Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
M Ở ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Phần tiếng Việt nhằm mục đích cuối cùng là rèn cho học sinh sử dụng
đúng, hay tiếng Việt vào hoạt động giao tiếp trong đời sống. Tiếng Việt cung
cấp cho học sinh những tri thức về ngôn ngữ như các lớp từ vựng, các quy tắc
sử dụng ngôn ngữ vào trong hoạt động giao tiếp. Chính nhờ những tri thức
này mà học sinh mới biết cách sử dụng ngôn ngữ phù họp với nội dung cần
trình bày. Có thể nói dạy tiếng Việt là dạy cho học sinh cách sử dụng phương
tiện cần thiết để thực hiện quá trình giao tiếp. Mặt khác phần này còn giúp
cho học sinh tiếp nhận và diễn đạt những kiến thức khoa học trong nhả
trường. Dạy tiếng Việt ở trường phổ thông hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Có một thời gian dài người giáo viên dạy tiếng Việt cho học sinh quá thiên về
tri thức lí thuyết một cách máy móc mà quên rằng tất cả những tri thức lí
thuyết ấy cần được vận dụng trong đời sống thực tế. Mặt khác chương trình
cũng không chú ý đến nhu cầu, thị hiếu của học sinh cho nên đa số nội dung
của các bài tiếng Việt giáo viên đưa ra không gắn với đời sống thực tế mà gắn
với tác phẩm văn chương. Người dạy chưa tìm hiểu xem học sinh có nhu cầu
bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình không? Chính điều này đã làm cho học
sinh trở nên thụ động, hạn chế khả năng giao tiếp, đồng thời gây cho học sinh
cảm giác nhàm chán, không thích học tiếng Việt.
Từ trước đến nay người ta bàn rất nhiều về phương pháp dạy tiếng Việt
ở trường phổ thông: phương pháp giao tiếp, phương pháp vận động, phương
pháp tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh... Trong đó người ta đặc
biệt nhấn mạnh đến phương pháp giao tiếp. Trong dạy học nói chung và dạy
tiếng Việt nói riêng, phương pháp giao tiếp ngày càng được thể hiện dưới
những hình thức đa dạng khác nhau. Kết quả của một giờ tiếng Việt không
phải chỉ cho học sinh nắm được nội dung bài học theo lí thuyết suông mà còn
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
phải biết ứng dụng vào các hoạt động giao tiếp trong đời sống thực tế. Vì vậy
kể từ khi quan điểm giao tiếp được đưa vào phương pháp dạy học thì kết quả
dạy tiếng Việt đã đạt được những bước tiến đáng kể so với trước đó.
Chúng tôi nhận thấy rằng giao tiếp đóng một vai trò quan trọng trong
việc dạy và học tiếng Việt. Giao tiếp sẽ phát huy được khả năng sử dụng ngôn
ngữ cho học sinh, phát huy tư duy sáng tạo đồng thời tạo hứng thú cho học
sinh trong các giờ học tiếng Việt. Chúng tôi suy nghĩ rằng đổi mới phương
pháp dạy học tiếng Việt đang là vấn đề cần thiết. Hiện nay chúng tôi đã khẳng
định tính ưu việt của phương pháp giao tiếp trong dạy học tiếng Việt nhưng
việc dạy và học tiếng Việt ở trường phổ thông hãy còn hạn chế. Phần lớn giáo
viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của việc dạy tiếng Việt theo hướng
giao tiếp nhưng lại không nắm được lí thuyết về giao tiếp, chưa nhận thức
được đầy đủ về tầm quan trọng, hiệu quả của phương pháp này, đặc biệt là
trong dạy học tiếng Việt. Điều này đã làm hạn chế rất nhiều đến kết quả dạy
và học tiếng Việt.
Như vậy qua những vấn đề nêu trên, cá nhân tôi là một sinh viên sư phạm
Ngữ văn sắp ra trường đã nhận ra vai trò, sự cần thiết của việc vận dụng
hướng giao tiếp vào dạy từng bài cụ thể của môn Ngữ văn THPT. Cùng với
những vấn đề khoa học và thực tiễn nói trên, người viết chọn đề tài “Dạy học
bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt trong SGK Ngữ văn 10 theo hướng giao
tiếp” với mong muốn sẽ góp một phần nào vào quá trình đổi mới phương
pháp dạy học và phổ biến nó một cách sâu rộng hơn nữa, đem lại hiệu quả cao
cho các bài phong cách nói riêng và phần tiếng Việt nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trong thực tế của cuộc sống, bất kì một điều gì mới mẻ đều thu hút
được sự chú ý của mọi người như một chính sách kinh tế, chính trị hay giáo
dục. Đó là vấn đề liên quan đến vận mệnh của mỗi dân tộc. Mỗi quan điểm
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
chính sách mới ra đời, nó phải được thực tiễn chứng minh. Quan điểm dạy
học theo hướng giao tiếp cũng không nằm ngoài quy luật đó, bởi nó là một
quan điểm mới ra đời trong giai đoạn đổi mới giáo dục nên nó nhận được rất
nhiều sự quan tâm. Trong số các tác giả nghiên cứu về dạy học tiếng Việt theo
hướng giao tiếp thì có tác giả quan tâm về mặt phương tiện (phương pháp dạy
của giáo viên) cũng có tác giả quan tâm về mặt mục đích của việc dạy tiếng
Việt theo hướng giao tiếp.
Trong sách “Những thủ thuật trong dạy học - các chiến lược nghiên cứu
và lí thuyết về dạy học dành cho các giảng viên Đại học và Cao đẳng” Wilbrt
J.Mckeachie đã dựa trên quan điểm thực tiễn của phương pháp dạy học hiện
nay mà cho rằng “Theo chương trình dạy tiếng Pháp, phải dựa trên việc thực
hành ngôn ngữ trong và ngoài lớp học tiếng Pháp, học sinh phải luôn luôn
được đặt vào tình huống giao tiếp”. Ở một đoạn khác, tác giả đặc biệt nhấn
mạnh “Cơ bản là phải đặt học sinh trong một tình huống giao tiếp làm sản
sinh hoặc thông hiểu lời nói”. Điều đó có nghiã là việc dạy học theo hướng
giao tiếp được áp dụng rộng rãi ở nhiều môn học. Để có thể hướng quá trình
dạy học vào hoạt động giao tiếp thì người giáo viên cần thiết phải tạo ra
những tình huống có vấn đề để học sinh tham gia vào hoạt động giao tiếp,
tình huống là một điều kiện quan trọng để sản sinh ra hoạt động giao tiếp,
không có tình huống thì học sinh không thể giao tiếp. Đây là nhận định có ý
nghĩa quan trọng để người giáo viên có thể tổ chức quá trình dạy học tiếng
Việt đạt hiệu quả cao.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt”, các tác giả Lê A,
Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán đã đưa ra một số phương pháp dạy học
tiếng Việt thường được sử dụng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến phương
pháp giao tiếp. Trong sách có viết: “Phương pháp giao tiếp là phương pháp
quan trọng trong dạy học tiếng Việt. Phương pháp giao tiếp là phương pháp
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ
của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào
hoạt động giao tiếp” [1, 69-70]. Đặc biệt các tác giả còn nhấn manh “Phương
pháp này có thể được áp dụng khi dạy học từ ngữ, câu, phong cách và đặc biệt
là trong các bài học thuộc phân môn tiếng Việt”. Từ những ý kiến trên, ta thấy
rằng các tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của phương pháp giao tiếp.
Phương pháp này có thể giúp cho học sinh vận dụng được những lí thuyết đã
học để thực hành các văn bản trong quá trình giao tiếp. Phương pháp giao tiếp
là phương pháp có vai trò rất lớn và đang được sử dụng rộng rãi trong dạy học
tiếng Việt. Khi vận dụng phương pháp này trong dạy học tiếng Việt thì người
giáo viên cần chú ý đến hai mặt chủ yếu là phải giúp học sinh vận dụng được
các lí thuyết giao tiếp và ý thức được các nhân tố giao tiếp.
Hai tác giả Phan Phương Dung và Đặng Kim Nga trong cuốn “Hoạt
động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học” đã đề cập một cách sâu sắc
về quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học. Bên cạnh việc
cung cấp những kiến thức cơ bản về giao tiếp và hoạt động giao tiếp, hai tác
giả còn chỉ ra sự chi phối của quan điểm giao tiếp với nội dung và việc tổ
chức dạy học tiếng Việt ở tiểu học. Trong đó tài liệu đã chỉ rõ: “Trong dạy
học tiếng Việt ở tiểu học, giao tiếp vừa là cách thức vừa là mục đích học tập.
Thông qua giao tiếp và bằng con đường giao tiếp trong các tình huống nói
năng gần với hiện thực, học sinh thường xuyên luyện tập sử dụng lời nói, từ
đó kĩ năng giao tiếp của các em được hình thành một cách toàn diện và bền
vững”. Mặc dù tài liệu chủ yếu nghiên cứu phương pháp dạy học tiếng Việt
tiểu học nhưng cũng góp phần định hướng cho việc xây dựng cơ sở lí luận của
đề tài.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt”, tập 2 (giáo trình đào tạo
giáo viên tiểu học hệ cao đẳng sư phạm và sư phạm 12 + 2) của tác giả
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Trí, Lê A, Nguyễn Phương Nga đã đi sâu nghiên cứu các nội dung
như: giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, những cơ sở của quan
điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt. Các tác giả đã nhấn mạnh: “Quan
điểm giao tiếp là quan điểm cơ bản nhất trong việc tổ chức dạy học tiếng việt
ở trường phổ thông. Quan điểm này chi phối toàn bộ chương trình dạy học từ
việc lựa chọn nội dung, phương pháp đến hình thức dạy học” [13, 11]. Tài
liệu đã cung cấp cho chúng tôi những tiền đề lí thuyết quan trọng để nghiên
cứu đề tài này.
Ở SGV Ngữ văn 10 - tập 1, người viết sách cũng đưa ra những định
hướng, gợi ý về mặt phương pháp giảng dạy cho giáo viên. Mặc dù SGV chưa
chỉ rõ giao tiếp như thế nào nhưng nguyên tắc giao tiếp đã được quán triệt
một cách rõ ràng khi dạy từng phân môn.
Tóm lại giao tiếp chính là một quan điểm dạy học hiện đại. Và có rất
nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu về quan điểm này, quán triệt nó trong
việc xây dựng nội dung chương trình và SGK. Nhưng những tài liệu ở trên
chỉ mang tính chất định hướng khái quát. Còn nghiên cứu về từng bài dạy cụ
thể của môn Ngữ văn theo hướng giao tiếp thì vẫn chưa có tác giả nào đi sâu
nghiên cứu. Vì vậy người viết quyết định tìm hiểu đề tài “ Dạy học bài Phong
cách ngôn ngữ sinh hoạt trong SGK Ngữ văn 10 theo hướng giao tiếp” với
hi vọng sẽ đóng góp một phần nào đó vào việc nghiên cứu, áp dụng hướng
giao tiếp vào bài dạy nói trên, từ đó nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt
nói riêng và Ngữ văn nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài nói trên, chúng tôi nhằm các mục đích cụ thể như sau:
-
Đưa ra hướng đi mới trong dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới và
phù họp với thực tiễn trong công cuộc cải cách xã hội.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
- Đưa việc dạy học theo hướng giao tiếp đến gần hơn nữa với giáo viên
và học sinh.
- Nhằm triển khai việc dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ sinh họat”
theo hướng giao tiếp có hiệu quả hơn, góp phần nâng chất lượng bài học nói
riêng và tiếng Việt nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Khi thực hiện đề tài này, người viết đi vào nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hoá các tài liệu nghiên cứu để kế thừa, vận dụng giải quyết
vấn đề.
- Xác định được cụ thể cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
- Trình bày những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ sinh hoạt.
- Áp dụng hướng giao tiếp vào việc dạy học đặc biệt ở bài “Phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt”.
- Tổ chức thực nghiệm bằng việc thiết kế giáo án bài “Phong cách ngôn
ngữ sinh hoạt” thể hiện rõ hướng giao tiếp.
5. Đối tượng và phạm vi nghiền cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
Bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” trong SGK Ngữ văn 10 tập 1.
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của một khoá luận, chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu
vấn đề áp dụng hướng giao tiếp trong việc dạy bài “Phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt” ở SGK Ngữ văn 10.
6. Phương pháp nghiên cứu.
6.1. Phương pháp thống kê.
Phương pháp này được sử dụng để phân loại và phân tích kết quả khảo
sát thực trạng của học sinh trước khi tiến hành thực nghiệm.
6.2. Phương pháp hệ thống hoá.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Phương pháp này nhằm hệ thống hoá các tri thức lí thuyết về giao tiếp,
về ngôn ngữ sinh hoạt dưới góc độ ngôn ngữ học trong SGK Ngữ văn 10.
6.3. Phương pháp so sánh đối chiếu.
Phương pháp sử dụng để so sánh khi phân tích các nhân tố của ngôn
ngữ sinh hoạt khi tiến hành thiết kế thực nghiệm.
6.4. Phương pháp thực nghiệm.
Phương pháp này nhằm tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng tính khả
thi của thiết kế, từ đó rút ra kết luận chung.
7. Đóng góp của khoá luận.
Khoá luận đóng góp một phần nhỏ bé vào việc đổi mới phương pháp
dạy học tiếng Việt hiện nay trong nhà trường THPT.
8. Bố cuc của khoá luân.
•
•
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận của chúng tôi gồm ba
chương chính:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học theo hướng
giao tiếp.
- Chương 2: Dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” theo hướng
giao tiếp.
- Chương 3: Thực nghiệm.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
N Ộ ID U N G
CHƯƠNG 1
C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
•
*
•
DẠY HỌC TIÉNG VIỆT THEO HƯỚNG GIAO TIẾP
1.1. Cơ sở lý luận.
1.1.1. Lý thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
ỉ. 1.1.1. Giao tiếp là gì?
Sống trong xã hội, con người không chỉ có quan hệ với thế giới sự vật,
hiện tượng bằng hoạt động có đối tượng mà còn có quan hệ giữa con người vời
con người, giữa con người với xã hội - đó là quan hệ giao tiếp.
Có thể hiểu một cách giản dị rằng: Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ
người này sang người khác, với một mục đích nhất định nào đó.
Sự giao tiếp được thể hiện giữa hai hoặc hơn hai người với nhau trong
một bối cảnh nhất định và bằng một phương tiện giao tiếp chung.
Các kết quả nghiên cứu về sinh lý học và tâm lý học cho thấy rằng: Ở con
người, nhu càu giao tiếp dường như mang tính bẩm sinh. Khi giao tiếp, người ta
ừao đổi tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, sự hiểu biết với nhau và tác động đến nhau.
PChính nhờ thế mà con người mới tập hợp với nhau thành cộng đồng xã hội, các
tổ chức và các hoạt động của xã hội, những tư tưởng và trí tuệ của người này, thế
hệ này mới truyền tới người khác thế hệ khác được.
Các nhà nghiên cứu cho tới nay đã xây dựng rất nhiều định nghĩa về sự
giao tiếp. Mỗi tác giả, tùy theo phạm trù nghiên cứu của mình (y học, tâm lí học,
xã hội học, tổ chức kinh doanh) đã định nghiã sự giao tiếp và làm nổi bật khía
cạnh nào đó của vấn đề:
1.
Bác sĩNguyễn Khắc Viện từ góc độ tâm lý liệu pháp (1991) định nghĩa:
“Sự giao tiếp là sự trao đổi giữa người với người thông qua nói, viết, cử chỉ, điệu
bộ. Ngày nay từ này hàm ngụ sự trao đổi ấy thông qua một bộ mã (Code). Người
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
phát tin mã hóa một số tín hiệu, người tiếp nhận giải mã, một bên truyền một ý
nghĩ nhất định, để bên kia hiểu được”.
2. Diệp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc (1991) định nghĩa: “Sự giao tiếp là
sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể này với cá thể khác trong một cộng đồng xã hội.
Cộng đồng không có giao tiếp chỉ là một quần thể không có tính chất xã hội.
Loài động vật cũng có thể làm thành những xã hội vì chúng sống, có giao tiếp
với nhau, như xã hội loài ong, xã hội loài kiến...”.
3. Laswell (dẫn theo Gruere) đã xác định: “Giao tiếp nói theo nghĩa hẹp
là truyền đi một thông điệp, nhưng tới nay được hiểu là sự làm cho hai con người
cùng chấp nhận một cái gì là chung nhờ một quá trình hai chiều”.
4. Nhà nghiên cứu về sự giao tiếp ở trẻ em Perdonia (1963) đã định nghĩa
giao tiếp gắn liền với khái niệm “thông tin”. Ông viết: “Giao tiếp là xác lập mối
quan hệ thông tin và tương hỗ giữa hai cá nhân hoặc giữa một cá nhân với một
nhóm người. Ở đây cần tránh sự hiểu lập lờ do sự định nghĩa đơn giản từ “thông
tin”, không sử dụng từ này với ý nghĩa thông dụng trong báo chí, tức là thông
báo về một biến cố xảy ra ở đâu đó. Thông tin là sự biểu hiện cảm nhận được
của một chức năng cao cấp nhất của con người, là sự biểu hiện ý tưởng”.
Đối với các nhà tâm lý học ứng dụng, sự giao tiếp được xem là một tập hợp
các quá trình nhằm truyền đạt và tri giác các thái độ, các niềm tin và các ý định,
dựa vào bộ máy sinh học - tâm lý chung của loài người, làm sao để cho các bên
đối thoại hiểu được nhau và đạt được các mục tiêu giao tiếp.
Đối với các nhà tâm lý học nhân cách, giao tiếp là quá trình tác động qua lại
giữa người với người, thông qua sự tiếp xúc tâm lí thể hiện và các quan hệ liên
nhân cách được cụ thể hóa.
[9, 65]
Như vậy có thể thấy các định nghĩa nêu trên đều đã:
- Nêu bật được các đặc tính của giao tiếp.
- Nêu ra được các phương tiện hiện thực hóa giao tiếp.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
- Nêu rõ được các cấp độ của giao tiếp.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức được người khác, nhận
thức được các quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự
đối chiếu, so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản
thân mình như là một nhân cách, để hình thành năng lực tự ý thức.
Ở khoá luận này, chúng tôi sử dụng quan niệm của Nguyễn Quang uẩn
ừong cuốn “Tâm lý học đại cương” NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996 - một
quan niệm phản ánh được phương diện cốt lõi của giao tiếp ngôn ngữ. Đó là:
“Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người
trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động
qua lại với nhau. Hay nói khác đi, giao tiếp là xác lập và vận hành các quan hệ
người - người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể
khác”. [14, 35]
1.1.1.2. Các nhân tổ trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Trong quá trình giao tiếp, có nhiều nhân tố tham gia và ảnh hưởng đến các
phương diện của hoạt động giao tiếp. Những nhân tố này vừa góp phần thực hiện
hoạt động vừa ảnh hưởng chi phối đến hoạt động. Đó là các nhân tố: nhân vật
giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương
tiện và cách thức giao tiếp.
a. Nhân vật giao tiếp.
- Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào cuộc giao tiếp gồm
người nói và người nghe.
- Nhân vật giao tiếp có các đặc điểm sau:
Người nói và người nghe là những con người xã hội lịch sử cụ thể như:
giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, vốn sống, vốn văn hóa, vốn ngôn ngữ và những
đặc điểm về mặt tâm sinh lí. Những đặc điểm đó sẽ in dấu trong giao tiếp.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Trong một cuộc giao tiếp, người nói luôn luôn là một còn người nghe
có thể là một hoặc một số. Giữa người nói và người nghe cùng tác động ràng
buộc vào nhau và cùng hướng tới hiện thực được nói đến.
Trong quá trinh giao tiếp có sự đổi vai giữa người nói và người nghe (luân
phiên nhau).
b. Nội dung giao tiếp.
Là những sự vật, sự việc, hiện tượng mà cả người nói và người nghe đều
hướng đến trong giao tiếp, người nói hướng tới để truyền đạt thông tin, người
nghe hướng tới để nhận tin.
c. Hoàn cảnh giao tiếp.
Là những điều kiện không gian, thời gian trong đó xảy ra cuộc giao tiếp.
Hoàn cảnh giao tiếp là một nhân tố hết sức phức tạp bởi ngoài điều kiện không
gian, thời gian ra còn bao gồm những điều kiện về mặt lịch sử, địa lí, dân tộc;
phức tạp vì trong hoàn cảnh giao tiếp còn có hoàn cảnh khách quan và chủ quan.
Các nhân tố trong hoàn cảnh giao tiếp luôn chi phối các hoạt động giao tiếp:
từ việc lựa chọn nội dung đến cách thức thể hiện và cả những nghi thức trong
giao tiếp.
d. Mục đích giao tiếp.
Là đích cuối cùng của cuộc giao tiếp (cái hướng tới). Theo như khái niệm
về mục đích giao tiếp gồm hai phương diện: phương diện nhận thức và phương
diện hành động (từ sự nhận thức, người nghe có hành động hoặc ứng xử với hiện
thực được nói tới). Hai phương diện này luôn luôn tồn tại trong một cuộc giao
tiếp, có cái hành động là chính, có cái giao tiếp là chính. Bất kì một cuộc giao
tiếp nào cũng đều có mục đích nhất định.
Mục đích thông tin, thông báo: giao tiếp truyền đạt thông tin làm cho
người nghe nhận được thông tin (hướng vào nhận thức). Đa số các cuộc giao tiếp
hướng vào mục đích này.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Mục đích tạo lập quan hệ: chủ yếu để tạo mối quan hệ giữa người nói với
người nghe. Mục đích này bao gồm cả sự lảm quen.
Mục đích bộc lộ hay biểu hiện: giao tiếp để bộc lộ những điều chất chứa
trong lòng mà chưa bao giờ được nói ra.
Mục đích giải trí: giao tiếp cũng chính là một hình thức giải trí để bớt đi
nỗi vất vả, nhọc nhằn.
Có nhiều loại mục đích tùy theo từng loại, từng cuộc giao tiếp mà có những
mục đích khác nhau. Nhưng cuộc giao tiếp nào cũng có mục đích “ không có lời
nói nào đơn thuần là lời nói” (một nhà văn Nga).
Có thể nói bốn nhân tố trên đây đóng vai trò làm tiền đề cho giao tiếp, nếu
không có một trong bốn nhân tố này thì không thể có giao tiếp.
e. Phương tiện và cách thức giao tiếp.
Phương tiện giao tiếp là các phương tiện được sử dụng trong cuộc giao tiếp,
có thể là ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. Ngôn ngữ (nói, viết) được xem là phương
tiện giao tiếp tối ưu nhất. Tuy nhiên, để cuộc giao tiếp đạt hiệu quả tốt nhất càn
phải chú ý tới cả các phương tiện phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, điệu bộ...
đặc biệt ngày nay, để thuận tiện và đạt hiệu quả cao trong giao tiếp con người sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng vào giao tiếp. Vì vậy trong quá trình
giao tiếp, người tham gia giao tiếp phải tính đến những ảnh hưởng tích cực cũng
như tiêu cực của các nhân tố này.
Cách thức giao tiếp là cách sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
Trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau ta có cách thức giao tiếp khác nhau.
Tóm lại hoạt động tạo lập văn bản để giao tiếp bị chi phối bởi các nhân tố
kể trên. Các nhân tố đó không chỉ chi phối việc tạo lập văn bản ở người nói/
người viết mà còn là căn cứ cho việc tiếp nhận văn bản ở người nghe/ người đọc.
Đây chính là tiền đề quan trọng giúp người giáo viên xây dựng những định
hướng trong việc dạy tiếng Việt theo hướng giao tiếp. Học sinh phảihọcngôn
ngữ với tư cách là một yếu tố trong giao tiếp, biết xử lí tốt mốiquan hệ giữa các
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp với việc sử dụng ngôn ngữ. Có như vậy
việc tạo lập và lĩnh hội văn bản mới hiệu quả.
1.1.1.3. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
a. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Là hoạt động của người nói dùng ngôn ngữ để truyền đạt cho người nghe
những nhận thức tư tưởng, thái độ, tình cảm của mình về thực tế khách quan nào
đó làm cho người nghe cũng có nhận thức tư tưởng, thái độ tình cảm như người
nói về hiện thực khách quan đó, để từ đấy người nghe có được hành động
hoặc ý định hành động đối với hiện thực khách quan đó như người nói mong
muốn.
b. Lí thuyết hoạt động giao tiếp.
Trong giao tiếp hàng ngày, giao tiếp miệng cũng như giao tiếp viết, chứng
ta có thể tạo ra những sản phẩm ngôn ngữ với dung lượng lớn nhỏ hay với kích
thước ngắn dài tuỳ ý nhưng không thể nhỏ hơn một câu. Điều đó gây lên ấn
tượng rằng, dường như trong giao tiếp, chúng ta chỉ càn tạo ra một câu là đủ.
Nhưng thực tế không phải như vậy. Lời nói của chúng ta ít khi là một câu,
thường đó là một chuỗi câu, một văn bản. Chúng ta thể hiện tư tưởng của mình,
ý nghĩ của mình và trao đổi với người khác phổ biến dưới dạng văn bản. Có thể
nói rằng văn bản là đơn vị giao tiếp cơ bản nhất của ngôn ngữ. Hơn nữa, không
có nhu cầu giao tiếp thì không ai lại nói và viết thảnh văn bản. Như vậy, rõ ràng
tiếng Việt có quan hệ mật thiết với lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ. Nội dung của lí
thuyết này có thể tóm tắt trong một số luận điểm sau:
Thứ nhất, giao tiếp ngôn ngữ không chỉ nhằm mục đích thông tin mà chủ
yếu tác động đến người nhận về tư tưởng, tình cảm, hành động. Chức năng cơ
bản của ngôn ngữ là thông báo, bộc lộ và tác động. Các chức năng này có khi
được thể hiện riêng rẽ cũng có khi được hoà trộn chặt chẽ trong một đơn vị ngôn
ngữ. Vì vậy người nhận chỉ ở trong một ngữ cảnh cụ thể, đối mặt trực tiếp, cảm
nhận được đầy đủ nét mặt, cử chỉ, giọng nói của người phát mới có thể lĩnh hội
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
được đầy đủ các thông điệp được người phát gửi đến. Nhiều ý nghĩa thông báo
của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ẩn đi mà chỉ còn sự tác động đến người nhận
về tư tưởng, tình cảm, hành động.
Thứ hai mã hoá đúng quy tắc ngôn ngữ là điều kiện cần thiết để đạt đến
mục đích giao tiếp. Các đơn vị ngôn ngữ được hình thành bởi những quy tắc từ
vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Hoạt động giao tiếp ngôn ngữ không phải nhằm
chuyển tải các quy tắc đó (trừ khi quy tắc ngôn ngữ là nội dung giao tiếp). Một
giao tiếp ngôn ngữ thông thường chỉ thật sự thành công khi cả người phát và
người nhận đều lĩnh hội thông điệp theo cùng một nội dung. Sử dụng đúng quy
tắc ngôn ngữ là điều kiện căn bản để chuyển tải đúng nội dung giao tiếp mà
người phát mong muốn.
Thứ ba, hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ tỉ lệ thuận với sự hiểu biết về đối
tượng giao tiếp. Đối tượng giao tiếp trong thực tế rất đa dạng, có thể là một hoặc
nhiều người. Có người chủ động hào hứng lại có người bị động khiên cưỡng.
Nếu người nói đón được thị hiếu, sở thích của người nghe thì sẽ chủ động lựa
chọn nội dung nói, cách nói phù hợp làm cho người nghe thấy dễ hiểu hơn. Hiểu
biết về đối tượng giao tiếp gồm nhiều mặt: tâm lí lứa tuổi, giới tính, sở thích,
nghề nghiệp, vị trí xã hội. Sự hiểu biết về đối tượng giao tiếp càng kĩ lưỡng bao
nhiêu thì hiệu quả giao tiếp cũng theo đó mà tăng lên bấy nhiêu. Thực tế chứng
minh rằng các đối tượng giao tiếp khác nhau sẽ quan tâm đến nội dung giao tiếp
khác nhau theo những yêu cầu và mức độ khác nhau và họ cũng đòi hỏi cách
thức diễn đạt khác nhau.
c. Lí thuyết ngôn ngữ học văn bản.
Để hiểu rõ hơn vì sao ngôn ngữ học văn bản lại được coi là một tiền đề lí
thuyết quan trọng của việc dạy học tiếng Việt, chứng ta hãy xem xét quá trình
giao tiếp bằng văn bản diễn ra như thế nào. Chúng ta có thể hình dung sơ đồ của
viêc giao tiếp sẽ diễn ra như sau:
N ôi dung
tìiôr g báo A
Mã hoá
Văn bản
Giải mã
Xây dựng
P h â n tín h
văn bản
Nguyễn Thị Vân - K. 'SA Văn
Ngưòi phát__
văn bản
Người nhận
Nội dung
thông báo A’
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Người phát, khi đã chuẩn bị được nội dung sẽ tìm cách truyền nội dung đó
tới cho người nhận. Nội dung ở đây được hiểu là sự phản ánh một thực tế nào đó
về thế giới được người phát nhận thức. Vì vậy nội dung vừa mang tính khách
quan (phản ánh thực tế), vừa mang tính chủ quan (nhận thức của cá nhân). Vì nội
dung thông báo là sự phản ánh hiện thực vào ý thức của người phát cho nên nó
thuộc hệ thống tinh thần, tồn tại một cách trừu tượng và gắn liền với cơ quan đã
sản sinh ra nó là bộ não.
Đe thực hiện giao tiếp, người phát phải tìm cách truyền đi nội dung trừu
tượng ấy đến người nhận. Làm được việc đó, người phát buộc phải chuyển nội
dung thông báo thảnh một hệ thống thể chất cụ thể. Chỉ thông qua hệ thống tín
hiệu có tính thể chất, người nhận mới nắm được nội dung người phát thông báo.
Hệ thống đó chính là ngôn ngữ.
Quá trình chuyển nội dung thông báo thuộc hệ thống tinh thần sang hệ
thống ngôn ngữ có tính vật chất được gọi là quá trình mã hoá nội dung. Để có
thể giao tiếp được, nội dung thông báo trừu tượng phải được chuyển thành hệ
thống các tín hiệu ngôn ngữ. Sự mã hoá này không thể tiến hành bằng một từ
hoặc một câu mà thường bằng một văn bản. Vì vậy muốn thực hiện giao tiếp, nội
dung thông báo cần được mã hoá thành văn bản. Quá trình này được gọi là quá
trình xây dựng văn bản.
v ề phía người nhận, quá trình giao tiếp lại bắt đầu từ việc tiếp nhận văn
bản đã được mã hoá. Khi tiếp xúc với văn bản dưới dạng một chuỗi kí hiệu,
người nhận phải tìm cách luận giải chúng. Đó là sự luận giải về âm thanh, ngữ
nghĩa, ngữ pháp... Mục đích cuối cùng của sự luận giải này là khôi phục lại
chính xác nội dung thông báo mà người phát đã truyền đi. Đây là quá trình giải
mã văn bản. Quá trình này được gọi là quá trình phân tích văn bản.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy quá trình giao tiếp xác lập khi có người phát tin truyền đi một
nội dung thông báo nhất định đến người nhận tin nhằm một mục đích nào đó. Ở
đây người phát tin và người nhận tin đều có quan hệ chặt chẽ với văn bản. Hiệu
quả của việc giao tiếp - người phát có trình bày đúng, đầy đủ ý định của mình
hay không, có đạt được mục đích đề ra hay không... và người nhận có hiểu
chính xác, hiểu mọi khía cạnh của nội dung thông báo hay không gắn liền với
việc xây dựng và luận giải văn bản.
Ngôn ngữ học văn bản nghiên cứu rất nhiều vấn đề về văn bản từ nội
dung - ngữ nghĩa đến hình thức - kết cấu. Văn bản được xem dưới hai góc độ:
tĩnh và động. Ở dạng tĩnh, các nhà nghiên cứu đã tìm ra những mô hình, sơ đồ,
công thức ... của văn bản. Ở dạng động, văn bản lại được xem xét ở các mặt, từ
hành vi lập ý xét về mặt nội dung, hành vi xây dựng kết cấu xét về mặt cấu tạo,
đến hành vi tác động xét về mặt dụng học. Rõ ràng với một nội dung nghiên cứu
như vậy, ngôn ngữ học văn bản đã góp phần đắc lực cho việc đề xuất những nội
dung lí thuyết và đặt ra những kĩ năng càn rèn luyện cho học sinh trong môn
tiếng Việt trong nhà trường.
1.1.2. Nguyên tắc giao tiếp và dạy học tiếng Việt theo hướng giao tiếp.
1.1.2.1 Khái niệm nguyên tẳc giao tiếp.
Nguyên tắc giao tiếp là hệ thống những quan điểm chỉ đạo, định hướng
thái độ, hành vi ứng xử đồng thời chỉ đạo việc lựa chọn các phương pháp,
phương tiện giao tiếp của cá nhân. Nguyên tắc giao tiếp mạng tính bền vững và
tương đối ổn định. Nguyên tắc giao tiếp được hình thành từ thói quen và từ vốn
sống kinh nghiệm cá nhân và được rèn luyện trong thực tế.
1.1.2.2. Dạy học tiếng Việt theo hướng giao tiếp.
Giao tiếp là hoạt động thường ngày không thể thiếu được trong sinh hoạt
hàng ngày của con người. Thông qua giao tiếp, con người mới hiểu và thông
cảm nhau, cùng nhau thống nhất hành động và ý chí. Vả lại, chỉ có trong giao
tiếp thì các yếu tố hệ thống ngôn ngữ mới bộc lộ được hết đặc điểm của mình.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Nói một cách khác, chỉ có quan sát ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp, chỉ có
trực tiếp sử dụng ngôn ngữ vào giao tiếp, các em học sinh mới có dịp quan
sát, phát hiện và chiếm lĩnh được các tri thức và hình thảnh kĩ năng sử dụng
tiếng Việt.
Trong quá trình tổ chức dạy học tiếng Việt theo nguyên tắc giao tiếp, cần
phải thực hiện một số yêu càu sau:
- Đặt các đơn vị của hệ thống tiếng Việt vào hệ thống hành chức của nó. Từ là
đơn vị có sẵn, mỗi từ có thể có nhiều nghĩa và nghĩa của nó rất trừu tượng khái
quát. Từ được sử dụng trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định sẽ mất đi tính đa
nghĩa trong đại đa số các trường hợp nhưng bù vào đó, các sắc thái phong cách,
sắc thái tình cảm lại được thể hiện cụ thể hơn. Các đơn vị ngữ chính phụ, câu
cũng có đặc điểm tương tự như vậy. Bởi vậy, không thể học dạy từ, câu và các
đơn vị khác một cách biệt lập mà phải quan sát chúng trong các đơn vị lớn hơn,
trong lời nói sinh động của giao tiếp.
- Tổ chức cho học sinh sử dụng các ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp. Hoạt
động giao tiếp vừa là mục đích vừa là phương tiện của quá trình dạy học tiếng
Việt. Học tiếng Việt, học sinh không phải chỉ nghiên cứu, phát hiện ra các đặc
điểm của nó mà chủ yếu là phải biết sử dụng nó với tư cách là một phương tiện
giao tiếp và tư duy. Như vậy, giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh được
hoạt động nói năng trong giờ tiếng Việt. Muốn đạt được yêu cầu này, cần phải
tạo ra bằng được các tình huống giao tiếp phù hợp để kích thích học sinh, tạo
động cơ về giao tiếp cho học sinh.
- Cần lựa chọn, sắp xếp tri thức sao cho phù hợp với hoạt động giao tiếp. Các
nhả ngôn ngữ thường lần lượt trình bày các thành tựu nghiên cứu của mình dựa
trên cơ cấu hệ thống của ngôn ngữ. Giáo viên cần phải có cách trình bày hệ
thống tri thức sao cho vừa phù hợp với hệ thống ngôn ngữ lại vừa phù hợp với
mục đích rèn luyện kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ cho học sinh.
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
1.1.3. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt dưới sự nghiên cứu của các nhà ngôn
ngữ học.
1.1.3.1 Khải niệm phong cách.
Khái niệm phong cách được dùng khá phổ biến và được hiểu là những biểu
hiện của hành vi hay hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần thành một thói
quen, có khả năng phân biệt với những hành vi, hoạt động khác ở cá nhân này
hay cá nhân khác. [11,145]
1.1.3.2. Khải niệm phong cách ngôn ngữ.
Khái niệm phong cách ngôn ngữ chỉ những dấu hiệu hành vi và hoạt động
ngôn ngữ thể hiện ở cách lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ có màu
sắc riêng (biến thể ngôn ngữ) được lặp đi lặp lại ở một cá nhân, môi trường giao
tiếp và một cộng đồng ngôn ngữ, có khả năng phân biệt ngôn ngữ của cá nhân
này với ngôn ngữ của cá nhân khác, môi trường này với môi trường khác và
ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác. [11, 145]
1.1.3.3. Khái niệm “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt”.
Ngôn ngữ được coi là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Cũng vì vậy khi phân chia các phong cách chức năng ngôn ngữ, các nhà khoa
học đã không quên chức năng này. Bởi thế mà phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
là phong cách luôn được các nhà nghiên cứu đề cập tới. Có thể nói phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ biến
nhất.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày
là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp phát ngôn (văn bản) trong đó thể hiện
vai trò của người tham gia giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày. Nói cụ thể hơn,
đó là vai trò của người ông, người bà, bố, mẹ, con, anh chị em, đồng nghiệp, bạn
bè...và tất cả những ai với tư cách cá nhân cỏ nhu cầu trao đổi tư tưởng, tình
cảm của mình với người khác”. [7, 122]
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày được chia ra làm hai kiểu nhỏ là
là phong cách sinh hoạt hàng ngày tự nhiên và phong cách sinh hoạt văn hóa.
Khác ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày tự nhiên (tự nhiên, thoải mái) ngôn ngữ sinh
hoạt hàng ngày văn hóa, được trình bày do yêu cầu xã hội có trình độ văn hóa
cao, được dùng trong hoàn cảnh nghi thức, trong tình thế “vai bằng nhau” và
“vai không bằng nhau” của người tham gia giao tiếp. Đối với kiểu ngôn ngữ sinh
hoạt hàng ngày văn hóa, người giao tiếp phải tuân theo những quy tắc xã hội. Vì
vậy, ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày chủ yếu được dùng trong kiểu ngôn ngữ viết
và nói nghệ thuật).
Ngôn ngữ được sử dụng trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt tồn tại cả hai
dạng nói và viết trong đó dạng nói là chủ yếu. Tồn tại dưới dạng nói là những
lời trò chuyện, tâm sự, thăm hỏi, đánh giá... tồn tại dưới dạng viết là những dòng
thư, tin nhắn, những dòng lưu niệm, nhật kí...
Giống như phong cách chức năng ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt mang những chức năng riêng như: chức năng giao tiếp lí trí (cụ thể là trao
đổi thông tin, tình cảm), chức năng cảm xúc và chức năng tạo tiếp (biểu hiện
chú ý của người nói đến sự hiện diện của người thứ hai). Khi xã hội ngày càng
phát triển, con người ngày càng có nhiều nhu cầu trao đổi với nhau về những
vấn đề phức tạp, trừu tượng của xã hội, của cuộc sống thì ngôn ngữ sinh hoạt
hàng ngày càng phát huy được sức mạnh của mình.
1.1.3.4. Các đặc trưng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
Muốn thực hiện được chức năng trao đổi - cảm xúc - giao tiếp trong cuộc
sống hàng ngày, phong cách ngôn sinh hoạt hàng ngày phải có được những đặc
trưng riêng của nó. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày với đặc điểm thiên
về những chi tiết riêng, cụ thể, sinh động luôn hướng về việc bộc lộ rõ rệt những
tư tưởng tình cảm, thái độ của con người trong xã hội, trong cuộc sống hàng
ngày. Vì vậy, những lời nói chung chung, trừu tượng, khô khan không thể coi
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
là những lời nói hay trong phong cách sinh hoạt. Vậy phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt có những đặc trưng nào?
a. Tính cụ thể.
Đây là đặc trưng nổi bật nhất của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Phong
cách sinh hoạt không dùng những lời nói chung chung trừu tượng mà ưa dùng
những lời nói sinh động, cụ thể. Đó là lời nói giàu âm thanh, giàu màu sắc mang
dấu ấn rõ rệt của những tình huống giao tiếp hàng ngày để gây ấn tượng. Nói
cách khác đặc điểm nổi bật trong sử dụng từ ngữ của phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt là ưa dùng những từ ngữ mang tính cụ thể, giàu hình ảnh và màu sắc cảm
xúc. Nhờ có tính cụ thể mà giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày trở nên dễ dàng,
nhanh chóng ngay trong trường hợp đề cập đến những vấn đề trừu tượng, những
vấn đề tế nhị, khó nói...
Có thể nói, không phong cách ngôn ngữ nào mà số lượng các biệt ngữ xã hội,
những cách diễn đạt theo lối “thời thượng” lại xuất hiện và thay thế nhau nhanh
chóng như ở phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Ví dụ: Trong những năm gần đây
xuất hiện những lối nói có vẻ ngược đời kiểu như: hơi bị đẹp, đẹp kinh khủng,
đẹp dã man...
Như vậy, tính cụ thể của ngôn ngữ sinh hoạt là cơ sở tạo ra sự chính xác
về hoàn cảnh, về nhân vật giao tiếp, lời nói, từ ngữ, cách diễn đạt.
b. Tính cảm xúc.
Bên cạnh tính cụ thể trong ngôn ngữ, ngôn ngữ trong sinh hoạt giao tiếp
hàng ngày còn có tính cảm xúc. Có thể nói tính cảm xúc gắn chặt với tính cụ
thể. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt trong đời sống được sử dụng vô cùng cụ thể,
sinh động truyền đạt những tư tưởng, tình cảm hết sức phong phú đa dạng của
con người gắn với những tình huống giao tiếp cụ thể, muôn hình, muôn vẻ. Đó là
tình cảm, thái độ của người nói, người viết đối với đối tượng được đề cập, với
người nghe người đọc. Chính thái độ và cảm xúc làm thành nội dung biểu hiện,
bổ sung của người nói giúp người nghe có thể hiểu nhanh chóng, hiểu sâu sắc
Nguyễn Thị Vân - K33A Văn
- Xem thêm -