đánh giá và ra quyết định
đối với các yếu tố này là điều cực kỳ quan trọng.
Chu kỳ sản xuất: Nếu như chu kỳ sản xuất ngắn, thì đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp sẽ có thể thu hồi vốn nhanh hơn, có khả năng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn, từ đó
mang lại nhiều cơ hội hơntrong vấn đề đầu tư hoặc mở rộng hoạt động sản xuất kinh
11
doanh. Ngược lại, nếu như chu kỳ sản xuất kinh doanh kéo dài dẫn tới việc doanh
nghiệp sẽ mất đi các cơ hội kinh doanh do thời gian thu hồi vốn lâu.
Yếu tố Khách hàng: Khách hàng là những người quyết định quy mô và cơ cấu
nhu cầu trên thị trường của doanh nghiệp, là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xây dựng
chiến lược kinh doanh, là những người quyết định sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp. Do vậy, tìm hiểu kỹ lưỡng và đáp ứng đủ nhu cầu cùng sở thích thị hiếu
của khách hàng mục tiêu sẽ là điều kiện sống còn cho sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp.
Yếu tố Đối thủ cạnh tranh cùng ngành: Trong nền kinh tế thị trường thì sự cạnh
tranh là một điều tất yếu, số lượng các đối thủ cạnh tranh trong ngành càng nhiều thì
mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Các đối thủ cạnh tranh và hoạt động của họ luôn
được xem là một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến việc ra quyết định kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên trên phương diện xã hội thì cạnh tranh sẽ có
lợi cho người tiêu dùng và thúc đẩy xã hội phát triển. Việc phân tích các đối thủ cạnh
tranh trong ngành nhằm nắm được các điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ để từ đó xác
định chiến lược nhằm tạo được thế vững mạnh trên thị trường.
Yếu tố các nhà cung ứng: Các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào trong quá trình
sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Nếu việc cung ứng
nguyên vật liệu gặp khó khăn, giá nguyên vật liệu tăng cao sẽ dẫn đến chi phí sản xuất
tăng lên, giá thành đơn vị mỗi sản phẩm tăng, khối lượng tiêu thụ bị giảm, lợi nhuận
giảm và doanh nghiệp dễ bị suy giảm lợi thế trên thị trường. Vì vậy, các nhà quản lý
doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình những nhà cung ứng thích hợp vừa giảm được
chi phí vừa đảm bảo chất lượng.Thông thường giá cả, chất lượng, tiến độ giao
hàng…là những tiêu chí quan trọng để lựa chọn nhà cung ứng.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: Bất cứ một doanh nghiệp nào khi
tiến hành kinh doanh đều định hướng trước cho mình một kế hoạch để phát triển thông
qua các chiến lược kinh doanh. Do đó, để hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
được tốt thì các chiến lược kinh doanh phải đúng hướng, phù hợp với những nguồn lực
hiện có trong doanh nghiệp.
Trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp: Đây là yếu tố vô
cùng quan trọng đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một bộ máy quản lý tốt
có trình độ quản lý cao sẽ giúp cho hoạt động của doanh nghiệp đạt kết quả cao và
ngược lại. Do đó, doanh nghiệp phải nâng cao trình độ quản lý đặc biệt là đối với cán
bộ quản lý tài chính về chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm để đảm bảo an
toàn về tài chính trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trình độ tay nghề của người lao động: Vai trò của người lao động được thể
hiện ở trình độ tay nghề cao, ý thức trách nhiệm và lòng nhiệt tình với công việc. Nếu
12
Thang Long University Library
hội tụ đủ các yếu tố này, người lao động sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh
phát triển, hạn chế hao phí nguyên vật liệu, giữ gìn, bảo quản tốt tài sản, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Các nhân tố khách quan
Hiện nay ở nước ta thị trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh, các chính
sách công cụ nợ trung và dài hạn còn hạn chế, giá của vốn chưa thực sự biến động theo
giá thị trường mà chủ yếu là giá áp đặt. Đây là điều hết sức khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc huy động vốn kinh doanh cho sản xuất cũng như thực hiện chính
sách đầu tư trong trường hợp có vốn nhàn rỗi. Điều này cho thấy, để đạt được mục
đích sử dụng vốn có hiệu quả là hoàn toàn không dễ dàng. Dưới đây là những yếu tố
mà doanh nghiệp không có khả năng tự khắc phục song lại có ảnh hưởng không nhỏ
tới hiệu quả hoạt động kinh doanh, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Môi trường tự nhiên: Bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên có tác động đến
doanh nghiệp như: Thời tiết, môi trường… Ngày nay khoa học càng phát triển thì sự lệ
thuộc của con người vào tự nhiên ngày càng giảm đi, ảnh hưởng của môi trường tự
nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử
dụng vốn nói riêng cũng ít hơn, trừ các doanh nghiệp hoạt động mang tính thời vụ
hoặc các doanh nghiệp có tính chất công việc làm ngoài trời…
Môi trường kinh tế: Là tổng thể các biến số kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Tình trạng lạm phát, thất nghiệp, tăng
trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá, tình trạng cạnh tranh… Các yếu tố này có thể tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp tùy thuộc vào tỷ lệ
gia tăng thấp hay cao.
Môi trường pháp lý: Là hệ thống các chế tài pháp luật, các chủ trương chính
sách… Liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của nhà nước chỉ được thực
hiện thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, không can thiệp trực tiếp mà giao quyền
chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Ảnh hưởng của môi trường pháp
lý thể hiện ở chỗ, nó đưa ra các quy tắc buộc doanh nghiệp phải tuân theo, nó bảo vệ
những lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Nếu môi trường pháp lý thuận lợi sẽ mang
lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp vì nhờ vậy, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng trong
việc giao thương, buôn bán giữa các đối tác làm ăn trong và ngoài nước.
Môi trường kỹ thuật công nghệ: Sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với
xu thế chuyển giao công nghệ đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức
mới. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng phải thích ứng với sự tác động của các
13
yếu tố này. Nếu không, doanh nghiệp sẽ bị tụt hậu về kỹ thuật so với các doanh nghiệp
cùng ngành dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.4. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh
nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa
chi phí. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn một cách chung nhất người ta dùng các chỉ
tiêu chung như: Các nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn kinh doanh,
các nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, các nhóm chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn cố định.
1.2.4.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn kinh doanh
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh một cách chung nhất người ta
dùng các chỉ tiêu như:
Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh
Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh
Doanh thu thuần
VKD
Chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được bao nhiêu
vòng. Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của doanh
nghiệp hoặc doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản mà doanh nghiệp đã đầu tư. Chỉ
tiêu vòng quay này càng lớn, chứng tỏ hiệu quả của doanh nghiệp trong kỳ càng cao.
Suất hao phí vốn kinh doanh trong kỳ
Suất hao phí vốn kinh doanh trong kỳ
VKD
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho ta thấy để thu được một đồng doanh thu thuần thì doanh nghiệp
cần bỏ ra bao nhiêu đồng vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này ngược lại với chỉ tiêu vòng
quay toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp nên con số này càng thấp thì càng tốt.
Kỳ luân chuyển vốn kinh doanh
Kỳ luân chuyển vốn kinh doanh
365
Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh
Đây là số ngày cần thiết để vốn kinh doanh quay được một vòng. Kỳ luân chuyển
càng ngắn thì trình độ sử dụng vốn kinh doanh càng tốt và ngược lại. Giữa kỳ luân
chuyển và vòng quay của vốn kinh doanh có mỗi quan hệ mật thiết với nhau và thực
chất là một, bời vì vòng quay càng lớn thì kỳ luân chuyển càng ngắn và ngược lại.
14
Thang Long University Library
Tỷ suất lợi nhuận của vốn chủ sở hữu (ROE)
Tỷ suất lợi nhuận của vốn chủ sở hữu (ROE)
Lợi nhuận sau thuế
VCSH trong kì
Chỉ tiêu này cho biết, trong một kỳ phân tích, doanh nghiệp đầu tư một đồng vốn
chủ sở hữu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là tốt,
góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp. Đó là nhân tố giúp nhà
quản trị tăng vốn chủ sở hữu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mô hình phân tích Dupont
Phương pháp Dupont được sử dụng trong phân tích cấu trúc tài chính nhằm xác
định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu tài chính giả định các nhân tố
còn lại không thay đổi. Phương pháp phân tích này còn là công cụ hỗ trợ quá trình ra
quyết định.
Mô hình Dupont thường được sử dụng trong phân tích tài chính có dạng:
ROE
Lợi nhuận ròng
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
ROE Tỷ suất sinh lời trên doanh thu Vòng quay tài sản Đòn bẩy tài chính
ROA
Đòn bẩy tài chính
Từ mô hình chi tiết ở trên có thể thấy được các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của công ty là do hai chỉ tiêu ROA và đòn bẩy tài chính.
ROA và đòn bẩy tài chính càng cao thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu càng
tăng.
Như vậy, Công ty cần vạch ra chính sách cụ thể để quản lý tốt các nguồn thu,
chi phí, vốn chủ sở hữu… nhằm tăng hai chỉ tiêu ROE và đòn bẩy tài chính cũng như
nâng cao hiệu quả tài chính của mình.
Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)
ROA
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích doanh nghiệp bỏ ra một đồng tài sản
đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ
hiệu quả sử dụng tài sản tốt, đó là nhân tố giúp nhà quản trị đầu tư theo chiều rộng như
xây dựng nhà xưởng, mua thêm máy móc thiết bị, mở rộng thị phần tiêu thụ… Một
trong những khía cạnh được quan tâm nhất của thu nhập trên tổng tài sản là khả năng
phối hợp của các chỉ số tài chính để tính toán ROA. Một ứng dụng thường được nhắc
tới nhiều nhất là mô hình phân tích Dupont dưới đây:
15
Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản thông qua mô hình phân tích Dupont
Phân tích Dupont là kỹ thuật phân tích bằng cách chia tỷ số ROA thành những bộ
phận có liên quan tới nhau để đánh giá tác động của từng bộ phận lên kết quả cuối cùng.
Bản chất của mô hình là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi như: Thu nhập
trên tài sản ROA thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với các tỷ số tổng hợp. Như
vậy, chúng ta có thể nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu
trong hoạt động của doanh nghiệp. Các cấu phần cơ bản của hệ thống được trình bày như
sau:
ROA
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
ầ
Doanh thu
ầ
Tổng tài sản
Từ mô hình chi tiết ở trên có thể thấy được các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
sinh lời của tài sản như sau:
Thứ nhất là, tỷ suất sinh lời trên doanh thu càng cao thì sức sinh lời của tài sản
càng tăng. Có thể thấy rằng sức sinh lời của doanh thu ảnh hưởng bởi hai nhân tố là
doanh thu và chi phí, nếu doanh thu cao và chi phí thấp thì tỷ suất sinh lời trên doanh
thu tăng và ngược lại.
Thứ hai là số vòng quay của tổng tài sản bình quân càng cao chứng tỏ sức sản
xuất của các tài sản càng nhanh, đó là nhân tố tăng sức sinh lời của tài sản, cụ thể hơn
số vòng quay của tổng tài sản bình quân lại bị ảnh hưởng bởi hai nhân tố là tổng doanh
thu thuần và tổng tài sản bình quân.
Khả năng thanh toán hiện thời
Khả năng thanh toán hiện thời
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết với tổng số giá trị của tài sản ngắn hạn hiện có doanh
nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không. Chỉ tiêu này
càng cao khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.
Chỉ tiêu này cao chứng tỏ một bộ phận của tài sản ngắn hạn được đầu tư từ nguồn vốn
ổn định, đây là nhân tốt làm tăng tính tự chủ trong hoạt động tài chính. Chỉ tiêu thấp,
kéo dài có thể dẫn tới doanh nghiệp phụ thuộc tài chính, ảnh hưởng không tốt đến hoạt
động kinh doanh.
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
16
Thang Long University Library
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của các tài sản dễ chuyển đổi
thành tiền (Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho) đối với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu
này cao quá, kéo dài cũng không tốt, có thể dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn giảm. Chỉ
tiêu này thấp quá, kéo dài càng không tốt vì có thể đây là dấu hiệu rủi ro tài chính xuất
hiện, nguy cơ phá sản có thể xảy ra.
Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời
Tiền và tương đương tiền
Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay của tiền và các khoản tương
đương tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ khả năng thanh
toán của doanh nghiệp dồi dào, tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá, kéo dài có thể dẫn tới
vốn bằng tiền của doanh nghiệp nhàn rỗi, ứ đọng và dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Chỉ tiêu này thấp quá chứng tỏ doanh nghiệp không có đủ khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn. Trường hợp chỉ tiêu này thấp quá kéo dài liên tiếp ảnh hưởng đến
uy tín của doanh nghiệp và có thể dẫn tới doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản. Tuy
nhiên, yêu cầu đối với chỉ tiêu này còn phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh
doanh, đặc điểm cụ thể của tài sản trong các doanh nghiệp.
1.2.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng Vốn lưu động
Quá trình vận động của vốn lưu động bắt đầu từ giai đoạn cung cấp dùng tiền để
mua nguyên vật liệu dự trữ quá trình sản xuất, sau đó tiến hành tổ chức sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Muốn cho quá trình sản xuất liên tục, doanh nghiệp cần có một
lượng vốn nhất định để đầu tư vào từng giai đoạn của quá trình sản xuất. Quản lý chặt
chẽ vốn lưu động sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng
cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta
thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Vòng quay toàn bộ VLĐ
Vòng quay toàn bộ VLĐ
Doanh thu thuần
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng,
hoặc cho biết một đồng vốn lưu động đầu tư trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng
doanh thu thuần, chỉ tiêu này thể hiện sự vận động của vốn lưu động trong kỳ, chỉ tiêu
này càng cao chứng tỏ vốn lưu động vận động nhanh, đó là nhân tố góp phần nâng cao
lợi nhuận. Ngược lại, chỉ tiêu càng thấp chứng tỏ vốn lưu động vận động chậm, doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả.
17
Suất hao phí VLĐ trong kỳ
Vốn lưu động
Suất hao phí VLĐ trong kỳ
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra được một đồng doanh thu thuần trong kỳ thì
doanh nghiệp cần sử dụng bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này ngược lại với
chỉ tiêu vòng quay toàn bộ vốn lưu động nên chỉ tiêu này càng nhỏ càng thể hiện trình
độ quản lý và sử dụng vốn lưu động cao.
Kỳ luân chuyển VLĐ
Kỳ luân chuyển vốn lưu động
365
Số vòng quay của VLĐ
Đây là số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Kỳ luân chuyển
càng ngắn thì trình độ sử dụng vốn lưu động càng tốt và ngược lại. Giữa kỳ luân
chuyển và vòng quay của vốn lưu động có quan hệ mật thiết với nhau và thực chất là
một, bởi vì vòng quay càng lớn thì kỳ luân chuyển càng ngắn và ngược lại. Thông qua
chỉ tiêu này các nhà quản trị kinh doanh sẽ xây dựng kế hoạch về đầu tư vốn lưu động
một cách hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tỷ suất sinh lời vốn lƣu động
Tỷ suất sinh lời VLĐ
Lợi nhuận sau thuế
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư một đồng vốn
lưu động thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nhiệp. Hệ số
sinh lời của vốn lưu động càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng
cao và ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp thì doanh nghiệp được đánh giá là sử dụng vốn
lưu động kém hiệu quả.
Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích các khoản phải thu quay được bao nhiêu
vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi được tiền hàng kịp thời, ít
bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá có thể phương thức thanh toán tiền
của doanh nghiệp quá chặt chẽ, khi đó sẽ ảnh hưởng đến sản lượng hàng tiêu thụ.
Nhưng nếu chỉ tiêu này quá thấp chứng tỏ doanh nghiệp quản lý không tốt các khoản
phải thu gây ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
18
Thang Long University Library
Thời gian quay vòng các khoản phải thu
Thời gian quay vòng các khoản phải thu
365
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này càng ngắn chứng tỏ tốc độ thu tiền tiền hàng càng nhanh, doanh
nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại thời gian của một vòng quay càng dài, chửng
tỏ tốc độ thu hồi tiền hàng càng chậm, số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng nhiều. Qua
phân tích thời gian thu tiền trung bình của doanh nghiệp, để từ đó có các biện pháp thu
hồi nợ nhằm góp phần ổn định tình hình tài chính.
Vòng quay HTK
Vòng quay HTK
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho. Vòng quay
hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong kì. Hệ số
vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực quản
trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao
càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng dự trữ
trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả năng doanh
nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ
nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền
sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm
bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Nhưng nếu số vòng quay
hàng tồn kho thấp thì lại cho thấy doanh nghiệp bán hàng chậm, hàng hóa bị ứ đọng lại
trong kho nhiều.
Thời gian quay vòng HTK
Thời gian quay vòng HTK
365
Vòng quay HTK
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ
tiêu này càng thấp, chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh đó là nhân tố góp phần tăng
doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ
hàng tồn kho vận động chậm, doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả.
Vòng quay các khoản nợ phải trả
Vòng quay các khoản nợ phải trả
GVHB
HTK cuối kì HTK đầu kì
Nợ phải trả ngắn hạn
19
Hệ số này có ý nghĩa trong một năm những khoản phải trả quay được bao nhiêu
vòng. Hệ số này càng cao thì làm tăng rủi ro tài chính, tăng rủi ro thanh khoản của
doanh nghiệp.
Thời gian quay vòng các khoản nợ phải trả
Thời gian quay vòng các khoản nợ phải trả
365
Vòng quay các khoản nợ phải trả
Thời gian quay vòng các khoản nợ phải trả có ý nghĩa một đồng doanh nghiệp
mua chịu thì sau bao lâu mới thanh toán hết. Nếu chỉ số này cao tức là doanh nghiệp
đang có lợi thế chiếm dụng vốn của đối tác. Điều này làm giảm thiểu chi phí sử dụng
vốn kinh doanh nhưng cũng đi kèm với rủi ro tài chính, rủi ro thanh toán và uy tín của
doanh nghiệp.
Thời gian quay vòng tiền
Thời gian quay vòng tiền
Thời gian quay vòng các khoản phải thu
Thời gian quay vòng HTK – Thời gian quay vòng các khoản nợ phải trả
Thời gian quay vòng tiền có ý nghĩa một đồng chi ra thì sau bao lâu mới thu hồi
lại được. Chỉ tiêu này càng ngắn càng tốt bởi vì khi đó số vốn mà doanh nghiệp đưa
vào sản xuất kinh doanh sẽ cho một hiệu quả cao hơn, từ đó sẽ làm tăng hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại, nếu chỉ số cao sẽ cho thấy doanh
nghiệp có hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh kém.
1.2.4.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, giúp cho doanh
nghiệp đánh giá thực trạng quản trị vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố
định của doanh nghiệp được tốt hơn.
Vòng quay toàn bộ VCĐ
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ VCĐ
Vốn cố định
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng giá trị vốn lưu động đầu tư trong kỳ thì thu
được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, chỉ tiêu này thể hiện sức sản xuất của vốn cố
định, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn cố định hoạt động tốt, đó là nhân tốt góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh và ngược lại.
Suất hao phí VCĐ trong kỳ
Suất hao phí VCĐ
ỳ
Vố
ố đị
Doanh thu thuần
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -