Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp chân dung con người văn hóa nguyễn văn siêu qua sáng tác th...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp chân dung con người văn hóa nguyễn văn siêu qua sáng tác thơ ca của ông

.PDF
59
207
74

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s u PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGŨ VĂN ===%p|ũ3 c&=== NGUYỄN VĂN ĐỨC CHÂN DUNG CON NGƯỜI VĂN HÓA NGUYỄN VĂN SIÊU QUA SÁNG TÁC THƠ CA CỦA ÔNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THI TÍNH HÀ NỘI - 2015 LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Tính. Cô đã trục tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu cũng như luôn động viên khuyến khích tôi thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành khoá luận. Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 2015 Sinh viên Nguyễn Văn Đức LỜI CAM ĐOAN Ket quả nghiên CÚ11 này là của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tính. Khóa luận không trùng với kết quả nghiên cún của những tác giả khác. Tôi xin cam đoan rằng: Khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Mọi tư liệu trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Neu sai, tôi xin hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm. Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 2015 Sinh viên Nguyễn Văn Đức MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đ ề ....................................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cún......................................................................5 3.1. Mục đích nghiên cứu...................................................................................... 5 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứ u..........................................................................6 4.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................6 4.2. Phạm vi nghiên CÚ11 ..........................................................................................6 5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................6 6. Đóng góp của khóa luận......................................................................................6 6.1. v ề lý luận......................................................................................................... 6 6.2. về thực tiễn...................................................................................................... 6 7. Bố cục của khóa luận.......................................................................................... 7 NỘI DUNG............................................................................................................. 8 Chưong 1: Những vấn đề chung..........................................................................8 1.1. Tác giả Nguyễn Văn Siêu................................................................................ 8 1.1.1. Cuộc đờ i........................................................................................................ 8 1.1.2. Sự nghiệp trước tá c ................................................................................... 15 1.1.3. Quan điểm sáng tác................................................................................... 17 1.2.Tác phẩm Phương Đình Thi tập.................................................................... 18 1.2.1. Phương Đình Vạn lý tập............................................................................ 18 1.2.2. Phương Đình Anh ngôn thi tập ................................................................. 19 1.2.3. Phương Đình Lưu lãm tập......................................................................... 19 1.2.4. Phương Đình Mạn hứng tập...................................................................... 20 Chương 2: Nguyễn Văn Siêu - Nhà văn hóa lớn thế kỷ X IX ....................... 21 2.1. Nguyễn Văn Siêu - người có vốn hiểu biết uyên bác ...................................21 2.1.1. Nguyễn Văn Siêu - nhà địa lý học.............................................................. 21 2.1.2. Nguyễn Văn Siêu - nhà sử học.................................................................... 25 2.1.3. Nguyễn Văn Siêu - nhà xã hội học.............................................................30 2.2. Nguyễn Văn Siêu - người khởi xướng phong trào chấn hưng văn hóa Thăng Long......................................................................................................................36 2.2.1. Nguyễn Văn Siêu và sự nghiệp chấn hưng văn hóa giáo dục của Thăng Long......................................................................................................................36 2.2.2. Nguyễn Văn siêu và khu quần thể di tích đền Ngọc Sơn, Tháp Bút, Đài Nghiên.................................................................................................................. 40 2.3. Nguyễn Văn Siêu - nhà văn hóa có tâm với nhân dân, với đất nước........ 45 KẾT LUẬN.........................................................................................................51 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhắc đến Nguyễn Văn Siêu, người ta lại nhớ đến hai câu thơ tương truyền là của vua Tự Đức: Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán Thi đảo Tùng Tuy thất Thịnh Đường (Văn được như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát thì không còn lưu danh văn thời Tiền Hán/ Thơ mà đến như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương thì thơ thời Thịnh Đường cũng mất tiếng). Dầu biết đây là lối nói “thậm xưng" của người đời un ái dành cho bốn nhà thơ tài danh trên nhưng qua đó ta cũng thấy được tầm vóc nhất định của họ trong lịch sử văn học dân tộc thế kỷ XIX. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu không chỉ là “Thần Siêu” văn học, mà còn là một thầy giáo, một nhà văn hóa có nhiều công lao thiết thực đối với Thăng Long - Hà Nội. Công đức của Nguyễn Văn Siêu đối với các công trình văn hóa - lịch sử của Thăng Long còn được nhân dân ghi nhớ: "Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hổ Xem cầu Thê Hủc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai xây dựng nên non nước này..." Ông là người có trách nhiệm với dân với nước, là người thầy uyên bác đức độ, là nhà văn hóa luôn luôn giữ gìn truyền thống và là tác gia với sự nghiệp trước tác khá đồ sộ. Cuộc đời phong phú, phức tạp, chứa đựng đầy những biến cố, thăng trầm thăng chức rồi lại bị giáng chức của ông đã làm tốn không ít giấy mực của các sử gia, các nhà nghiên cứu, các chính khách và rất nhiều người ở các lĩnh vực khác nhau. Nghiên cún về chân dung con người văn hóa Nguyễn Văn Siêu qua sáng tác thơ ca của ông sẽ góp phần giúp giải 1 mã được những bí ẩn trong cuộc đời và tâm hồn của nhân vật lịch sử đặc biệt này. Là một sinh viên khoa Ngữ Văn và là một giáo viên dạy Văn trong tương lai thì việc hiểu biết sâu rộng về văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng là vô cùng cân thiết, đây sẽ là cơ sở để bổ trợ cho công việc học tập và giảng dạy sau này. 2. Lịch sử vấn đề Nói về Phương Đình Nguyễn Văn Siêu - một người tài năng, trí tuệ được người đời đương thời tôn vinh như thần. Đương thời đều tôn trọng ông. Tới tuổi già rút lui, ông thích bảo ban kẻ hậu học mà giảng giải ngay thẳng chỗ giống chỗ khác, lấy nghĩa lí làm chủ. Đó là những nét lớn về hành trạng, phẩm giá cũng như tài năng của “Thần Siêu”. Nguyễn Văn Siêu là một nhà Nho tiêu biểu của thế kỉ XIX. Lâu nay việc nghiên cứu, dịch thuật, giới thiệu công bố những tác phẩm của Nguyễn Văn Siêu được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên với khối lượng tác phẩm văn thơ đồ sộ của ông thì số tác phẩm đã dịch, giới thiệu còn khá ít ỏi, tản mát. Việc dịch và công bố các tác phấm của Nguyễn Văn Siêu dường như mới chỉ tập trung vào mảng văn mà chưa khai thác hết những tinh túy trong thơ ông. Đây là sự thiếu hụt trong quá trình tìm hiểu về một trí thức lớn, uyên bác, một nhà giáo gương mẫu, một nhà khảo cứu nghiêm túc, một nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, đáng trân trọng của đất Kinh Kỳ. Ớ Việt Nam, PGS. Trần Lê Sáng - người có nhiều năm nghiên cún về danh nhân Nguyễn Văn Siêu, trong công trình nghiên cún Danh nhân Nguyễn Văn Siêu - Cuộc đời và văn nghiệp, Nxb Hà Nội, đã khẳng định Nguyễn Văn Siêu là “một con người xuất chúng, một đại nhân đã để lại cho đất nước, trong muôn đời một đại bút. Con người đó lúc còn trẻ đi học, học giỏi đến mức thần đồng (...). Ông là nhà Nho, hành xử theo Đạo, song cũng tự’ tin và ngang 2 tàng, dám khen cái người khác không dám khen, dám chê cái người khác không dám chê. Ông đích thực là một nhà văn lớn, một nhà thơ lớn của nước ta. Với ông, viết chỉ vì trách nhiệm, vì húng thú, không vì danh. Ông là một bậc Danh Nho - nghệ sĩ. Ông sống là người nhân đức. Ông mất là Thành Hoàng làng”. Điều này được tác giả Lê Sáng dẫn từ một đoạn trong bài văn Bia Thần đạo ở lăng Tiên sinh Phương Đình của Đại học sĩ Nguyễn Trọng Hợp viết cách ngày nay 105 năm về Phương Đình Nguyễn Văn Siêu: “Thiết nghĩ, Tiên sinh là người mà tôi ngưỡng vọng, công đức của Tiên sinh phải được truyền mãi cho đời sau; nhưng chúng tôi là người ngu tối, không thế biết hết công đức ấy, dù chỉ trong muôn một.. [ 4 4 ; tr.67- 68]. Trong bài viết Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) - Một tài năng kiệt xuất, một con người xuất chúng đăng vào ngày 20 tháng 8 năm 2014 trên trang thông tin điện tử Nhà xuất bản chính trị quốc gia - sự thật, Phạm Khanh viết: “Một cuộc đời dài cống hiến không mệt mỏi, Nguyễn Văn Siêu - một trong nhũng trí thức Nho học uyên bác, đạo đức trong sáng, một nhà giáo có tâm, một nhà kiến trúc tinh tế, một thi sĩ có tâm hồn đồng cảm với người dân nghèo lam lũ xứng đáng nhận được sự tôn vinh, nể trọng của người đương thời và hậu thế. Ghi nhận công lao của ông, Đảng và Nhà nước đã lấy tên Nguyễn Văn Siêu (hay Nguyễn Siêu) để đặt tên cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Huế, Đà Nằng, Quy Nhơn... và nhiều trường học ở các tỉnh, thành phố trong cả nước” [34; tr. 1- 2]. Từ đó tác giá đánh giá Nguyễn Văn Siêu là một vị quan chính trục và thiên lương; một nhà văn hóa có tâm, có tầm; một nhà kiến trúc tài năng. Mai Thục trong bài Thần Siêu Thảnh Quát đăng tải trên trang web: newvietart.com ở hải ngoại cũng viết: “Lượng sức mình. Biết lòng mình yêu văn hóa, trí tuệ, muốn dùng tri thức soi sáng muôn dân, xây nền hòa bình, bác ái lòng dân tộc, Nguyễn Văn Siêu đứng ra sử sang ngôi đền Ngọc Sơn, bắc lại 3 nhịp cầu Thê Húc, đắp núi Độc Tôn và xây trên đó ngọn Tháp Bút năm tầng. Ngòi bút nhọn vươn thẳng lên trời cao, thênh thang chamh tới mặt trời, trăng sao, vũ trụ, với ba chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên trời xanh). Ba chữ đó như sự thách đố cung đình. Nó khẳng định học vấn và trí tuệ sẽ dẫn con người vươn tới hạnh phúc, áo cơm, độc lập, tự cường, dân chủ, văn minh...” [53; tr.405 - 406]. Như vậy chúng ta có thể thấy tất cả những công trình trên mới chỉ chủ yếu đánh giá Nguyễn Văn Siêu từ chức vị đến cống hiến của ông. Ông là một vị quan thanh liêm, chính trục, có nhiều công lao đóng góp cho sự phát triến của đất nước. Còn qua thơ của ông, TS. Nguyễn Thị Thanh Chung - Trường ĐHSP Hà Nội, Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc là những người có rất nhiều công trình nghiên cứu không chỉ về cuộc đời, con người mà còn nghiên cứu cả về tác phẩm thơ văn Nguyễn Văn Siêu. Tuy nhiên, ở TS. Nguyễn Thị Thanh Chung thì chân dung nhà văn hóa Nguyễn Văn Siêu được làm sáng tỏ chủ yếu qua tập thơ Vạn lí tập nhờ việc nghiên cứu, phân tích tú' thơ, hình ảnh biểu tượng. Còn ở các tập thơ khác: Anh ngôn thi tập, Mạn hứng tập, Lưu lãm tập, ... thì chủ yếu tập trung nghiên CÚ01, khai thác trên phương diện: nội dung, nghệ thuật, bút pháp, thể loại. Và cô đã rất thành công trong việc nghiên cún, khảo sát các thể loại thơ văn trong tập thơ Phương Đình Thỉ tập đồ sộ của Nguyễn Văn Siêu. Còn đối với Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc: Theo Danh nhân Hà Nội, Vũ Khiêu (Cb), Nxb Hà Nội, 2004, tr.591- 600, Tạp chí Văn học cũng đã nghiên cứu và bước đầu làm rõ chân dung con người văn học Nguyễn Văn Siêu qua hai tập thơ: Anh ngôn thỉ tập, Mạn hứng tập. Thông qua hai tác phẩm này tác giả Nguyễn Vinh Phúc cũng đã tìm hiểu, đúc kết cho ta thấy nhũng việc làm văn hóa mà Nguyễn Văn Siêu đã làm khi cáo quan về quê mở trường dạy học. Từ đó ông đã có đánh giá về nhân vật lịch sử này như sau: 4 “Nguyễn Văn Siêu xứng đáng có một chỗ đứng nhất định trong nền văn học và văn hoá Việt Nam thế kỷ XIX” [41; tr. 600]. Qua những bài viết về Nguyễn Văn Siêu đã giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về con người cũng như thơ ca của ông. Ke thừa những thành quả, thông tin trong việc nghiên cún con người và thơ văn Nguyễn Văn Siêu dưới nhiều góc độ của các bậc tiền bối tôi tiếp tục phát triến chủ để thông qua việc đi sâu tìm hiểu, khám phá chân dung con người văn hóa Nguyễn Văn Siêu qua sáng tác thơ ca của ông. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Chuẩn bị các tư liệu cần thiết cho việc học tập và nghiên cún, giảng dạy thơ văn Nguyễn Văn Siêu cũng như bộ môn Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XIX. - Góp thêm tiếng nói khẳng định tài năng văn chương, những công lao mà nhà văn hóa Nguyễn Văn Siêu đã để lại cho dân tộc Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đe đạt được mục đích nghiên CÚ01 đề tài này cần thực hiện những nhiệm vụ như sau: - Tập họp các tài liệu liên quan đến Nguyễn Văn Siêu - Tìm hiểu chân dung con người văn hóa Nguyễn Văn Siêuqua bốn tập thơ: Vạn lí tập, Anh ngôn thi tập, Lim lãm tập, Mạn hứng tập. - Nhận xét, đánh giá về con người Nguyễn Văn Siêu thông qua các hành trạng, phẩm chất cũng như tài năng của ông. - Phân tích ý thơ, tứ thơ của một bài thơ tiêu biểu nằm trong Vạnlí tập, Anh ngôn tập, Lưu lãm tập, Mạn hứng tập. 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cún 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cún của đề tài là chân dung con người văn hóa Nguyễn Văn Siêu qua sáng tác thơ ca của ông. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cún chủ yếu qua bốn tập thơ nằm trong bộ Phương Đình Thi tập: - Phương Đình Vạn lí tập (Trần Lê Sáng biên dịch) - Phương Đình Anh ngôn thi tập (Phạm Vân Dung biên dịch) - Phương Đình Lưu lãm tập (Lê Như Duy - Phạm Kỳ Nam biên dịch) - Phương Đình Mạn hứng tập (Phạm Đức Duật biên dịch) 5. Phương pháp nghiên cửu Đẻ thực hiện nghiên cứu, căn cứ vào nội dung, yêu cầu của đề tài chúng tôi đã sử dụng lí thuyết thi pháp học và các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp thống kê miêu tả - Phương pháp so sánh văn học 6. Đóng góp ciía khóa luận 6.7. về lý luận Khóa luận là minh chứng cho thấy những công lao, những đóng góp văn hóa vô cùng to lớn mà nhà văn hóa Nguyễn Văn Siêu đã để lại cho dân tộc việt Nam. 6.2. về thực tiễn - Khóa luận hướng tới giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về con người Nguyễn Văn Siêu - một tác gia văn học lớn thế kỷ XIX và hiểu rõ hơn về khu quần thể di tích đền Ngọc Sơn: Tháp Bút - Đài Nghiên - cầu Thê Húc. 6 - Góp phần cho việc giảng dạy, học tập Nguyễn Văn Siêu ở các trường Cao đẳng, Đại học. 7. Bố cục của khóa ỉuận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm hai chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Nguyễn Văn Siêu - Nhà văn hóa lớn của thế kỷ XIX 1 NỘI DUNG Chương 1: Những vấn đề chung 1.1. Tác giả Nguyễn Văn Siêu /. 1.1. Cuộc đời Nguyễn Văn Siêu tên khác là Định, tự Tốn Ban, thụy Chí Đạo, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ. Ông là tác gia lớn trong thế kỉ XIX với những trước tác về lịch sử , địa lí, lịch sử, tư tưởng, thơ văn... ỉ. ỉ. ỉ. ỉ. Năm sinh và năm mất Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Chung - Trường ĐHSP Hà Nội trong bài viết Tìm hiểu về cuộc đời Nguyễn Văn Siêu đăng trên Tạp chỉ bảo văn hóa Nghệ An thì năm sinh của Nguyễn Văn Siêu được ghi chép chưa thống nhất. Lược truyện các tác gia Việt Nam, Thơ đi sử ghi năm 1795 (Àt Mão, năm Cảnh Thịnh thứ 3 Tây Sơn). Quốc triều khoa bảng lục, Các nhà khoa bảng Việt Nam, Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam... ghi năm 1796 (Bính Thìn, năm Cảnh Thịnh thứ 4 triều Tây Sơn). Phương Đình Chỉ Đạo tiên sinh thần đạo bi, Cụ Phưong Đình Nguyễn Văn Siêu, Nét bút thần của Nguyễn Văn Siêu thỉ ca và lịch sử ghi năm 1799 (Kỉ Tị, năm Cảnh Thịnh thứ 7 triều Tây Sơn). Năm sinh của Nguyễn Văn Siêu được ghi chép sớm nhất trong các tư liệu chữ Hán nhưng Quốc triều khoa bảng lục ghi năm 1796 còn Phương Đình Chỉ Đạo tiên sinh thần đạo bỉ ghi năm 1799. Theo tôi, năm sinh và mất của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu được xác định trong bia thần đạo vì: - Thời gian xuất hiện của tư liệu: Cả hai tư liệu này đều chính thức ra đời năm Giáp Ngọ đời Thành Thái (1894) song Phương Đình Chỉ Đạo tiên sinh thần đạo bỉ được công bố sớm hơn Quốc triều khoa bảng lục. Thời gian khắc của bia là Thành Thái Giáp Ngọ chính nguyệt- tháng Giêng năm Giáp Ngọ đời Thành Thái. Thời gian khắc in của Quốc triều khoa bảng lục là Thành Thái Giáp Ngọ hạ- Mùa hạ năm Giáp Ngọ đời Thành Thái. - Tác giả của tư liệu: Nguyễn Trọng Họp (1834 - 1902) soạn Phương Đình Chí Đạo tiên sinh thần đạo bi, Cao Xuân Dục (1842 - 1923) soạn Quốc triều khoa bảng lục. Nguyễn Trọng Hợp và Cao Xuân Dục đều là những nhà Hán học nổi tiếng đương thời. Nguyễn Trọng Họp từng làm Văn minh đại học sĩ, Cơ mật viện đại thần... Cao Xuân Dục cũng giữ chức Thượng thư Bộ Học. Tuy nhiên, người soạn văn bia có mối quan hệ gần hơn với Nguyễn Văn Siêu. Nguyễn Trọng Hợp và Nguyễn Văn Siêu đều thuộc họ Nguyễn tại Kim Lũ, một người ngành trưởng, một người ngành thứ. Điều này được khẳng định trong văn bia và các tư liệu khác như Thanh Trì Nguyễn thị phả đồ... - Nội dung viết về Nguyễn Văn Siêu trong tùng tư liệu: Quốc triều khoa bảng ỉục khắc in ngắn gọn về từng nhân vật đỗ Đại khoa triều Nguyễn đến năm 1898, trong đó ghi: “Nguyễn Văn Siêu, Hà Nội, Thọ Xương, Dũng Thọ, Bính Thìn, tứ thập tam. Ất Dậu Cử nhân, Hưng Yên Án sát, giáng Thị độc công tịch. Cư Hàn các, dĩ văn học danh cập môn đa sở thành lập, hũu Phương Đình thi văn tập hành thế”. (Nguyễn Văn Siêu người Dũng Thọ, Thọ Xương, Hà Nội, sinh năm Bính Thìn 1796, bốn mươi ba tuổi. Năm Ất Dậu 1825 đậu Cử nhân, làm Án sát Hưng Yên, giáng Thị độc công tịch, tại Viện Hàn lâm nổi danh văn chương và nhiều lĩnh vực khác, có Phương Đình thi văn tập). Phương Đình Chí Đạo tiên sinh thần đạo bi đặt tại lăng mộ cho biết chi tiết hơn về cá tính, gia tộc, hành trạng và thời gian sinh của Nguyễn Văn Siêu. Như vậy, với những lí do trên chúng ta có thể kết luận thời gian sinh và mất của Nguyễn Văn Siêu trong Phương Đình Chí Đạo tiên sinh thần đạo bi là chính xác: Nguyễn Văn Siêu sinh năm 1796, mất năm 1872. 9 1.1.1.2. Quê hương và gia tộc Nguyễn Văn Siêu sinh ra ở một làng khoa bảng. Làng Lủ xưa gồm ba xóm lớn Lủ Cầu, Lủ Trung, Lủ Văn, sau phát triển thành ba làng Kim Giang, Kim Lũ, Kim Văn. Đen cuối thời Lê, Kim Lũ thành một xã thuộc tống Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Dù không nổi tiếng bằng Mộ Trạch, Hoa Đường, Hành Thiện... nhung Kim Lũ cũng là một làng quê giàu truyền thống. Theo cuốn Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội, Kim Lũ tiêu biểu về khoa cử trong 14 làng khoa bảng của Hà Nội với năm vị đỗ đại khoa gồm Tiến sĩ Hồng Hạo (1710), Tiến sĩ Nguyễn Công Thái (1715), Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1838), Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp (1865), Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Cốc (1910). Dòng họ của Nguyễn Văn Siêu cũng có nhiều người đỗ đạt. Họ Nguyễn làng Lủ Trung chia thành hai ngành. Ngành trưởng (Đại tông), đến đời thứ sáu có Nguyễn Văn Siêu đỗ Phó bảng. Theo Thanh Trì Nguyễn thị phả đồ có ghi: Thôn Trung, xã Kim Lũ, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, Hà Nội. Thủy tổ họ Nguyễn của Nguyễn Văn Siêu là ông Phúc Tâm. Ồng Phúc Tâm lại sinh ra được hai ngành. Ngành trưởng là ông Phúc Canh. Từ Phúc Canh trải năm đời thì sinh ông Hoang Nghị, một người học rộng, hiếu cổ, lấy đạo Nho khởi nghiệp nhà. Ông Hoang Nghị sinh được năm người con, con trưởng là Phương Đình, đỗ Phó bảng, từng làm quan ở Nội các, phụng mệnh đi sứ Yên Kinh, làm Án sát sứ, sau thăng Thị độc tại Hàn lâm viện, rồi trí sĩ. Văn chương của Phương Đình bề thế được người đời ngưỡng mộ. Còn ngành thứ (Tiểu tông) đến đời thứ tư có Nguyễn Công Thái đỗ Tiến sĩ, sau là Nguyễn Trọng Hợp và Nguyễn Sĩ Cốc. Theo Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội, họ Nguyễn làng Lủ thuộc 11 dòng họ khoa bảng ở Hà Nội cùng họ Phạm (Đông Ngạc), họ Nguyễn (Vân Điềm), họ Nguyễn (Nguyệt Áng)... 10 Theo Thanh Trì Nguyễn thị phả đồ, Nguyễn Văn Siêu thuộc ngành trưởng họ Nguyễn làng Lủ. Ngành trưởng, trước Nguyễn Văn Siêu trải sáu đời không có người đỗ đạt nhưng cha ông học rộng, hiếu cổ, chuộng đạo Nho. Là con trưởng, Nguyễn Văn Siêu đã được cha giáo dục bằng sự hiểu biết sâu rộng về tư tưởng Nho gia ngay từ khi còn nhỏ. Bia thần đạo cho biết Hoang Nghị công thường lấy điều tiết tháo khích lệ Nguyễn Văn Siêu. Mặt khác, Nguyễn Văn Siêu sinh tại làng Lủ nhung lại theo gia đình chuyển đến thôn Cổ Lương, giáp Giang Nguyên, phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương, Hà Nội. Với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và là một trung tâm quy tụ nhân tài, nơi đây đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn nhạy cảm và giàu khát vọng cho Phương Đình. Quê hương, dòng họ, gia đình đã hội tụ đủ điều kiện cho sự phát triến tài năng và nhân cách của Nguyễn Văn Siêu. v ề gia đình riêng của Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình binh nhật trị mệnh đã ghi rõ ông không lấy chính thất mà có hai thứ thất. Bà họ Hoàng sinh được hai gái (Thị Giản và Thị Ý), một trai (Tập Hinh). Bà họ Bùi cũng sinh được hai gái (Thị Sử, Thị Đoan), một trai (Văn Dĩnh). Ngoài ra, Nguyễn Văn Siêu còn có một thiếp do bà họ Bùi mua về, bà này sinh được một trai (Văn Xiển). Nguyễn Văn Siêu trân trọng tình cảm gia đình. Hình ảnh con thơ, ngôi nhà, mảnh vườn, cây cầu... biểu hiện trong thơ ông một cách xúc động, thân thương. Khi gặp con trai Tập Hinh trên đường đi sứ, ông ngậm ngùi thương con còn quá nhỏ, khả năng ứng biến lại non nớt mà sớm chậm chạp như cha; rồi khi ghé thăm ngôi nhà thân thuộc, ông bồi hồi thấy cây quế trước sân gầy đón cổng, cây mai trong vườn xòa xuống người: Tiếp môn đình quế như nhân sau, Phúc ốc viên mai quả ngã kiều. (Bản dạ đảo gia - Vạn lí tập) 11 Dịch nghĩa: Cây quế ở đình bên cửa gầy như người, Mai trong vườn che rợp mái nhà cao hơn ta. (Nửa đêm về đến nhà) Nguyễn VănSiêu rất yêu quê hương và gia đình của mình. hương và giađình Chính quê có ảnh hưởng rất lớn tới sự nghiệp sáng tác thơ ca của Nguyễn Văn Siêu. Hình ảnh quê hương đi vào trong thơ ca của ông thật dung dị, gần gũi song với tài văn chương của mình, Nguyễn Văn Siêu đã phô bày cho chúng ta thấy được những vẻ đẹp đặc trung nhất của đất Hà Thành. Từ đây cũng toát lên cái hồn khí của truyền thống hiếu học, truyền thống văn hóa của đất Thăng Long (Kim Lũ - Hà Nội). 1.1.1.3. Đời tư Nguyễn Văn Siêu sinh tại thôn Trung, xã Kim Lũ, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì nhưng ngay từ nhỏ ông theo gia đình định cư tại Dũng Thọ, Thọ Xương, Hà Nội. Năm 1 3 - 1 4 tuổi, khi được cha dạy học ở nhà, cậu bé Định tự đề hoành biển hai chữ Lạc Thiên (Vui với mệnh trời) và treo ở phòng học câu đối: Đạo tại cố kim vô khúc kỉnh, thiên đa bồng tất sản cao nhân (nghĩa là: Đạo từ xưa đến nay không phải đường tắt, trời thường sinh bậc anh tài trong chốn nhà tranh lều cỏ). Hoành biến và câu đối bộc lộ ý chí muốn thành người tài đức đã nảy nở trong tâm hồn người con đất Kinh Kỳ ngay từ lúc ấu thơ. Khi thành niên, con người giàu khát vọng theo học Tiến sĩ Phạm Ọuý Thích ở làng Hoa Đường, huyện Đường An, trấn Hải Dương, Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng học giỏi, tung hoành văn từ cổ, không chịu gò bó theo kiểu học thời tục, tiếng tăm bắt đầu vang dậy khắp nơi, vượt qua nhiều bậc danh Nho đương thời. 12 Năm 1825, Nguyễn Văn Siêu đỗ Cử nhân. Quốc triều khoa bảng lục ghi: “Khoa Ất Dậu, Minh Mạng thứ 6 (1825), gồm 6 trường thi, lấy 117 người, trong đó trường Thăng Long lấy 28 người, Nguyễn Văn Siêu đậu Á nguyên”. Bia thần đạo tại lăng Phương Đình còn cho biết năm Ất Dậu (1825), Nguyễn Văn Siêu nhiều lần nhận được giấy chiêu hiền nhưng chưa dự tuyến vì muốn ở nhà phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc các em. Lệ thường, những người đỗ thi Hương sẽ dự thi Hội vào năm kế tiếp còn Phương Đình thì mười ba năm sau mới đi thi Hội (1838). Cuốn Nét bút thần của Nguyên Vãn Siêu thi ca và lịch sử giải thích nguyên nhân đỗ đạt chậm của Nguyễn Văn Siêu là từ khi mới học thường đọc nhanh viết thảo nên chữ xấu, dẫn đến kết quả thi không như mong muốn. Khoa Ât Dậu, ông phải dùng mẹo đau bụng để kéo dài thời gian, may nhờ tấm lòng liên tài của Nguyễn Hàm Ninh mới đỗ Á nguyên. Tuy nhiên, theo Quốc triều hương khoa lục, chức vụ tại trường Thăng Long năm Ất Dậu gồm HŨ01 tham tri Bộ Lễ Nguyên Đăng Tuân làm Đe điệu, Hiệu trấn Sơn Nam Ngô Huy Viên làm Giám thị, Thiêm sự bộ Hộ Thân Văn Duy, Thự Thiêm sự Bộ Lại Lê Quang làm Giám khảo. Như vậy, không có nhân vật Nguyễn Hàm Ninh tại trường thi này. Có lẽ, những chi tiết trên được tác giả cuốn Nét bút thần của Nguyên Văn Siêu thi ca và lịch sử hư cấu. Năm 1838, khoa Mậu Tuất, năm Minh Mệnh thứ 19, Nguyễn Văn Siêu đậu Phó bảng chỉ có ở đời Nguyễn từ khoa thi Hội năm Kỉ Sửu (1829), không được trọng vọng so với học vị Tiến sĩ. Thông lệ, người đỗ Phó bảng không được thi lại Tiến sĩ khi nhà Nguyễn mở Chế khoa vào năm 1851. Sau khi đỗ Phó bảng, Nguyễn Văn Siêu được nhận chức Hàn lâm viện kiểm thảo (hàm tòng thất phẩm) ở Viện Hàn lâm, cơ quan có nhiệm vụ khởi thảo công văn triều đình ban hành gồm chế, chiếu, biểu... Triều Nguyễn có 13 nhiều ân điển ban cho người đỗ đạt như Tiến sĩ cập đệ được nhận chức ngay còn Tiến sĩ xuất thân, Đồng Tiến sĩ xuất thân, Phó bảng vào Viện Hàn lâm ăn lương đọc sách ba mươi năm mới sát hạch, thăng bổ. Năm 1841, Nguyễn Văn Siêu được thăng Viên ngoại lang Bộ Lễ (hàm chính ngũ phẩm). Sau ba năm làm việc tại Hàn lâm viện, Phương Đình được thăng bốn bậc từ tòng thất phẩm lên chính ngũ phẩm. Nhưng cũng vào năm này, khi làm Phó chủ khảo trường Thừa Thiên, ông bị hệ lụy vì liên quan tới Cao Bá Quát và việc xảy ra tại trường thi. Hai viên sơ khảo Cao Bá Quát, Phan Nhạ ngầm lấy muội đèn chữa văn cho bài thi gồm hai tư quyển, đỗ được năm người. Giám sát trường vụ thấy phép tắc không nghiêm, yêu cầu Bộ Lễ và Viện Đô sát điều tra. Án quyết Cao Bá Quát và Phan Nhạ bị xử tử, Nguyễn Văn Siêu bị phạt trượng đồ. Sau khi nghị tội, Nguyễn Văn Siêu bị cách chức nhung vẫn được làm Bộ Lễ. Và cũng chính vào cuối năm này, ông còn bị khiển trách do liên quan đến Ngọc điệp nhầm năm Minh Mệnh thứ 21 tháng 12 ngày 28 từ giờ Ất Hợi sang giờ Giáp Tuất. Thời gian sau, ông nhận chức Nội các Thừa chỉ (hàm tòng nghũ phẩm). Nội các là nơi cơ yếu tham mưu cho triều đình, theo vua tuần du, giữ ấn, truyền lưu chỉ dụ cho nha môn, ghi chép chương sớ... Nội các chia làm bốn Tào, thuộc viên khoảng ba mươi người. Thừa chỉ là chức quan phụ trách Tào Biều bộ, chuyên trách lưu giữ châu bản, sổ sách, giấy tờ. Năm 1848, Phương Đình được thăng chức Thị giảng học sĩ (hàm tòng tứ phẩm), phụ trách việc giảng dạy cho hoàng tủ'. Năm 1849, Nguyễn Văn Siêu được cử làm Ất sứ sang nhà Thanh. Trên hành trình, ông sáng tác Phương Đình vạn lí tập. Đi sứ về, Nguyễn Văn Siêu làm việc tại Tập hiền viện, Khai kinh diên (hai cơ quan tập họp nhân tài đế bàn luận chính trị, sách vở, thơ phú...). Khi làm việc ở đây, ông giữ chức Khởi cư chú, phục vụ các buổi giảng tập ở Kinh diên. 14 Sau đó, năm 1851 Nguyễn Văn Siêu được bổ chức Án sát Hà Tĩnh, một thời gian ngắn chuyển về Hưng Yên. Hưng Yên hay bị vỡ đê. Nguyễn Văn Siêu gửi về Kinh đô Huế một số điều trần, song không hợp ý vua. ít lâu sau, Nguyễn Văn Siêu bị giáng chức. Lúc này tư tưởng của ông đã thay đổi vì nẻo thanh vân cũng trải hơn chục năm, vì tâm huyết đổ ra mà dân chang yên còn bề trên lại không thấu hiểu. Ông đành thoái lui về con đường phù hợp hơn với mình, không thể làm chính trị thì trở thành người dạy học. Năm 1854, Nguyễn Văn Siêu trí sĩ. Từ khi trí sĩ đến lúc mất, ông góp sức chống thực dân Pháp xâm lược, khởi xướng phong trào chấn hưng văn hóa Thăng Long, mở trường đào tạo nhân tài... Có thể nói cả một cuộc đời cống hiến cho đất nước cho nhân dân không hề mệt mỏi, một lòng tận trung với vua. Con đường làm quan của Nguyễn Văn Siêu gặp rất nhiều những biến cố thăng trầm, nhiều lần thăng rồi lại giáng chức. Suốt chiều dài của lịch sử đương thời, ông đã những đóng góp vô cùng to lớn cho sự phát triển của đất nước, được nhân dân yêu mến, kính nể. Nhưng tạo hóa xoay vần, đứng trước cái thời cuộc rối ren, Nguyễn Văn Siêu cũng như nhiều nhà trí thức đương thời đành chọn cho mình giải pháp về quê ở ẩn, mở trường dạy học để đào tạo nhân tài cho đất nước và cũng là đế giữ gìn thiên lương, nhân cách cao đẹp của một nhà Nho. 1.1.2. Sự nghiệp trước tác Nguyễn Văn Siêu sáng tác rất mạnh, tính đến lúc qua đời (1872) ông đã có hon nửa thế kỉ cầm bút và đã để lại cho đất nước, cho muôn đời sau một sự nghiệp văn chương đồ sộ, được dư luận đương thời và hậu thế suy tôn lên bậc thần: Thần Siêu bên cạnh Thánh Quát (Cao Bá Quát). 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất