Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khóa luận tốt nghiệp du lịch nghiên cứu vai trò của dữ liệu lớn trong điểm đến d...

Tài liệu Khóa luận tốt nghiệp du lịch nghiên cứu vai trò của dữ liệu lớn trong điểm đến du lịch thông minh

.PDF
58
16
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ KHOA DU LỊCH KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA DỮ LIỆU LỚN TRONG ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH THÔNG MINH SVTH: LÊ THỊ ANH THƯ LỚP : K49– TMĐT GVHD: TS. LÊ VĂN HÒA Thừa Thiên Huế, tháng 6 năm 2020 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được bài khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng và nỗ lực phấn đấu của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự ủng hộ, quan tâm giúp đỡ từ phía nhà trường, quý thầy cô, đơn vị thực tập, người thân và bạn bè. Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo Lê Văn Hòa, người đã trực tiếp giúp đỡ, tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Xin được cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Khoa Du Lịch - Đại học Huế đã giảng dạy và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học tập và rèn luyện. Xin được cảm ơn đến ban lãnh đạo, các anh chị trong khách sạn Vĩnh Thuyên, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian thực tập. Mặc dù rất cố gắng để hoàn thành khóa luận nhưng tôi biết rằng với vốn kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế của mình nên sai sót trong báo cáo là không thể tránh khỏi. Rất mong quý thầy cô bỏ qua những sai sót này và góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Nghiên cứu vai trò của dữ liệu lớn trong điểm đến du lịch thông minh” là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Văn Hòa. Tất cả những tham khảo từ các nghiên cứu liên quan đều được nêu nguồn gốc một cách rõ ràng từ danh mục tài liệu tham khảo trong khóa luận. Trong khóa luận, không có việc sao chép tài liệu, công trình nghiên cứu của người khác mà không chỉ rõ về tài liệu tham khảo. Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 6 năm 2020 Sinh viên Lê Thị Anh Thư DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Các khái niệm thông minh theo từng tác giả qua các năm .......................... 10 Bảng 1.2. Kích thước của điểm đến thông minh theo từng tác giả qua các năm ......... 12 Bảng 2.1. Các khái niệm về dữ liệu lớn theo từng tác giả qua các năm ...................... 21 Bảng 2.2. Bảng chi tiết về mô hình dữ liệu của Pasquale Del Vecchio ....................... 27 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1.1. Hình ảnh minh họa du lịch thông minh [1] .................................................. 7 Hình 2.1. Phân loại dữ liệu lớn: Hashem và cộng sự [21]........................................... 26 Hình 2.2. Nguồn thống kê dữ liệu lớn của Newell và cộng sự [26] ............................ 28 Hình 2.3. Mô hình điểm đến du lịch thông minh của Ivars Baidal và các cộng sự [15]29 Hình 2.4. Khung dự báo du lịch với dữ liệu lớn của Chen và cộng sự [23]................. 33 Hình 2.5. Cơ hội và thách thức của dữ liệu lớn (Miah và cộng sự) [31] .................... 37 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Tên viết tắt Tên Tiếng Anh Smart Tourism Destination Diễn dịch Tiếng Việt Điểm đến du lịch thông minh 1 STD 2 STDs 3 UNWTO 4 CNTT Công nghệ thông tin 5 6 CNTT-TT DLTM Công nghệ thông tin và truyền thông Du lịch thông minh 7 DMO 8 C-ITS 9 TIS 10 ROI 11 NFC 12 RFID 13 UGC 14 CRM Smart Tourism Destinations World Tourism Organization Những điểm đến du lịch thông minh Tổ chức du lịch thế giới Destination Management Organization Cooperative-intelligent transportation system Tourism Information System Return on Investment Tổ chức quản lý điểm đến Near-Field Communications Radio Frequency Identification User Genarated Content Customer Relationship Management Kết nối trường gần Hệ thống giao thông thông minh hợp tác Hệ thống thông tin du lịch Tỷ lệ lợi nhuận ròng Nhận dạng qua tần số vô tuyến Nội dung của người dùng tạo ra Quản lý quan hệ khách hàng ĐẶT VẤN ĐỀ • Tính cấp thiết của đề tài Trong những thập kỷ qua, du lịch đã có sự tăng trưởng liên tục và đa dạng, trở thành một trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới (Theo Tổ chức Du Lịch Thế Giới UNWTO) [19]. Du lịch đã và đang là một hoạt động phát triển mạnh mẽ và đem lại hiệu quả kinh tế siêu lợi nhuận cho mỗi vùng, mỗi quốc gia của chúng ta, đồng thời nó có thể quảng bá hình ảnh của đất nước với các quốc gia và ngày càng nhận được sự quan tâm trên toàn thế giới. Vì vậy chất lượng, tính cạnh tranh của du lịch là những vấn đề nhận được nhiều sự chú ý và công nghệ đã nổi lên như là động lực và lực lượng cơ bản cho các điểm đến du lịch. Do đó, việc nắm giữ dữ liệu lớn trong du lịch đã được coi là một phương tiện để dẫn dắt những thách thức về sự tăng trưởng thông minh của các điểm đến và công ty du lịch [5], bằng cách định hình lại ranh giới của đối thủ cạnh tranh và nâng cao cấu hình của nó như ngành công nghiệp thông tin chuyên sâu [20]. Trong bối cảnh này, cuộc tranh luận về du lịch thông minh đã cố gắng chứng minh một số lĩnh vực liên quan và thách thức mà dữ liệu lớn có thể mang lại cho khả năng cạnh tranh của các điểm đến và các công ty du lịch. Đặc trưng bởi các dịch vụ tiên tiến, mức độ đổi mới cao và sự hiện diện của các quy trình mở, tích hợp và chia sẻ để nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả cư dân và khách du lịch, khái niệm về một điểm đến du lịch thông minh là kết quả của sự kết nối giữa các điểm đến du lịch với cộng đồng của nhiều bên liên quan thông qua các nền tảng năng động và các luồng truyền thông chuyên sâu về kiến thức và các hệ thống hỗ trợ quyết định nâng cao [11]. Trong suốt quá trình ra quyết định và giao tiếp, khách du lịch góp phần tạo ra một luồng dữ liệu khổng lồ được tạo ra bởi các cảm biến, thiết bị vi mô và máy ảnh được phân phối trên các khu vực đô thị và ngoại ô mà khách du lịch quan tâm. Tất cả những dữ liệu này là một cơ sở đầy hứa hẹn để tạo ra các điểm đến thông minh cũng như tăng cường khả năng của các công ty du lịch để cá nhân hóa việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ của họ. Tất cả các công ty có thể nhận được thông tin có giá trị về dữ liệu lớn để dự đoán nhu cầu của khách du lịch, cho phép ra quyết định tốt hơn, quản lý luồng kiến thức và tương tác với khách hàng và cung cấp dịch vụ tốt nhất theo cách hiệu quả và hiệu quả hơn. Điều này có thể dẫn đến năng suất được cải thiện, tăng sự hài lòng của khách hàng, các chiến dịch tiếp thị được cá nhân hóa và hoạt động hiệu quả hơn. Tất cả các công ty có thể nhận được thông tin có giá trị về dữ liệu lớn để dự đoán nhu cầu của khách du lịch, cho phép ra quyết định tốt hơn, quản lý luồng kiến thức và tương tác với khách hàng và cung cấp dịch vụ tốt nhất theo cách hiệu quả và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các vấn đề nghiên cứu mở về vai trò của dữ liệu lớn trong ngành du lịch vẫn còn có sự hạn chế. Vậy dữ liệu lớn là gì? Nó đóng vai trò gì trong điểm đến du lịch thông minh (STD)? Khó khăn và lợi ích gì khi sử dụng dữ liệu lớn? Làm thế nào để phát triển STD dựa vào dữ liệu lớn? Từ những câu hỏi và lý do trên, tôi đề xuất đề tài “Nghiên cứu vai trò của dữ liệu lớn trong điểm đến du lịch thông minh” để làm khóa luận tốt nghiệp. • Mục tiêu nghiên cứu • Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về dữ liệu lớn trong STD. • Phân tích, đánh giá vai trò của dữ liệu lớn • Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng của dữ liệu lớn trong phát triển STD dựa vào dữ liệu lớn. • Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu Các điểm đến du lịch thông minh ứng dụng dữ liệu lớn trong hoạt động du lịch. • Phạm vi nghiên cứu Các mô hình STD. • Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tài liệu: Tham khảo tài liệu từ sách, các bài báo quốc tế, Internet và các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề Dữ liệu lớn. • Tóm tắt nội dung - Khóa luận tốt nghiệp “Nghiên cứu vai trò của dữ liệu lớn trong điểm đến du lịch thông minh” nhằm tìm hiểu, phân tích vai trò của dữ liệu lớn trong STD - Khóa luận gồm những nội dung chính cơ bản sau: Chương 1: Cơ sở lí luận và hệ thống về STD Tìm hiểu các khái niệm về du lịch, khái niệm về thông minh, khái niệm về Điểm đến du lịch thông minh. Chương 2: Phân tích, đánh giá vai trò của dữ liệu lớn trong STD Tìm hiểu vai trò của dữ liệu lớn trong điểm đến du lịch thông minh và đánh giá ưu nhược điểm Chương 3: Đề xuất giải pháp phát triển STD dựa trên dữ liệu lớn Tìm hiểu các giải pháp phát triển, cải thiện STD dựa vào dữ liệu lớn. • • Du lịch • Khái niệm CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ HỆ THỐNG VỀ STD Du lịch đã trở thành một trong những hình thức sinh hoạt khá phổ biến của con người trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, thế nào là du lịch xét từ góc độ của người du lịch và bản thân người làm du lịch, thì cho đến nay vẫn còn có sự khác nhau trong quan niệm giữa những người nghiên cứu và những người hoạt động trong lĩnh vực này. Theo Liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of Official Travel Oragnization: IUOTO)[3]: Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống. Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Rome – Italia (21/8 – 5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch[3]: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ. Theo các nhà du lịch Trung Quốc [3]: Hoạt động du lịch là tổng hoà hàng loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện. Theo I. I. Pirogionic (1985) [3]: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa. Theo Điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam năm 2005, ban hành ngày 14/6/2005: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Nhìn từ góc độ thay đổi về không gian của du khách: Du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc. Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác. Đối với chính quyền địa phương: Du lịch là việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ khách du lịch, là tổng hợp các hoạt động kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho khách du lịch trong việc hành trình và lưu trú, là cơ hội để bán các sản phẩm của địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân địa phương. Đối với cộng đồng dân cư sở tại: Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội mà hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu nền văn hoá, phong cách của những người ngoài địa phương mình, vừa là cơ hội để tìm việc làm, phát huy các nghề cổ truyền, tăng thu nhập nhưng đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến đời sống người dân sở tại như về môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn, chốn ở … Như vậy, chúng ta thấy được du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, bao gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Nó vừa mang đặc điểm của ngành kinh tế vừa có đặc điểm của ngành văn hóa – xã hội. • Ví dụ Vào các dịp nghỉ hè hay các ngày lễ, chúng ta thường chọn các điểm đến như các bãi biển, các thành phố cách xa nơi mình sinh sống hoặc đi nước ngoài để tận hưởng kỳ nghỉ, giảm áp lực, nghỉ ngơi sau đó quay lại để tiếp tục công việc. • Đặc điểm Du lịch là ngành công nghiệp không khói, ít gây ô nhiễm môi trường, giúp khách du lịch vừa được nghỉ ngơi, giảm căng thẳng và vừa biết thêm nhiều điều hay mới lạ mà khách chưa biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan. . . ) [4]. Du lịch là một ngành năng động và cạnh tranh đòi hỏi khả năng thích ứng liên tục với khách hàng. Thay đổi nhu cầu và mong muốn của khách hàng, vì sự hài lòng, an toàn và hưởng thụ của khách hàng đặc biệt chính là trọng tâm của các doanh nghiệp du lịch. Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Nhu cầu về du lịch càng tăng thì vấn đề bảo vệ môi trường cần phải được coi trọng. Có một dạng du lịch nữa, đó là du lịch xúc tiến thương mại, vừa đi du lịch vừa kết hợp làm ăn, cũng rất phổ biến tại Việt Nam [32]. • Điểm đến du lịch Theo tổ chức Du lịch Thế giới “Điểm đến du lịch là vùng không gian địa lý mà khách du lịch ở lại ít nhất một đêm, bao gồm các sản phẩm du lịch, các dịch vụ cung cấp, các tài nguyên du lịch thu hút khách, có ranh giới hành chính để quản lý và có sự nhận diện về hình ảnh để xác định khả năng cạnh tranh trên thị trường” [2]. Điểm đến du lịch là một điểm thu hút khách du lịch, nơi khách du lịch tham quan, thường có các giá trị vốn có của nó hoặc trưng bày các giá trị văn hóa, ý nghĩa lịch sử hoặc được xây dựng, cung cấp các dịch vụ về phiêu lưu, mạo hiểm, vui chơi giải trí hoặc khám phá, trải nghiệm những điều mới lạ [6]. Có một số quan điểm trong việc xác định điểm đến du lịch. Đối với khu vực địa lý, điểm đến du lịch được xác định là khu vực được du khách lựa chọn bao gồm tất cả các tiện nghi cần thiết như chỗ ở, nhà hàng và giải trí. Trong khi đó, định nghĩa về các điểm đến du lịch cũng có thể nhấn mạnh vượt quá giới hạn địa lý của họ đến mức phụ thuộc vào động lực nguồn gốc của khách du lịch. Theo ký hiệu của Liên Hợp Quốc, ý nghĩa của điểm đến nằm ở nhận thức của khách du lịch về một nơi thúc đẩy họ thực hiện chuyến đi. Hơn nữa, Buhalis [11] đề cập đến các điểm đến như sự pha trộn của các sản phẩm và dịch vụ du lịch được sản xuất và cung cấp cho khách hàng tiềm năng như một trải nghiệm tích hợp. Trên thực tế, một điểm đến được coi là một mạng lưới được cấu thành bởi các bên liên quan, tất cả đều tham gia vào việc cung cấp dịch vụ và trải nghiệm cho khách du lịch, sự hợp tác giữa các bên liên quan và trao quyền chuyển giao, chia sẻ tri thức. • Khái niệm “thông minh” trong du lịch Theo Gretzel và cộng sự [14] “thông minh là một từ thông dụng mới để mô tả sự phát triển công nghệ, kinh tế và xã hội được thúc đẩy bằng cách sử dụng các công nghệ mới”. Sự thông minh trong du lịch đề cập đến việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông để phát triển các công cụ sáng tạo trong du lịch [6]. Nó hỗ trợ các nỗ lực tích hợp tại một điểm đến để tìm ra các cách sáng tạo để thu thập và sử dụng dữ liệu từ cơ sở hạ tầng vật lý, kết nối xã hội, các tổ chức (chính phủ và phi chính phủ) và người dùng kết hợp với các công nghệ tiên tiến để tăng hiệu quả, tính bền vững, trải nghiệm. Các công cụ công nghệ thông tin và truyền thông được sử dụng cho du lịch thông minh bao gồm CNTT, truyền thông di động, điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo. Nó kết hợp cơ sở hạ tầng vật chất, thông tin, xã hội và thương mại của du lịch với các công cụ như vậy để cung cấp cơ hội cho du lịch thông minh. Du lịch thông minh còn đề cập đến việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để phát triển các công cụ sáng tạo trong du lịch và tạo lợi ích tương tác hỗ trợ giữa ba bên gồm: du khách, chính quyền và doanh nghiệp[1]. Cũng nhờ có du lịch thông minh, các cơ quan quản lý có thể xây dựng ngành du lịch chất lượng cao phục vụ du khách, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. • Hình ảnh minh họa du lịch thông minh [1] Thông minh đã trở thành một từ thông dụng mới để mô tả sự phát triển công nghệ, kinh tế và xã hội được thúc đẩy bởi các công nghệ dựa trên cảm biến, dữ liệu lớn, dữ liệu mở, cách kết nối và trao đổi thông tin mới (ví dụ: Internet of Things, RFID và NFC) như khả năng suy luận và lý trí. Höjer và Wangel [17] cho rằng đó không phải là quá nhiều tiến bộ công nghệ riêng lẻ mà là sự kết nối, đồng bộ hóa và sử dụng phối hợp các công nghệ khác nhau tạo nên sự thông minh. Theo Harrison và cộng sự [14], khái niệm thông minh là khai thác dữ liệu vận hành gần như thời gian thực, tích hợp và chia sẻ dữ liệu và sử dụng các phân tích phức tạp, mô hình hóa, tối ưu hóa và trực quan hóa để đưa ra quyết định vận hành tốt hơn. Thuật ngữ này đã được thêm vào các thành phố (thành phố thông minh) để mô tả các nỗ lực nhằm sử dụng công nghệ một cách sáng tạo để đạt được tối ưu hóa tài nguyên, quản trị hiệu quả và công bằng, bền vững và chất lượng cuộc sống. Liên quan đến cơ sở hạ tầng vật lý (ví dụ: nhà thông minh, nhà máy thông minh), trọng tâm là làm mờ ranh giới giữa vật lý và kỹ thuật số đồng thời thúc đẩy tích hợp công nghệ. Thông minh được thêm vào các công nghệ (điện thoại thông minh, thẻ thông minh, TV thông minh... ), nó mô tả đa chức năng và mức độ kết nối cao. Trong bối cảnh thị trường, nền kinh tế (nền kinh tế thông minh) đề cập đến các công nghệ hỗ trợ các hình thức hợp tác và tạo giá trị mới dẫn đến sự đổi mới, tinh thần kinh doanh và khả năng cạnh tranh [19] • Điểm đến du lịch thông minh Hoạt động du lịch hiện đang phải đối mặt với vô số thách thức bao gồm sự xuất hiện của các yếu tố đột phá như công nghệ, đã cách mạng hóa triệt để ngành này bằng cách sản xuất các sản phẩm và dịch vụ được cá nhân hóa mới [32]. Các sự kiện chắc chắn đã được gây ra bởi sự ra đời của thời đại thông tin và sự gia tăng của khách du lịch siêu liên kết và đa kênh mới được kết nối chặt chẽ với các thiết bị di động và sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông [32]. Bước đột phá công nghệ đã dẫn đến sự ra đời của một thế giới bị chi phối bởi các giải pháp công nghệ là động lực cho các mô hình kinh doanh thú vị [15]. Theo quan điểm của các yếu tố quyết định này, cả điểm đến và công ty du lịch phải được thẩm thấu và điều chỉnh các hành động chiến lược của họ bằng cách sử dụng các phương pháp tiếp cận như điểm đến du lịch thông minh [15]. Những thay đổi về công nghệ luôn là điều cần thiết cho du lịch và gần đây sự phát triển khái niệm thông minh đã được công nhận làm nên sự thay đổi mô hình trong ngành du lịch [7]. Điểm đến du lịch thông minh là sự hợp nhất của các sản phẩm du lịch và được khởi xướng từ Thành phố thông minh. Do đó, Điểm đến du lịch thông minh nên được xây dựng dựa trên các cấu trúc của Thành phố thông minh. Cũng như Thành phố thông minh, điểm đến du lịch thông minh có thể tăng khả năng cạnh tranh với việc triển khai các công nghệ nâng cao trải nghiệm du lịch của mình [9]. Điểm đến du lịch thông minh bao gồm công nghệ, con người và các tổ chức. Việc tạo ra một điểm đến du lịch thông minh đòi hỏi phải tích hợp các công nghệ, hệ thống, dịch vụ và khả năng vào một mạng hữu cơ đủ đa ngành và linh hoạt cho sự phát triển trong tương lai, cũng như truy cập mở [13] Mặc dù khái niệm về điểm đến du lịch thông minh vẫn đang được tiến hành, nhưng ngày càng có nhiều bài viết dành cho vấn đề này sau đây tôi đã tiến hành tổng hợp về các khái niệm điểm đến thông minh chi tiết như ở Bảng 1.1 • Các khái niệm thông minh theo từng tác giả qua các năm Tác giả Beritelli và cộng sự [12] Năm Khái niệm Sự thông minh trong các điểm đến du lịch có nghĩa là kết nối linh hoạt các chủ sở hữu thông 2014 qua một nền tảng công nghệ mà họ có thể trao đổi thông tin theo thời gian thực liên quan đến các hoạt động du lịch của họ. Khái niệm Điểm đến du lịch thông minh (STD) xuất hiện từ sự phát triển của Thành phố thông minh. Điểm đến du lịch thông minh là kết quả của sự kết nối của một du lịch đích đến với nhiều bên liên quan trong cộng đồng thông qua các nền tảng Dimitrios Buhalis và AdityaAmaranggana 2014 [11] năng động và các luồng giao tiếp chuyên sâu về kiến thức và tăng cường hệ thống hỗ trợ quyết định. Mục tiêu cuối cùng của điểm đến du lịch thông minh là tăng cường tối đa hóa trải nghiệm du lịch cả khả năng cạnh tranh điểm đến và người tiêu dùng hài lòng với sự chú ý đến tính bền vững trong một thời gian dài Du lịch được hỗ trợ bằng cách tích hợp các nỗ lực tại điểm đến để thu thập và khai thác dữ liệu nhận được từ cơ sở hạ tầng vật lý, các kết nối xã hội Gretzel và cộng sự [14] 2015 kết hợp với việc sử dụng các công nghệ nâng cao để chuyển đổi dữ liệu vào trải nghiệm tại điểm đến và tuyên bố giá trị của doanh nghiệp rõ ràng tập trung vào hiệu quả, bền vững và giàu trải nghiệm. Các điểm đến sử dụng các phương pháp và công Boes và cộng sự [9] 2015 cụ kỹ thuật có sẵn kích hoạt cung và cầu để đồng sáng tạo giá trị, niềm vui và trải nghiệm cho du khách và mang lại sự thịnh vượng, lợi nhuận và các lợi ích cho các tổ chức và điểm đến. STD là một mạng lưới các tổ chức được kết nối hoặc liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến du lịch Del Chiappa & Baggio [13] 2015 và một mạng lưới như vậy được bổ sung bởi cơ sở hạ tầng công nghệ nhằm tạo ra một môi trường kỹ thuật số hỗ trợ hợp tác và chia sẻ kiến thức Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã dẫn đầu đến sự xuất hiện của khái niệm điểm đến thông minh, D. Z. Jovicic [16] 2017 trong đó kiến thức và thông tin là có thể truy cập được cho tất cả các bên liên quan, tạo điều kiện cho họ thực hiện đổi mới liên tục hiệu suất và các hoạt động, càng nhiều càng tốt. (Nguồn: Tổng hợp năm 2020) Từ Bảng 1.1. ta có thể thấy các khái niệm về STD được thay đổi và cải thiện qua các năm. Nhưng nhìn chung, không gian du lịch cố gắng cải thiện trải nghiệm của du khách khi tiếp cận điểm đến đó, đồng thời cung cấp chất lượng cuộc sống tốt hơn cho cư dân, nhờ vào ứng dụng CNTT-TT và các công nghệ nâng cao khác trong quản lý điểm đến, đổi mới và các nguyên tắc về tính bền vững, khả năng tiếp cận thông tin và tạo ra tri thức và quản trị. Trong khi trọng tâm của các thành phố thông minh là cư dân của nó, các điểm đến du lịch thông minh cũng nhấn mạnh rằng nâng cao trải nghiệm du lịch là cần thiết, đồng thời phải cải thiện chất lượng cuộc sống cho cư dân. Quản lý điểm đến du lịch thông minh đã trở nên phức tạp hơn do các phát triển công nghệ hiện nay đã trao quyền cho việc tích hợp các nguồn lực để tạo ra giá trị cho tất cả các tác nhân trong hệ sinh thái điểm đến du lịch thông minh. Sự kết hợp độc đáo giữa các hệ thống công nghệ liên kết tương tác này và việc sở hữu mạng lưới hiểu biết rộng sẽ tăng cường tiềm năng cho lợi thế cạnh tranh bền vững trong điểm đến du lịch. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa các khả năng hiện tại được cung cấp bởi sự thông minh, các nhà quản lý điểm đến phải tích hợp toàn bộ phạm vi của các thành phần thông minh và đảm bảo khả năng tương tác và kết nối của cả phần mềm và phần cứng [12]. Theo khái niệm truyền thống, các điểm đến được coi là các đơn vị không gian là đối tượng tham quan du lịch. Từ cuối những năm 1990, nâng cao nhận thức về sự phức tạp của du lịch và tác động của nó khiến các nhà lý thuyết nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiều bên liên quan đóng vai trò tích cực trong việc quản lý các hệ thống đích. Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã dẫn đầu đến sự xuất hiện của khái niệm điểm đến thông minh, trong đó kiến thức và thông tin là có thể truy cập được cho tất cả các bên liên quan, tạo điều kiện cho họ thực hiện đổi mới liên tục hiệu suất và các hoạt động càng nhiều càng tốt. Khái niệm này không tập trung hoàn toàn vào khía cạnh công nghệ và việc sử dụng CNTT hiện đại, từ kinh nghiệm thông minh và các thành phần hệ sinh thái kinh doanh, là yếu tố chính quyết định các điểm đến thông minh, chỉ ra rằng khái niệm này bao gồm văn hóa xã hội, tâm lý, giáo dục, các thành phần quản lý chiến lược. . . • Kích thước của điểm đến thông minh theo từng tác giả qua các năm Kích thước Tác giả Dịch vụ điện toán đám mây (Wang và cộng sự, 2013) Internet vạn vật (Zhu, W và cộng sự, 2014) Hệ thống dịch vụ Internet của người dùng cuối [25] (Buonincontri và Micera, 2016) Cá nhân hóa kết nối (Lamsfus and Alzua-Sorabal, Thông tin trong thời gian thực 2013) Giám sát trong thời gian thực [22] Đầu tư vào vốn con người và xã hội (Gretzel và cộng sự. , 2015) Vận chuyển [14] Cơ sở hạ tầng truyền thông CNTT hiện đại Nguồn lực con người Khả năng lãnh đạo Doanh nhân (Boes và cộng sự. , 2015) [9] Đổi mới Vốn xã hội Cơ sở hạ tầng CNTT (Nguồn: Tổng hợp năm 2020) • Đặc điểm của điểm đến du lịch thông minh • Các tổ chức du lịch • Hoạt động như một trung tâm thông minh điều phối tất cả các thông tin liên quan và giúp người dùng dễ dàng truy cập thông tin theo thời gian thực • Số hóa các quy trình kinh doanh cốt lõi • Tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng • Tham gia với cộng đồng địa phương, khách du lịch và chính phủ trong việc tạo ra trải nghiệm du lịch • Nhanh nhẹn trong tổ chức, ra quyết định nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu của khách hàng dựa trên những hiểu biết đúng lúc • • Nhắm mục tiêu chính xác và dịch vụ được cá nhân hóa Chính phủ • Quản trị thông tin hỗ trợ dữ liệu mở • Điều chỉnh quyền riêng tư dữ liệu • Thiết lập quan hệ đối tác công cộng • Cư dân địa phương, cộng đồng địa phương • Kết nối liên tục • Sáng tạo và trao quyền đầy đủ • Hiểu biết về công nghệ • Tích cực tham gia phát triển di sản thông minh / Văn hóa điện tử • Khách du lịch • Kết nối tốt và có nhiều thông tin • Là các nhà phê bình và marketing tích cực • Yêu cầu dịch vụ được cá nhân hóa cao • Tham gia cả về mặt xã hội và công nghệ • Thảo luận linh hoạt qua phương tiện truyền thông xã hội • Đóng góp vào nội dung • Sử dụng các thiết bị của người dùng cuối trong nhiều điểm tiếp xúc • • Môi trường • Kết nối thông qua Internet vạn vật • Sự hiện diện của dịch vụ điện toán đám mây • Hệ sinh thái đổi mới • Mạng cảm biến trong toàn môi trường • Kết hợp thông tin kỹ thuật số và bối cảnh xã hội sẽ tăng cường thực tế địa vật lý • Nền tảng xã hội có thể tương tác Cơ sở hạ tầng tại các điểm đến du lịch thông minh Công nghệ đã nổi lên như là động lực và lực lượng cơ bản cho các điểm du lịch. Do đó, ngành du lịch, bao gồm các dịch vụ, phải chịu chuyển đổi công nghệ để có thể làm cho việc tiến hành kinh doanh dễ dàng, nhanh hơn và việc truyền thông tin thuận tiện hơn. Điều này được lấy từ quan điểm của một thế giới đã phát triển do toàn cầu hóa. Trong Thế kỷ XXI, sự phát triển của ngành du lịch liên quan rất nhiều đến công nghệ thông tin. Công nghệ cung cấp cho người dùng cơ hội được liên kết với các tổ chức khác trong thời gian rất ngắn. Khái niệm này cũng được nhấn mạnh bởi Inversini [9] rằng du lịch có thể là một trong những động lực của các nền kinh tế hiện đại như nó là một người dùng hàng đầu về công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), đặc biệt là Internet. UNESCO và UNWTO chắc chắn đã chỉ ra rằng các nước cần phải đáp ứng nhu cầu của khách du lịch mới, nhu cầu của người dân và phản ứng này có thể đạt được bằng cách sử dụng sáng tạo kỹ thuật được cung cấp bởi công nghệ mới. Các tổ chức này cũng nhấn mạnh rằng ngành du lịch cần tham gia tích cực hơn với truyền thông hiện tại chiến lược phổ biến thông tin mới và hiện tại cho khách du lịch [32]. Từ quan điểm của khách du lịch, việc mua bán sản phẩm du lịch trực tuyến đã trở nên vô cùng phổ biến, và rất cần thiết để ngành du lịch hiểu và có thể thực hiện để làm dòng dịch vụ này hiệu quả hơn cho người dùng, đặc biệt là khách du lịch. Nó là điều cần thiết cho những người trong ngành du lịch hiểu cách khách du lịch thích nghi với những thay đổi công nghệ như vậy và khía cạnh nào của sự thay đổi này có thể giúp khách du lịch dễ dàng tiếp cận và sử dụng các thông tin liên quan trong thời gian lưu trú của họ. Chắc chắn, thông tin đó cũng phải dựa trên nhu cầu và mong muốn của họ. Điều này làm cho du lịch có thể tạo ra doanh thu lớn cho một địa phương và giải trí nhu cầu của nhiều loại khách du lịch là quan trọng. Theo báo cáo [7] xu hướng du lịch trong vài năm tới sẽ được xác định bởi mức độ chuyên sâu sử dụng công nghệ. Quan sát này càng khẳng định sự cần thiết của những người trong ngành hiểu tại sao sự sẵn có của thông tin đã trở thành một trong những yếu tố chính quyết định sự cạnh tranh giữa các tổ chức du lịch. Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng cách sử dụng các công cụ phù hợp và hiện có để truy cập, hệ thống thông tin du lịch (TIS) có thể phát triển cơ sở công nghệ. Nó có thể đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và sự sống còn của các tổ chức du lịch khác nhau. Thông qua những lợi thế có được, TIS có thể đảm bảo rằng mức độ du lịch và các hoạt động của nó được tích hợp. Các TIS có thể được áp dụng để tạo thuận lợi cho mối quan hệ giữa các tổ chức du lịch, điểm du lịch, và khách du lịch. Điều này có thể đóng góp cho việc thúc đẩy và chuyên môn hóa một số sản phẩm du lịch. Một điểm đến du lịch thông minh sẽ có thể kết hợp phát triển công nghệ như cũng như phát triển các hoạt động đổi mới. Một điểm đến du lịch thông minh cũng có thể pha trộn các năng lực này với không gian kỹ thuật số, xử lý thông tin và các công cụ cho phép chuyển giao công nghệ và chia sẻ kiến thức. López và Garcia [8] đề cập đến điểm đến du lịch thông minh như một điểm đến sáng tạo được thành lập trên một công nghệ tiên tiến cơ sở hạ tầng; họ có khả năng đảm bảo sự phát triển bền vững của khu vực nơi du lịch xảy ra. Tóm lại, điều quan trọng là các thành phố phải có mục tiêu phát triển như một địa điểm du lịch thông minh. Các công cụ và nền tảng cần thiết để làm như vậy bao gồm: - Cơ sở hạ tầng CNTT như điện toán đám mây và Internet vạn vật (IoT). Ý nghĩa trong này, Cisco định nghĩa Internet vạn vật (IoT) là sự kết hợp giữa con người, quy trình, dữ liệu và mọi thứ làm cho mạng trở nên phù hợp và có giá trị hơn bao giờ hết, biến thông tin thành hành động tạo ra tài nguyên mới, trải nghiệm phong phú hơn, và cơ hội kinh tế chưa từng có cho các công ty, cá nhân và quốc gia. Các đối tượng và thiết bị được sử dụng hàng ngày, ngày càng được kết nối với nhau và điều này dẫn đến việc tạo ra các giải pháp thông minh liên tục được cập nhật và cải tiến. Theo Meyer [7 ] Internet of Me (IoM) đang nổi lên vì người tiêu dùng đang nói: “Tôi muốn thế giới xoay quanh tôi; Tôi muốn có thể sử dụng các giải pháp tôi cần và các giải pháp tôi thích khi tôi muốn sử dụng chúng và trên các thiết bị mà tôi thích sử dụng” - Thiết bị đeo là thiết bị nhỏ có cảm biến có khả năng biến thiết bị người dùng tương tác thành một phần mở rộng của tâm trí hoặc cơ thể con người. Một thiết bị đeo là một hệ thống có thể được mặc như một bộ quần áo hoặc trang sức. Những vật phẩm này còn được gọi là các thiết bị đeo được trên mạng, và chúng có các ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày của mọi người. Hiện nay, chúng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. - Các thiết bị di động như điện thoại thông minh và máy tính bảng. Khả năng tiếp cận dễ dàng mang theo các thiết bị như thế này cho phép dễ dàng mua hàng hóa và dịch vụ qua thiết bị di động thay vì thông qua các phương tiện thông thường hơn. Thanh toán di động có nghĩa là sử dụng thiết bị điện thoại di động (điện thoại, máy tính bảng) để bắt đầu, ủy quyền và xác nhận việc trao đổi giá trị tiền tệ cho hàng hóa hoặc dịch vụ. Ví di động là một phương thức thanh toán mới thông qua thiết bị di động. Theo Carr [7] một ví di động bao gồm một điện thoại di động với thông tin cụ thể của khách hàng cho phép người tiêu dùng để thực hiện thanh toán. Các hình thức giao tiếp khác nhau có thể được sử dụng để thanh toán qua hệ thống này bao gồm giao tiếp trường gần (NFC), nhận dạng tần số 19 radio (RFID), nhận dạng hình ảnh hoặc mã QR, tin nhắn ngắn dịch vụ và dữ liệu dịch vụ. - Thực tế ảo là một môi trường ba chiều do máy tính tạo ra cho phép người dùng xem, tương tác và thể hiện sự hiện diện của họ trong một môi trường không có thật. Tùy thuộc vào khả năng tương tác được cung cấp, nó có thể được nhập vai (ví dụ: sử dụng mũ bảo hiểm) hoặc không nhập vai (ví dụ: sử dụng màn hình). Với tiềm năng to lớn của công nghệ này trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là du lịch, đã có sự phổ biến rộng rãi của ứng dụng di động với thực tế tăng cường. Chúng được sử dụng trong bảo tàng, di tích, phòng trưng bày, không gian mở và các điểm du lịch khác, nơi các đối tượng có thể nâng cao và cải tiến trong thời gian thực, với nhiều thông tin khác nhau (văn bản, hình ảnh, hoạt hình ba chiều, âm thanh hoặc video). - Phát triển công nghệ cũng đã cung cấp các phương pháp mới cho các cá nhân tương tác với nhau, ngay cả trong môi trường ngoài trời, với nội dung được cập nhật theo thời gian thực và với đầu ra một-một. Thậm chí có thể sử dụng tương tác các bề mặt trong môi trường đô thị để cung cấp quyền truy cập 24 giờ vào thông tin hữu ích về một địa điểm cụ thể, khu vực hoặc thậm chí quốc gia. Đây là loại hỗ trợ công nghệ, có đầy đủ thông tin liên quan và hữu ích, có thể kết hợp nhiều loại nội dung được cá nhân hóa và tùy chỉnh bao gồm: đặt chỗ, tìm hiểu sản phẩm, dịch vụ, ưu đãi và khuyến mãi cũng như mua hàng. Việc sử dụng công nghệ và thực tế mở rộng, kết hợp với mã QR, giúp thúc đẩy khả năng tương tác với người dùng vượt ra ngoài việc cung cấp thông tin đơn thuần. - Các dịch vụ dựa trên vị trí của người dùng (các dịch vụ dựa trên vị trí, Bảng điều khiển sử dụng công nghệ hệ thống định vị toàn cầu (GPS)) cho phép phát triển các ứng dụng mô hình mới của di động. Ví dụ về điều này bao gồm quản lý giao thông hệ thống và hệ thống thông tin và điều hướng quá cảnh. Khi được sử dụng gần nhau, cùng một khái niệm sử dụng đèn hiệu. Đèn hiệu là một thiết bị nhỏ được kết nối với các thiết bị điện tử và hệ thống điểm bán hàng khác. Trong một cửa hàng, ví dụ: một hệ thống như vậy có thể được kết nối với một nền tảng thanh toán (chẳng hạn như PayPal). Do đó, một người có thiết bị di động thông minh có công nghệ Blutooh sẽ nhận được thông báo. - Hệ thống tư vấn là các công cụ được thiết kế để giúp người dùng chọn sản phẩm tốt nhất phù hợp với sở thích của họ. Hệ thống này giúp xác định khách du lịch tùy chọn và nó cũng có thể gợi ý các mục có liên quan cho mỗi người dùng. Điều này dựa trên một phân tích hành vi duyệt web cá nhân của khách du lịch trên mạng và thể hiện sở thích cùng các yếu tố khác [32].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan