TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA SƯ PHẠM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BI KỊCH CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU
THUYẾT “HỒNG LÂU MỘNG” CỦA
TÀO TUYẾT CẦN – CAO NGẠC
Sinh viên
: Nguyễn Thị Hà
Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ văn
Khóa học
: 2011 - 2015
Đắk lắk, 5 /2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA SƯ PHẠM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BI KỊCH CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU
THUYẾT “HỒNG LÂU MỘNG” CỦA
TÀO TUYẾTCẦN – CAO NGẠC
Sinh viên
: Nguyễn Thị Hà
Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ văn
Người hướng dẫn
ThS. Phan Thị Tâm Thanh
Đắk lắk, 5 /2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Phan
Thị Tâm Thanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo trong Khoa Sư phạm,
đặc biệt là quý thầy cô trong bộ môn Văn học trường Đại học Tây Nguyên, đã
tận tình truyền đạt kiến thức trong bốn năm học tập và tạo điều kiện tốt nhất
cho tôi hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động
viên tôi trong suốt thời quá trình nghiên cứu, hoàn thành khóa luận.
Do thời gian hạn hẹp và cũng là bước đầu làm quen với nghiên cứu đề tài
khoa học nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn.
Đắk Lắk, tháng 05 năm 2015
Người thực hiện
Nguyễn Thị Hà
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài........................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................2
PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU......................3
PHẦN THỨ BA:NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........6
3.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................6
3.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................6
3.3. Nội dung nghiên cứu..................................................................................6
3.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................6
3.4.1. Phương pháp thống kê – phân loại..........................................................6
3.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp..........................................................6
3.4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu............................................................6
PHẦN THỨ TƯ:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................8
4.1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG
CỦA TIỂU THUYẾT MINH – THANH..........................................................8
4.1.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm.................................................................8
4.1.2. Đặc điểm của tiểu thuyết Minh – Thanh...............................................11
4.1.3. Tiểu kết..................................................................................................13
4.2. BI KỊCH CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU THUYẾT “HỒNG
LÂU MỘNG”..................................................................................................14
4.2.1. Vấn đề bi kịch và bi kịch con người cá nhân trong tác phẩm văn học..14
4.2.2. Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng...............16
4.2.3. Tiểu kết..................................................................................................36
4.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BI KỊCH CON
NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG “HỒNG LÂU MỘNG”...................................37
4.3.1. Ngoại hình, tính cách............................................................................37
4.3.2. Ngôn ngữ, hành động............................................................................39
4.3.3. Diễn biến tâm lí nhân vật......................................................................41
4.3.4. Tiểu kết..................................................................................................44
KẾT LUẬN........................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................47
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.
Lí do chọn đề tài
Văn học Minh – Thanh có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Trung
Quốc. Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển văn học cổ điển,
đánh dấu sự chuyển mình sang khuynh hướng hiện đại của nền văn học Trung
Hoa đặc sắc.
Ở Trung Quốc trước đây, tiểu thuyết bị xếp vào thể loại phi chính thống và bị
coi thường. Đến thời Minh – Thanh, tiểu thuyết đã trở thành thể loại chủ đạo.
Có thể kể tên những bộ tiểu thuyết nổi tiếng của giai đoạn này như: “Tam chí
quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Tây du kí”, “Liêu trai chí dị”, “Kim Bình
Mai”, “Chuyện làng nho”, “Hồng lâu mộng”,…
“Hồng lâu mộng” là một trong bốn kiệt tác của văn học cổ điển Trung Quốc.
Người Trung Hoa đương thời có câu rằng “Khai đàm bất thuyết Hồng lâu
mộng, độc tận thi diệc uổng nhiên!” (Chuyện trò mà không nói “Hồng lâu
mộng”, đọc lắm sách xưa cũng uổng công). “Hồng lâu mộng” đã góp phần
làm cho đời sống văn học Trung Quốc nói riêng, văn học nhân loại nói chung
trở nên phong phú hơn.
“Hồng lâu mộng” phê phán xã hội phong kiến Trung Hoa mục nát với những
giáo điều khắc nghiệt đã ăn sâu, bén rễ hàng ngàn năm trong đời sống của
người dân Trung Quốc. Tác phẩm còn thể hiện tinh thần dân chủ, đòi tự do
yêu đương, giải phóng cá tính; đòi bình đẳng và khát khao một lí tưởng sống
mới.
Ảnh hưởng của “Hồng lâu mộng” không chỉ dừng lại trong phạm vi đất nước
Trung Hoa mà lan rộng ra trên văn đàn thế giới. Tính đến nay trên thế giới đã
có khoảng 16 ngôn ngữ khác nhau dịch toàn văn hoặc trích dịch “Hồng lâu
mộng” như: Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Italia, Hungari, Triều Tiên, Việt
Nam,…
Là một giáo viên dạy văn tương lai với niềm đam mê dành cho văn học Trung
Quốc, đặc biệt là tiểu thuyết Minh – Thanh, trong đó có tác phẩm “Hồng lâu
1
mộng”, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Bi kịch con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần– Cao Ngạc” làm đề tài cho
khóa luận, với mong muốn khám phá, đào sâu thêm ý nghĩa và giá trị to lớn
của tác phẩm qua nghiên cứu bi kịch con người cá nhân trong tác phẩm, để từ
đó có một cái nhìn toàn diện hơn về thiên tiểu thuyết được đánh giá là một
trong “tứ đại kì thư” của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” để
hiểu thêm về tư tưởng của tác phẩm, thấy được sự kế thừa và đổi mới trong
bút pháp tiểu thuyết của tác giả, góp phần khẳng định vị trí của “Hồng lâu
mộng” trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết Trung Quốc.
2
PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Từ khi mới ra đời, “Hồng lâu mộng” đã được bạn đọc hoan nghênh,
truyền bá rộng rãi và được đánh giá rất cao, tác phẩm nhanh chóng trở thành
món ăn tinh thần của quần chúng. “Hồng lâu mộng” không những có ảnh
hưởng lớn trong xã hội mà còn gây hứng thú mạnh mẽ trong giới nghiên cứu
của nhiều thế hệ người Trung Quốc.
Ngay từ đầu đã có hội nghiên cứu riêng về “Hồng lâu mộng” gọi là
Hồng học. Các nhà Hồng học chia làm nhiều trường phái nhưng họ đều cho
rằng “Hồng lâu mộng” viết về một câu chuyện có thật vào đời Thanh. Năm
1919, ở Trung Quốc diễn ra cuộc vận động Ngũ tứ, Hồng học chia ra thành
Cựu Hồng học và Tân Hồng học. Cựu Hồng học đi tìm những câu chuyện có
thực để chứng minh cho thiên truyện của Tào Tuyết Cần. Tân Hồng học lại đi
nghiên cứu sự tương đồng giữa cuộc đời tác giả và tác phẩm. Sau 1954, việc
nghiên cứu “Hồng lâu mộng” có nhiều bước chuyển đáng kể. Các bài viết dần
đi đến chỗ thống nhất, khẳng định giá trị tác phẩm về cả nội dung và nghệ
thuật.
Nhiêu Đạo Khánh từ góc độ của “Phê bình văn học chủ nghĩa nữ quyền” đã
khảo sát quan điểm nữ giới của Tào Tuyết Cần qua “Hồng lâu mộng” và qua
đó khẳng định tư tưởng tiến bộ của tác giả.
Lý Quốc Tường trong “Luận quan niệm đạo đức hôn nhân của Hồng lâu
mộng” đã nhận định: “Vấn đề đạo đức hôn nhân và nữ giới là nội dung chủ
yếu và chiếm số trang tương đối của Hồng lâu mộng. Dường như hết thảy
nhân vật, sự kiện, tất cả việc miêu tả, yếu tố trữ tình đều liên quan đến vấn đề
này, cụ thể là liên quan tới vấn đề tự do hôn nhân của phụ nữ, ái tình và địa
vị bình đẳng nam nữ”.
2.2. Ở Việt Nam, từ những năm đầu thế kỉ XX, khi nhắc đến tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc, ít ai không nhắc đến “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần–
Cao Ngạc. Nhìn chung, những nghiên cứu về “Hồng lâu mộng” ở Việt Nam
có nhiều điểm tương đồng với những nghiên cứu của Trung Quốc, nghĩa là
3
các nhà nghiên cứu chủ yếu đi vào tìm hiểu, khẳng định những đặc sắc về nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có thể kể đến các công trình chủ yếu sau:
Lời giới thiệu “Hồng lâu mộng” của Phan Văn Các trong bộ tiểu thuyết
“Hồng lâu mộng” do Nxb Văn học xuất bản năm 1996 đã trình bày một số
vấn đề về tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc, quá trình sáng tác, văn bản và
lịch sử lưu truyền, sự ra đời và phát triển của Hồng học, khái quát nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.
“Lịch sử văn học Trung Quốc” (1995) của Lê Huy Tiêu và Lương Duy Thứ,
từ việc chỉ ra cuộc sống hưởng lạc của hai phủ Vinh – Ninh, tác giả khái quát
nên bản chất của giai cấp thống trị phong kiến. Giáo trình cũng chỉ ra ý nghĩa
xã hội rộng lớn của bi kịch tình yêu trong “Hồng lâu mộng”.
“Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc” (2000) của Lương Duy Thứ đã
phân tích bản chất của giai cấp phong kiến, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại
của xã hội thượng lưu, những điều kiện tất yếu dẫn đến sự suy tàn của nhà họ
Giả. Tác giả cũng đã đề cập đến vấn đề bi kịch tình yêu và hôn nhân dưới chế
độ phong kiến.
“Giáo trình văn học Trung Quốc” (1998) của Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy
Thứ đã nhận định: “tài năng bậc thầy của ngòi bút tả thực theo quan niệm
nghiêm ngặt” của Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc.
“Những bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất Trung Quốc” (1991) của Trần Xuân
Đề cũng đã khẳng định tác giả “Hồng lâu mộng” không đứng ở vị trí người
thứ ba để giới thiệu nhân vật mà thông qua hành động để khắc họa tính cách
nhân vật. Tác giả chỉ ra thường có sự xung đột giữa hai thế lực: cũ và mới,
tiến bộ và phản động làm địa bàn cho nhân vật hoạt động.
“Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ” (1999) của Nguyễn Khắc Phi
chú trọng tìm hiểu bút pháp “song quản tề hạ”, một bút pháp tiêu biểu góp
phần làm rõ tính cách nhân vật. Tác giả cũng đã bàn đến vấn đề miêu tả tâm lí
nhân vật trong tác phẩm.
“Mạn đàm về Hồng lâu mộng” của Trương Khánh Kiện, Lưu Vĩnh Lương do
Nguyễn Phố dịch (2002) là những bàn luận khá sắc sảo và thấu đáo về tài
4
năng miêu tả hiện thực một cách tỉ mỉ, chi tiết của tác giả. Tác giả đưa ra hai
mươi tám vấn đề luận giải đầy hấp dẫn và có ý nghĩa với độc giả về số phận,
cuộc đời người phụ nữ.
Thành tựu của những công trình nghiên cứu nói trên đã góp phần khẳng định
những giá trị to lớn của “Hồng lâu mộng” về cả hai phương diện nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Qua khảo sát những bài viết của
các tác giả, chúng tôi nhận thấy vấn đề bi kịch con người cá nhân trong
“Hồng lâu mộng” là một trong những nội dung được quan tâm tìm hiểu nhằm
làm rõ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm, đó là một gợi ý hết sức quan trọng
để chúng tôi xây dựng đề tài. Thành tựu của các công trình nghiên cứu nói
trên là những tài liệu vô cùng quý báu, gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài
của khóa luận này.
5
PHẦN THỨ BA:
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết
Cần – Cao Ngạc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bộ tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc qua bản dịch
của nhóm Bùi Hạnh Cẩn, Ngọc Anh, Kiều Liên dịch (2 tập), Nhà xuất bản
Văn học, năm 2009.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu bi kịch con người cá nhân trong “Hồng lâu mộng” qua hai bi kịch
chính: bi kịch tình yêu và bi kịch tư tưởng.
Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng con người cá nhân trong
tác phẩm.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài nàychúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
3.4.1. Phương pháp thống kê – phân loại
Để tiến hành thống kê những chi tiết thể hiện bi kịch con người cá nhân trong
tác phẩm, sau đó phân loại những dẫn chứng trên góc độ bi kịch tình yêu và bi
kịch lí tưởng sống mới.
3.4.2. Phương pháp phân tích– tổng hợp
Tiến hành phân tích các dẫn chứng để phục vụ cho các luận điểm của đề tài,
trên cơ sở đó, tổng hợp, khái quát, đánh giá vấn đề và rút ra kết luận.
3.4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
So sánh – đối chiếu với các thiên tiểu thuyết cùng thời khác để thấy được sự
kế thừa và đổi mới của tác phẩm.
6
3.4.4. Phương pháp cấu trúc – hệ thống
Do tác phẩm có dung lượng lớn (120 hồi), các tình tiết tản mạn nên việc sử
dụng phương pháp cấu trúc – hệ thống giúp chúng tôi nghiên cứu một cách
khoa học, có cái nhìn bao quát để từ đó tập trung hiệu quả vào vấn đề bi kịch
con người cá nhân, tìm ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khi xây dựng bi
kịch con người cá nhân trong tác phẩm.
7
PHẦN THỨ TƯ:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG
CỦA TIỂU THUYẾT MINH – THANH
4.1.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
4.1.1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc
Tào Tuyết Cần (1716 – 1763?) tên thật là Tào Triêm, tự là Mộng
Nguyên, hiệu là Tuyết Cần, Cần Phố, Cần Khê, quê ở Liêu Dương, tổ tiên ông
vốn là người Hán sau nhập tịch Mãn Châu. Ông là một nhà thơ, một nhà tiểu
thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết “Hồng lâu
mộng” nổi tiếng.
Tào Tuyết Cần xuất thân trong một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại
quý tộc thời nhà Thanh. Vào thời Tào Dần – ông nội Tào Tuyết Cần, gia đình
họ Tào hết sức thịnh vượng, vua Khang Hy năm lần đi kinh lý phương Nam
thì đã bốn lần trú tại nhà ông. Qua đó có thể thấy được cuộc sống hào hoa và
mối quan hệ mật thiết giữa gia đình họ Tào với hoàng thất.Không chỉ là một
hào môn vọng tộc, gia đình Tào Tuyết Cần còn có truyền thống về văn
chương thi phú. Tào Dần là người lưu giữ sách nổi tiếng thời đó, chính Tào
Dần là người đứng ra hiệu đính và in ấn bộ “Toàn Đường Thi” nổi tiếng, ông
còn là tác giả bộ “Luyện đình thi sao” và nhiều trước tác khác.
Đến thời Ung Chính thứ 5 (1729), cha của Tào Tuyết Cần là Tào Diệu
bị cách chức với tội danh hành vi bất đoan, nhũng nhiễu dịch trạm, thiếu
khống rồi bị hạ ngục trị tội, tịch biên tài sản. Tào Tuyết Cần phải theo gia
đình rời Giang Nam về Bắc Kinh sinh sống, nhà họ Tào lâm vào cảnh sa sút
nhanh chóng. Tào Tuyết Cần phải sống qua ngày trong những ngày cay đắng
nhất của đời mình với nghèo khổ, sống nhờ vào việc bán tranh và sự giúp đỡ
của bạn bè. Sau này vì ốm đau không tiện chạy chữa, lại thêm đau khổ trước
cái chết của đứa con trai duy nhất, ông mất để lại người vợ góa bụa với cảnh
sống túng quẫn và 80 hồi “Thạch đầu kí” còn dang dở. Đám tang của ông chỉ
8
có vài ba người bạn thương tình tống táng qua quýt. Đó là kết cục bi thảm của
một tiểu thuyết gia thiên tài vào bậc nhất của nhân loại.
Tào Tuyết Cần sáng tác nhiều thơ nhưng đến nay đều bị thất truyền hết. Ông
sáng tác trước hết là để giải tỏa chính nỗi lòng tích tụ bao tâm sự chồng chất
của mình về con người và thời đại. Thế giới quan trong sáng tác của ông thấm
đẫm màu sắc hư vô và bi quan, đó là sự chiêm nghiệm sâu sắc về bản chất hủ
bại của giai cấp phong kiến thống trị đã làm nảy sinh ra những mâu thuẫn xã
hội đương thời.
Về con người của Tào Tuyết Cần, chúng ta chỉ biết rất sơ lược: ông là người
thông minh, nhạy cảm, đa tài, đa nghệ, giỏi thơ, khéo vẽ, thích rượu, cao
ngạo, phóng túng và có thái độ ngạo nghễ trước các thế lực đen tối trong xã
hội. Tuy lớn lên trong cảnh bần cùng, suy sụp của gia đình nhưng ông vẫn giữ
được phẩm chất thanh cao, coi khinh những kẻ xu thời phụ thế, chán ghét con
đường công danh phú quý.
Cao Ngạc (1738 – 1815?) tự là Lan Thự, Vân Sĩ, biệt hiệu là Hồng lâu ngoại
sĩ (người ở ngoài lầu hồng – không dính dáng đến công danh phú quý). Tổ
tiên của ông ở huyện Thiết Lĩnh, tỉnh Liêu Linh.Ông xuất thân từ tầng lớp
quý tộc, là người Hán nhập tịch Mãn Châu như Tào Tuyết Cần.
Thuở nhỏ Cao Ngạc thích đi du ngoạn cảnh đẹp quê hương. Ông là người
chăm học, thuộc lòng kinh sử, giỏi văn bát cổ, thi, từ, tiểu thuyết, hí khúc, hội
họa.Cao Ngạc muốn tiến thân lập công danh bằng con đường khoa cử. Năm
Càn Long thứ 53 (1788), Cao Ngạc thi Hương đỗ cử nhân. Năm Càn Long
thứ 60, ông thi đỗ tiến sĩ tam giáp và lần lượt làm chức Lịch quan nội các
trung thư, Nội các thị độc. Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), ông đảm nhiệm việc
khảo xét kì thi Hương và khảo thí quan lại. Đến năm 1809, ông làm chức
Giang Nam đạo Giám sát ngự sử. Đến năm 1813, ông được thăng chức làm
Hình khoa cấp sự trung. Trong thời gian làm quan ông được xem là người tiết
tháo, cẩn trọng, chính sự cần mẫn, tài năng đứng đầu, hiểu biết sâu rộng.Cao
Ngạc làm quan dưới hai triều Càn Long – Gia Khánh, trải qua lắm hoạn nạn
trên quan trường, về già lại sống cuộc sống thanh bần.
9
Ngoài 40 hồi viết tiếp “Hồng lâu mộng”, Cao Ngạc còn có nhiều tác phẩm
khác: “Thanh sử cảo – Văn uyển nhị” có chép “Lan thự thi sao”, “Dương
Tông Hy trong Bát kỳ văn kinh” có chép “Cao Lan Thự tập”, đến nay đều bị
thất truyền. Hiện nay còn “Lan Thự thập nghệ” (bản thảo), “Lại trị tập yếu”
cùng tập thơ “Nguyệt tiểu sơn phòng di cảo” và tập từ “Nghiên Hương từ Lộc tồn thảo”.
4.1.1.2. Quá trình hình thành tác phẩm “Hồng lâu mộng”
“Hồng lâu mộng” (Giấc mộng lầu son) là bộ tiểu thuyết vĩ đại xuất hiện vào
thời Kiền Long (cuối thế kỉ XVIII). Đó là tác phẩm có ý nghĩa cắm mốc một
giai đoạn lịch sử văn học vì dung lượng đồ sộ, sự thành thục trong phương
pháp sáng tác, vì âm vang của sự chuyển mình lịch sử mà nó mang đến cho
người đọc.
“Hồng lâu mộng” gồm 120 hồi, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết. Viết chưa
xong, ông từ trần. Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi sau.
Sống trong xã hội nhiều thăng trầm, gia đình lại lâm vào cảnh sa sút, ngẫm
trải đủ cay đắng cuộc đời bi lụy đã thôi thúc Tào Tuyết Cần sáng tác “Hồng
lâu mộng”. Ông đã dồn toàn bộ trí lực trong mười năm cuối đời để viết tác
phẩm và qua năm lần sửa chữa thì đã hoàn thành được 80 hồi và dự thảo 40
hồi còn lại.
Khi Tào Tuyết Cần mất tác phẩm vẫn chưa hoàn thành và không được công
bố. Mười lăm năm sau, bạn của ông là Cao Ngạc đã dụng tâm nghiên cứu tỉ
mỉ nguyên ý và căn cứ trên nền tảng ý tưởng, văn phong của Tào Tuyết Cần
mà viết tiếp 40 hồi sau cho phù hợp. Tác phẩm hoàn thành, Cao Ngạc đổi tên
“Thạch đầu kí” thành “Hồng lâu mộng” (Giấc mộng lầu hồng), vừa phù hợp
với nội dung tác phẩm, vừa mang dáng dấp của tâm hồn ông vì biệt hiệu của
ông là Hồng Lâu Ngoại Sĩ.
Giới nghiên cứu nhận định bốn mươi hồi sau của Cao Ngạc không thể sánh
với tám mươi hồi đầu của Tào Tuyết Cần về mặt nội dung và tư tưởng nghệ
thuật. Nhưng đóng góp to lớn của Cao ngạc là đã bảo vệ được sự nhất quán về
tư tưởng tình cảm, phong thái dung mạo, ngôn ngữ, tính cách của hơn 400
10
nhân vật mà Tào Tuyết Cần xây dựng, hoàn thành kết cấu bi kịch của toàn bộ
tác phẩm, khiến cho câu chuyện trở nên hoàn chỉnh, nhờ vậy mà “Hồng lâu
mộng” nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi.
4.1.2. Đặc điểm của tiểu thuyết Minh – Thanh
4.1.2.1. Đặc điểm chung
Tiểu thuyết Minh – Thanh kế thừa trực tiếp những thành tựu của thoại bản
Tống Nguyên, thuộc loại hình văn hóa Trung cổ gắn với sự xuất hiện của tầng
lớp thị dân và các đô thị.
Thông thường tiểu thuyết Minh – Thanh được chia ra làm năm loại: tiểu
thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp, tiểu thuyết thần ma, tiểu thuyết nhân
tình thế thái và đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn). Tiểu thuyết lịch sử lấy đề
tài trong lịch sử rồi diễn nghĩa ra. “Tam quốc diễn nghĩa” là tác phẩm tiêu
biểu cho loại này. Tiểu thuyết nghĩa hiệp viết về anh hùng hảo hán, trọng
nghĩa khinh tài, xả thân vì nghĩa mà “Thủy hử” là tác phẩm tiêu biểu. Tiểu
thuyết thần ma lấy đề tài trong thần thoại hoặc trong truyện tôn giáo mà “Tây
du kí” là thành công hơn cả.Tiểu thuyết nhân tình thế thái lấy đề tài trong
cuộc sống đời thường, nói đến những tình cảm thông thường, những con
người bình thường. Loại này có thể xem “Hồng lâu mộng” là thành tựu tiêu
biểu, ngoài ra còn có “Kim Bình Mai”, “Chuyện làng nho” cũng là những tác
phẩm có giá trị. Loại cuối cùng là đoản thiên tiểu thuyết, có hàng ngàn tác
phẩm nhưng “Liêu trai chí dị” là nổi tiếng hơn cả.
Tiểu thuyết Minh – Thanh được viết theo kết cấu chương hồi. Để hấp dẫn
người nghe, đến đoạn cao trào, gay cấn, thì người kể dừng lại với lời mời:
“Muốn biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải”. Trong tác phẩm có sự
giao thoa giữa biên niên sử và truyện kể dân gian, sự xâm nhập của truyện
hoang đường vào sử sách. Ví dụ trong ba tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa”,
“Thủy hử”, “Tây du kí” đều được đúc kết trên cơ sở ba mảng chuyện kể về
lịch sử, về hảo hán anh hùng, về chuyện nhà Phật.
Trong tiểu thuyết Minh – Thanh, cốt truyện rất được coi trọng.Câu chuyện cơ
bản được kể theo thời gian một chiều, cái gì xảy ra trước kể trước, cái gì xảy
11
ra sau kể sau.Thông qua ngôn ngữ và hành động tác giả khắc họa tính cách
nhân vật.Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết Minh –
Thanh. Tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa cứu người của Lỗ Trí Thâm trong
“Thủy hử” được thể hiện rất rõ nét thông qua ba cú đấm đánh chết Trần Quan
Tây Trịnh Đồ. Hoặc tấm lòng cương trực của Trương Phi được thể hiện bằng
hành động Trương Phi đánh đến gãy mười cành liễu vào mông của tên mọt
dân hại nước Đốc Bưu.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật, tiểu thuyết Minh – Thanh rất chú trọng
vận dụng thủ pháp ước lệ và công thức để miêu tả, lí giải.Nhưng để hình
tượng nhân vật trở nên sinh động thì ngoài việc phải biết lựa chọn những chi
tiết tiêu biểu, giàu ý nghĩa tượng trưngcòn đòi hỏi tác giả phải sắp xếp các chi
tiết đó thành một hệ thống hoàn chỉnh nhằm làm nổi bật đặc trưng tính cách
nhân vật.Biểu hiện tấm lòng trung nghĩa của Quan Vũ có đâu chỉ vài lời giới
thiệu sơ sài, mà là hàng loạt những câu chuyện sinh động.
Thơ và từ là hai thể loại được dùng phổ biến trong tiểu thuyết Minh –
Thanh.Những câu thơ, bài từ đặt ở đầu chương hoặc cuối hồi nhằm giới thiệu
hay tổng kết, có khi là sự giải thích hoặc là sự mỉa mai, phê phán, rút ra
những triết lí nhân sinh. Trong “Hồng lâu mộng”, những bài thơ từ còn có tác
dụng nhất định trong việc sáng tạo hình tượng nhân vật.
4.1.2.2. Đặc điểm của tiểu thuyết đời Minh
Các đề tài về lịch sử với cảm hứng chủ đạo là ca ngợi anh hùng là đề tài chủ
đạo của tiểu thuyết đời Minh. Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu: “Tam
quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Tây du kí”,…
Tiểu thuyết đời Minh có sự kết hợp giữa văn chương bình dân và văn chương
bác học. Bên cạnh những câu văn dẫn chuyện của tác giả là những câu đối
thoại, độc thoại, trong ngôn ngữ nhân vật đậm tính bình dân. Điều này khiến
cho tiểu thuyết đời Minh rất hấp dẫn và có tính nhân dân rất sâu sắc.
Thi pháp kế thừa thi pháp của loại hình truyện kể trung đại như kể theo thời
gian một chiều, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua ngôn ngữ và hành động,
ít chú ý miêu tả tâm lí nhân vật.
12
4.1.2.3. Đặc điểm của tiểu thuyết đời Thanh
Đề tài thế sự là đề tài chủ đạo của tiểu thuyết đời Thanh. Với cảm hứng phê
phán hiện thực, các tác giả đương thời đã phản ánh chân thực hiện thực đầy
rẫy bất công ngang trái của xã hội phong kiến nhà Thanh đang trên đà suy
tàn.
Tiểu thuyết đời Thanh là tiểu thuyết tâm lí xã hội. Quan niệm nghệ thuật về
con người đã có sự đổi khác, người ta không còn viết về con người phi
thường nữa mà trong tác phẩm đã xuất hiện con người cá nhân, con người thế
tục.
Tiểu thuyết đời Thanh đã chú ý miêu tả tâm lí, tính cách và số phận nhân vật.
Kết cấu truyện gắn với sự phát triển tâm lí của nhân vật chứ không còn miêu
tả tuyến tính như trong tiểu thuyết đời Minh nữa. Vì vậy có thể thấy tiểu
thuyết đời Thanh gần với tiểu thuyết hiện đại. Hình tượng nhân vật trong tác
phẩm cũng có sự thay đổi cho phù hợp với trình độ, thị hiếu của tầng lớp thị
dân đang sống trong thời đại có nhiều biến chuyển mới. Nhân vật lúc này gắn
với đời thực và được miêu tả tâm lí nhiều hơn. Trong tiểu thuyết “Hồng lâu
mộng”, Tào Tuyết Cần cũng đã chú ý vận dụng những đoạn miêu tả tâm lí
ngắn gọn để khai thác bộ mặt tinh thần và nội tâm nhân vật.
4.1.3. Tiểu kết
Hoàn cảnh sống cơ hàn đã hình thành cho Tào Tuyết Cần cái nhìn sâu
sắc về xã hội phong kiến suy tàn đương thời. Ngòi bút nhạy cảm và tài hoa
của ông đã cho ta thấy được cái tâm trạng tích tụ về con người và thời đại
trong ông. Về cuối đời, trong lúc đói khổ, bệnh tật, đau đớn giày vò thì tài
năng của ông vẫn tỏa sáng ở đỉnh cao, “Hồng lâu mộng” là minh chứng cho
tài năng kiệt xuất ấy.
Tiếp bút đầy tài hoa cho bộ tiểu thuyết còn dang dở của Tào Tuyết Cần, Cao
Ngạc thực sự đã kết nối được quan điểm sáng tác của Tuyết Cần, hoàn thành
kết cấu bi kịch cho tác phẩm. Dù còn nhiều hạn chế về mặt nội dung và tư
tưởng nhưng Cao Ngạc đã góp phần đưa bộ tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” trở
13
thành một tác phẩm hoàn chỉnh có giá trị cao, đáng được tôn vinh là cuốn tiểu
hay nhất mọi thời đại mang ý nghĩa xã hội rộng lớn.
“Hồng lâu mộng” được xem là một tiểu thuyết mang tính hiện đại vì
trong tác phẩm đã xuất hiện những tình huống tâm lí đầy mâu thuẫn của số
phận con người cá nhân cụ thể, họ đại diện cho một giai cấp, một tầng lớp. Số
phận của họ gắn với những đau đớn, bất hạnh, những thăng trầm, vui buồn
trong cuộc sống đời thường.
Văn học Minh – Thanh giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển văn
học Trung Quốc. Đó là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển văn học
cổ điển, cũng là giai đoạn dài nhất và có nội dung phong phú nhất, là giai
đoạn đánh dấu sự chuyển mình sang khuynh hướng hiện đại. Thời Minh –
Thanh được xem là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết. Với các bộ “Tam
quốc”, “Thủy hử”, “Tây du kí”, “Liêu trai chí dị”, “Kim Bình Mai”, “Chuyện
làng nho”, “Hồng lâu mộng”, tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa đã đạt đến
trình độ hoàn chỉnh nên được gọi là tiểu thuyết cổ điển.
4.2. BI KỊCH CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU THUYẾT
“HỒNG LÂU MỘNG”
4.2.1. Vấn đề bi kịch và bi kịch con người cá nhân trong tác phẩm văn
học
4.2.1.1. Khái niệm bi kịch
Từ phương diện thể loại, nói như Gulaiev: “bi kịch là một tác phẩm kịch
được xây dựng trên một xung đột, thể hiện về mặt thẩm mĩ những mâu thuẫn
14