Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp Bảo tồn và phát triển làng nghệ truyền thống sơn mài Chuyên...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp Bảo tồn và phát triển làng nghệ truyền thống sơn mài Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội

.PDF
41
160
58

Mô tả:

'7/'ỉỉf)fỉự /ỉỉộ /ỉ fờ í Hự/ỉ/êp 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN ********* PHẠM THỊ THANH MAI BẢO TỔN VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỂ TRUYỀN THốNG SƠN MÀI CHUYÊN MỸ - PHÚ XUYÊN - HÀ NỘI KHOÁ LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • • • Chuyên ngành: Sinh thái - Môi trờng HÀ N Ộ I-2 0 1 0 ^7/ỉ/ QXutễtÁ y//ĩf/ X J2 /J - JS„/i JC0WW 'T/ỉỉí/ếỉự JX/tiJtt /ỉỉộ/ỉ fâf Mợ/ỉ/êfi ffîà fflû/ 2 PHẦN MỎ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh dựng nước và giữ nước. Với xuất phát điểm từ một nền nông nghiệp lạc hậu, để đạt được mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp thì Hà Tây cũ nói riêng và Việt Nam nói chung đang trên con đường công nghiệp hóa. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đã dẫn tới nhiều giá trị văn hóa của dân tộc dần đi vào quên lãng, một số làng nghề truyền thống có nguy cơ biến mất. Làng nghề Sơn mài Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội là một trong số đó. Quá trình hoạt động của làng nghề đã tạo công ăn việc làm cho nông dân, tuy với quy mô vừa phải nhưng đã tạo thu nhập đáng kể cho người dân và giải quyết được sự dư dôi lao động trong những ngày nông nhàn. Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường cộng với các nghệ nhân ngày một thưa dần; mẫu mã sản phẩm còn kém đa dạng, thiếu phong phú; phải cạnh tranh với nhiều mặt hàng cùng loại trên thị trường; công nghệ sản xuất còn thô sơ; vấn đề xử lý môi trường thiếu triệt đ ể... dãn tới làng nghề đang mai một dần và có nguy cơ biến mất. Để khắc phục những khó khăn còn tồn tại của làng nghề, thực hiện nghị quyết của thành phố đảm bảo phát triển bền vững làng nghề nên tôi đã chọn đề tài: “Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Sơn mài Chuyên Mỹ - Phú Xuvên - Hà Nội”. 2. Mục tiêu của đề tài Đề tài được tiến hành nhằm các mục tiêu sau: - Tìm hiểu quy mô sản xuất của làng nghề Sơn mài ở xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. ^7/ỉ/ Q/t/ffi/t ////ĩ/ X J2 /J - JS„/i JC0WW JX/tiJtt /ỉỉộ/ỉ fâ f Mợ/ỉ/êfi 'T/ỉỉí/ếỉự ffîà fflû/ 2 - Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến làng nghề bị suy giảm và mai một, từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm bảo tồn và phát triển nó. 3. Ý nghĩa của đề tài Việc giải quyết những khó khăn còn tồn tại của làng nghề Sơn mài góp phần: - Bảo tồn làng nghề hiện có. - M ở rộng quy mô phát triển của làng nghề. - Chỉ ra các giải pháp thích hợp cho việc quy hoạch tổng thể làng nghề và cho các chính sách quản lý làng nghề, phù hợp với mục tiêu quy hoạch kinh tế - xã hội chung của thành phố Hà Nội. - Từ đó có thể góp phần bảo tồn và phát triển các làng nghề khác ở Hà Nội và các địa phương khác có cùng hoàn cảnh như ở Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, Hà Nội. ^7/ỉ/ Q/t/ffi/t ////ĩ/ X J2 /J - JS„/i JC0WW JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Các loại hình làng nghề ở Việt Nam Có thể phân chia thành các loại hình làng nghề sau: - Các làng nghề được tách ra do sự phát triển sản xuất nông nghiệp và cũng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp: các thợ rèn làm cày, cuốc, liềm, hái, bừa, mai, thuổng. - Các làng nghề sản xuất hàng tiêu dùng: dệt vải, dệt lụa, lanh, thêu thùa; làm nón, mây tre đan, làm chiếu, chế biến nguyên liệu sản xuất thực phẩm. - Các làng nghề phục vụ cho nhu cầu thủ công - mỹ nghệ: chạm, khảm trai, sơn mài, tranh thờ, tranh tết. - Các làng nghề phục vụ cho nhu cầu tâm linh: đúc đồng, làm hoành phi, câu đối, bàn ghế, thợ đẽo và đục đá. - Xu hướng hình thành các làng nghề: + Tồn tại ngay ở các làng quê, do một ông tổ hay bà tổ nghề truyền dạy. + Tập trung thành phường xã ở các thị trấn, thị xã. + Làng nghề Sơn mài Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, Hà Nội thuộc dạng làng nghề thủ công - mỹ nghệ. Lịch sử hình thành làng nghề được gắn với lịch sử hình thành tỉnh Hà Tây cũ và được trình bày ở phần tiếp theo. [9] 1.2 Các loại hình làng nghề ở tỉnh Hà Tây cũ - Các làng nghề được tách ra do sự phát triển sản xuất nông nghiệp và cũng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp: rèn Đa Sĩ - Hà Đ ông,... - Các làng nghề sản xuất hàng tiêu dùng: lụa Vạn Phúc - Hà Đông, dệt nhuộm Dương Nội - Hoài Đức, thêu Quất Động - Thường Tín, nón Chuông Thanh Oai, mây tre Phú Vinh - Chương Mỹ, may Trạch Xá - ứng Hòa, quạt ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 Vác - Thanh Oai, trăn ga gối đệm Trát Cầu - Thường Tín, bánh dày Quán Gánh - Thường Tín, giò chả Ước Lễ - Thanh O a i,... - Các làng nghề phục vụ cho nhu cầu thủ công - mỹ nghệ: Sừng Thụy Úng - Thường Tín, sơn mài Hạ Thái - Thường Tín, sơn mài Duyên Trường Thường Tín, khảm trai sơn mài Chuyên Mỹ - Phú Xuyên, khảm trai ứng Cử Phú X uyên,... - Các làng nghề phục vụ cho nhu cầu tâm linh: tiện gỗ Nhị Khê Thường Tín, đồ mộc Chàng Sơn, tạc tượng Sơn Đồng - Hoài Đức, điêu khắc Dư Dụ - Thanh O ai,... [9] 1.3 Các công trình nghiên cứu Hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về việc sản xuất Sơn mài tại xã Chuyên Mỹ. Đây là công trình đầu tiên đề cập đến việc sản xuất Sơn mài tại làng nghề thuộc xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Công trình đề cập đến các khâu của quá trình sản xuất, thực trạng và xu hướng hoạt động của làng nghề. Từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục những bất lợi để bảo tồn, duy trì và phát triển làng nghề bền vững. ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u , THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIEM n g h i ê n c ứ u 2.1 Phương pháp nghiên cứu - Thực địa - Khảo sát tình hình sức khỏe của nhân dân địa phương qua quan sát, phỏng vấn và qua số liệu của trạm y tế xã. - Các số liệu được ghi chép qua báo cáo của ủy ban nhân dân xã Chuyên Mỹ. - Phỏng vấn các chủ cơ sơ sản xuất trong xã. 2.2 Thời gian nghiên cứu Đề tài tiến hành từ tháng 7/ 2008 đến tháng 3/ 2010. 2.3 Địa điếm nghiên cứu Tại xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN cứu VÀ THẢO LUẬN 3.1 Sơ lược về điều kiện tự nhiên và xã hội xã Chuyên Mỹ - Phú Xuyên Hà Nội 3.1.1 Vị trí địa lý Phú Xuyên là một huyện phía Nam của Hà Nội. Phía đông giáp sông Hồng (bên kia sông là các xã Đông Ninh, Đại Tập, Chí Tân huyện Khoái Châu và xã Hùng An huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên); phía bắc giáp huyện Thường Tín và Thanh Oai; phía nam giáp huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; phía tây giáp huyện úng Hòa, Hà Nội. Phú Xuyên nằm trên trục đường quốc lộ 1A, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 32 km về phía nam. Xã Chuyên Mỹ nằm ở phía cực tây vùng chiêm trũng huyện Phú Xuyên, cách đường quốc lộ 1A gần 10 km. Xã có các mặt giáp xã Tân Dân về phía Đông, giáp xã Trung Tú - ứng Hoà về phía Tây, giáp xã Minh Đức - ứng Hoà về phía Nam, giáp xã Hoàng Long về phía Bắc. [9] 3.1.2 Điều kiện khí hậu, thủy văn Xã Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng nên mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng nhiệt đới, xã quanh năm tiếp nhận lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Chuyên Mỹ có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình 114 ngày mưa m ột năm. M ột đặc điểm rõ nét của khí hậu Chuyên Mỹ là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 29,2°c. Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình 15,2°c. Cùng với hai thời kỳ ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10, Chuyên Mỹ có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Khu vực Chuyên Mỹ có duy nhất một con sông Nhuệ chảy qua. Nhân dân sống dọc bên sông. [6, 9] 3.1.3 Điều kiện x ã hội 3.1.3. ỉ Dân cư Xã Chuyên Mỹ nằm ở phía Tây huyện Phú Xuyên. Đây là một xã thuộc huyện ngoại thành thành phố Hà Nội, là huyện cửa ngõ nằm trên trục giao thông quan trọng nối liền Hà Tây cũ với các tỉnh phía Nam. Theo thống kê, xã Chuyên Mỹ có tổng diện tích đất tự nhiên là 792 ha, trong đó có 506 ha đất canh tác. Dân số trong xã gồm 9150 khẩu thuộc 2137 hộ. Số người trong độ tuổi lao động là 5450 lao động. Xã gồm 7 thôn đều được tỉnh công nhận là làng nghề. [1, 2, 9] 3. ì .3.2 Tình hình sản xuất nônq nghiệp, ngành nghề Sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là hai ngành chủ đạo ở Chuyên Mỹ. Sau mỗi mùa vụ, thường vào những ngày nông nhàn cư dân nơi đây tiến hành sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp nơi đây chủ yếu là sơn mài (Ánh 1, 2, 3, 4), khảm trai (Ảnh 5) và chế biến nguyên liệu khảm (Ánh 6). Về đơn vị hành chính, xã có 1 hợp tác xã nông nghiệp và 2 doanh nghiệp tập thể là Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và Quỹ tín dụng nhân dân. Về cơ cấu sản xuất, theo số liệu của hợp tác xã năm 2007: số hộ sản xuất nông nghiệp chiếm 17%, số hộ sản xuất các mặt hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 72%, số hộ thương mại dịch vụ chiếm 11% (Biểu đồ ỉ ). Xã có 1450 cơ sơ sản xuất kinh doanh hàng tiểu thủ công nghiệp với 4490 lao động, tạo công ăn việc làm cho 100% số người trong độ tuổi lao động của xã và 600 - 800 lao động mỗi năm ở các xã lân cận. ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 Ngoài phát triển làng nghề tại địa phương, xã có 250 - 300 hộ đứng chủ thuê mướn lao động ở các nơi đi làm nghề khảm trai sơn mài khắp tỉnh thành trong cả nước như: thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Đ ịnh... nhìn chung các cơ sở này làm ăn có hiệu quả cho thu nhập cao. Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp sơn khảm Ngọ Hạ của xã đảm bảo công ăn việc làm thường xuyên cho 50 xã viên và hàng trăm lao động nhận làm, đào tạo nghề cho 90 - 100 lao động thuộc các đối tượng trẻ em tàn tật mỗi năm. Hợp tác xã sơn khảm Ngọ Hạ được thành lập từ năm 1960, với nhiều mặt hàng như: sập gụ, tủ chè, tủ thờ, bình phong, tranh (Ảnh 7)... đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Bà Nguyễn Thị Vui, chủ nhiệm hợp tác xã từ năm 1980 đến nay, là người luôn trăn trở làm sao để nghề truyền thống không bị mai một mà ngày càng phát triển. Từ khóa học đầu tiên ấy, đến nay hợp tác xã sơn khảm Ngọ Hạ đã truyền nghề và dạy nghề được cho khoảng 500 em, trong đó có khoảng 70% là các em khuyết tật. Hợp tác xã còn là nơi quảng bá sản phẩm cho khách du lịch về thăm quan và đặt hàng. Hiện xã có 3 công ty tư nhân với số lao động thường xuyên từ 50 - 70 người làm ăn có hiệu quả. Sản phẩm hàng hóa sơn khảm và nguyên liệu khảm chủ yếu tiêu thụ trong nước, tỷ lệ xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 10% và đều thông qua khâu trung gian. [1, 2, 9] 3.2 Quy trình sản xuất hàng Sơn mài ở Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, Hà Nội 3.2.1 Các nguyên liệu sử dụng trang trí hàng Sơn mài M ột sản phẩm sơn mài sử dụng khá nhiều nguyên liệu đó là: sơn, màu và các nguyên liệu khác - Sơn: khai thác từ cây sơn, ngoài ra còn dùng dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông... - Màu: dùng hai màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ nên không bị phân hủy trước ánh sáng và thời gian. '/CV/s//// ^7/ỉ/ Q/iYíM/t ////ĩ / X ỉ2 /J - JS„/i JX/tiJtt /ỉỉộ/ỉ fâf Mợ/ỉ/êfi 'T/ỉỉí/ếỉự ffîà fflû/ 2 - Các sản phẩm từ bạc như: bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm ... - Các sản phẩm từ vàng như: vàng th ếp ... - Các vật liệu khác như: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp... - Hiện nay đã sử dụng các loại sơn công nghiệp thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản xuất tranh và màu sắc thì vô cùng phong phú. Sơn mài được làm hoàn toàn từ những chất liệu thiên nhiên như: nhựa cây, mùn cưa... vì thế một trong những yếu tố tạo nên bức sơn mài đẹp chính là thiên nhiên ẩn chứa trong nó. [2, 9] 3.2.2 Quy trình sản xuất hàng Sơn mài Để làm ra một sản phẩm Sơn mài hoàn chỉnh, cần trải qua rất nhiều công đoạn tùy theo yêu cầu của từng bức tranh. Đó có thể là một tấm tranh có gắn trứng kết hợp với trai hoặc dán vàng, b ạ c ... Nhưng tiêu chí cuối cùng cần đạt được là độ bóng và nét tinh tế trong mỗi tác phẩm. - Công đoạn đầu tiên, công đoạn đánh vải phải chú ý bề mặt cần làm không bị lỗi. Tiếp đó đặt vải xô lên trên bề m ặt rồi ra đều một lớpsơn sống lên trên bề mặt vải. Chờ cho mặt sơn se lại, trải đều một lớp mùn cưa lên trên mặt vải vừa ra sơn, nghè kĩ, rồi cho vào buồng ủ cho tới khi nào khô thì thực hiện các bước tiếp theo. - Sau đánh vải chúng ta phải trải qua các công đoạn: bó - hom - lót - kẹt vét - thí - phủ - mài đánh bóng - xoa bóng mới hoàn thành về cơ bản một bức tranh sơn mài. Việc hom bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn) ngày xưa thường được người làm sử dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa (ngày nay người thợ có thể dùng bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn ta lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn), sau đó còn phải đục mộng mang cá để gài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau / ỵj//ợ/// Ç7/tt Ç7Afîfî/t ////ĩ/ XJ2/J - JS„/i JC0WW JX/tiJtt /ỉỉộ/ỉ fâ f Mợ/ỉ/êfi 'T/ỉỉí/ếỉự ffîà fflû/ 2 tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước và mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 300 - 400 năm. - Trang trí: Khi có được tấm vóc nói trên hoặc các mô hình chạm khắc (bình hoa, các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn, dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc... sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu. Công đoạn gắn trứng hay gắn trai tùy trường hợp mà nó sẽ được thực hiện sau vài lần nước hom. Giữa các công đoạn cần có thời gian ủ hoặc để khô, do vậy thời tiết là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến việc làm tranh. Nó thích họp vào mùa xuân và những ngày mưa đẩu hạ. Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi câu đối... người thợ phải làm trong những phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt. - Mài và đánh bóng: Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo thành độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà... Trải qua bao nhiêu năm tháng, sơn mài Chuyên Mỹ vẫn giữ được nét riêng khi bước vào thời kì hội nhập. Mỗi sản phẩm đều mang trong mình tâm hồn người Việt Nam qua những nét phác họa vừa hài hòa về màu sắc, vừa tinh ^7/ỉ/ Q/t/ffi/t ////ĩ/ X J2 /J - JS„/i JC0WW JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 tế về đường nét. Sản phẩm sơn mài Chuyên Mỹ không chỉ luôn bóng, mịn, đẹp, bền mà còn in đậm dấu ấn của bàn tay khéo léo, sức sáng tạo của những người thợ tài hoa. [2, 9] 3.3 Thực trạng sản xuất của làng nghề xã Chuyên Mỹ, Phú Xuvên, Hà Nội. 3.3.1 Giai đoạn trước 1945 Là giai đoạn khởi đầu của nghề Sơn mài nên nghề còn mang tính chất thô sơ, nhỏ lẻ, mẫu mã đơn giản, sản phẩm tạo ra thông qua đôi bàn tay khéo léo của người thợ. Đó là hoành phi câu đối, khay trà trong cung vua chúa hay những bức tranh phong cảnh đơn giản... (Ánh 8) [2, 9] 3.3.2 Giai đoạn từ 1945 đến 1990 Do sự chuyển đổi cơ chế thị trường đồng thời tình hình chính trị ở Đông Âu ngày càng xấu đi nên các ngành thủ công nghiệp không kí được hợp đồng, sản phẩm sản xuất ra không có nơi tiêu thụ, bị ứ đọng. M ẫu mã sản phẩm tuy có phần đa dạng, phong phú hơn thời kỳ trước nhưng vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập, chưa tiếp cận được thị trường, hàng còn kém chất lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Việc quản lý vật tư, tiền vốn còn lỏng lẻo, chi tiêu còn lãng phí, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ chủ yếu tại các hộ gia đình (Ánh 9), doanh thu vẫn còn thấp nên thu nhập của người lao động còn chưa cao, việc làm không ổn định. Do vậy hợp tác xã thủ công Thượng Trung và Bối Khê bị giải thể, chỉ còn hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ. Thu nhập từ ngành thủ công nghiệp như sau: - Năm 1989: đạt 355 triệu đồng, trong đó Hợp tác xã Bối Khê 130 triệu; Ngọ Hạ 197 triệu; Thượng Trung 28 triệu. - Năm 1990: đạt 240 triệu, trong đó Hợp tác xã Ngọ Hạ 160 triệu; Bối Khê 80 triệu. [2, 9] ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 3.3.3 Giai đoạn từ 1991 đến 2000 Giai đoạn này làng nghề đã phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu lấy hộ gia đình là nguồn chủ đạo trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, đồng thời đã cơ giới hóa một số khâu trong chế biến nguyên liệu phục vụ cho sơn khảm, đồ mộc. Theo thống kê của hợp tác xã năm 1994, toàn xã có 95% số hộ làm nghề truyền thống. Trong 100% số lao động làm nghề thì có 50% số lao động làm nghề chuyên nghiệp và 50% số lao động làm nghề bán chuyên nghiệp. Hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ vẫn đảm bảo công ăn việc làm thường xuyên cho trên 40 lao động và một số hộ gia đình. Trong thời gian này, được sự tài trợ của tổ chức Tầm nhìn thế giới, đồng thời được sự hỗ trợ của các ngành, các cấp, hợp tác xã đã mở 2 lớp dạy nghề cho 100 cháu có hoàn cảnh khó khăn trong khu vực. Kết quả thu nhập của hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ trong năm 1994 là 400 triệu, năm 1995 là 200 triệu. Thu nhập bình quân của một lao động là 250.000đ/tháng. Trong hai năm 1996 và 1997 do ảnh hưởng nhiều của nền kinh tế thị trường, các mặt hàng trong nước phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập, khâu tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn. Nên thu nhập của người lao động giảm, cụ thể như sau: - Tổng giá trị thu nhập năm 1996 là 18,4 tỷ đồng, bình quân hộ đạt 9.868.315 đồng/ năm, bình quân khẩu là 2.339.000 đồng/năm. - Tổng giá trị thu nhập năm 1997 đạt 19,3 tỷ, bình quân hộ 9.851.000 đồng/năm, bình quân khẩu 2.379.420 đồng/năm. Như vậy thu nhập năm 1997 tăng so với năm 1996 (Biểu đồ 2). Trong 2 năm 1999 và 2000, tuy cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan nhưng kinh tế tiểu thủ công nghiệp vẫn có tốc độ tăng trưởng khá do: mẫu mã thường xuyên được thay đổi để phù hợp với nhu cầu của khách hàng, một số công đoạn đã được cải tiến bằng máy nhỏ nên lượng hàng hóa ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX /t0tí /ỉỉộ /ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 sản xuất ra nhanh nhiều hơn, chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn. Nhiều chủ sản xuất đã mở các cơ sở sản xuất ở những thành phố lớn. Trong khi nền kinh tế thị trường vẫn còn nhiều khó khăn, hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ đã có nhiều cố gắng, vẫn đảm bảo có việc làm thường xuyên đồng thời thu nhập của người thợ tăng. Doanh thu hàng năm của hợp tác xã là 450 - 550 triệu, lương bình quân hàng tháng của mỗi thợ là 430.000 đồng/tháng, tăng so với 1996 là 72% và đã tự nâng cấp nhà xưởng trên 50 triệu đồng. Thu nhập các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ năm 1999 là 18,5 tỷ đồng; năm 2000 là 19,25 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng là 18,6% (Biểu đồ 3). [2, 9] 3.3.4 Giai đoạn từ 2001 đến nay Kinh tế tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ, các mặt hàng sản xuất đa dạng hơn nhiều so với trước, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, các chủ sản xuất ngày càng chú trọng đầu tư theo hướng công nghiệp hóa bằng cách mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến công cụ lao động, mua sắm máy m óc... Toàn xã có 95% số hộ có thu nhập từ ngành nghề, 100% người lao động đều có việc làm. Hiện nay có 350 hộ có quy mô sản xuất vừa và khá với thu nhập mỗi năm từ 50 - 100 triệu đồng, thu hút từ 700 - 800 lao động ở các nơi khác đến làm tại xã. Hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ hoạt động ngày càng có hiệu quả, doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2004 đạt 1,2 tỷ đồng, đã tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp, các ngành đầu tư xây dựng cơ bản trên 1 tỷ đồng, mở 5 lớp học với 250 người được đào tạo và đào tạo nâng cao tay nghề. Trong quá trình hoạt động, hợp tác xã đã chú trọng việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề truyền thống; gắn sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với du lịch làng nghề. Năm 2004 có 26 đoàn với 312 lượt người đến thăm quan du lịch làng nghề, / ỵj//ợ/// ^7/ỉ/ Q/iYíM/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 trong số đó có cả người nước ngoài. Thu nhập của người thợ ngày một nâng cao. Cơ cấu kinh tế năm 2007: tiểu thủ công nghiệp chiếm 72%, dịch vụ thương mại chiếm 11%, nông nghiệp chiếm 17%. Giá trị thu nhập ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: - Năm 2005: 41,605 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 78,5%; tốc độ tăng trưởng 17,5%. - Năm 2007: + Giá trị sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ước đạt 75 tỷ đồng; thu nhập bình quân của một lao động ở mức 16 triệu đồng/năm. + Giá trị kinh doanh dịch vụ hàng tiểu thủ công nghiệp ước đạt 8 tỷ đồng; thu nhập bình quân của một lao động kinh doanh dịch vụ hàng tiểu thủ công nghiệp ở mức 18,5 triệu đồng/năm. - 6 tháng đầu năm 2008: + Giá trị sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp khảm trai sơn mài, nghề chế biến nguyên liệu cho sơn khảm là 56 tỷ đồng. + Giá trị kinh doanh dịch vụ hàng thủ công nghiệp đạt 6,5 tỷ. [1, 2, 9] 3.3.5 Xu hướng phát triển của làng nghê Sơn mài Làng nghề truyền thống ra đời và phát triển đã tạo công ăn việc làm cho nông dân trong những ngày nông nhàn, tạo ra bộ mặt đô thị hóa cho nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm giàu trên quê hương mình. Tuy nhiên qua nghiên cún thực tế cho thấy làng nghề đang đứng trước nguy cơ dần bị mai một do nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc sản xuất của làng nghề chủ yếu mang tính chất thủ công với quy mô nhỏ tại các hộ gia đình là chính (Ánh 10), do vốn đầu tư còn ít. Các nghệ nhân, bàn tay vàng ngày một thưa dần do già cả, trong số đó không ít nghệ nhân chưa kịp truyền nghề cho thế hệ sau. ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 Bí quyết làm nghề cũng chỉ truyền cho những người trong gia đình mà không truyền cho người ngoài. Tuy có mở lớp dạy nghề nhưng việc giảng dạy chưa được tỉ mỉ, chi tiết, chưa có sự giúp đỡ của các phương tiện hiện đại nên người học tiếp thu không được đầy đủ. Mẫu mã sản phẩm còn thiếu đa dạng, chưa có sự tìm tòi nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, chưa thực sự coi trọng đến chất lượng sản phẩm nên sản phẩm làm ra chưa đáp ứng được thị hiếu của khách hàng, chưa có chỗ đứng vững trên thị trường. Thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định vẫn chỉ ở trong nước, chưa có thị trường xuất khẩu do thiếu sự hợp tác liên kết với nước ngoài. Sản phẩm sơn mài Chuyên Mỹ phải cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng của làng nghề còn yếu kém (Ảnh 11), thiếu quy hoạch, cách xa đường quốc lộ, việc vận chuyển nguyên vật liệu còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến chi phí sản xuất lớn. Chưa chú ý đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu cho sản phẩm, sản phẩm chỉ được biết đến thông qua hình thức truyền miệng, bị thua thiệt khi cạnh tranh với sản phẩm của các nơi khác. Vấn đề ô nhiễm môi trường của làng nghề chưa được quan tâm, giải quyết triệt để đã ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Trong quá trình sản xuất, lượng rác thải, nước thải và khí thải đổ trực tiếp xuống rãnh xung quanh nơi sản xuất (Ánh 12), chưa có hệ thống xử lý nước thải. Các công đoạn sản xuất hầu hết chưa có trang thiết bị bảo hộ lao động. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải bảo tồn làng nghề, bảo tồn các giá trị truyền thống mà cha ông đã để lại. Đồng thời phải xây dụng làng nghề ngày một phát triển, chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. [1, 2, 9] ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 3.4 Giải pháp bảo tồn làng nghề truyền thống Sơn mài Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội Để làng nghề không bị mai một và biến mất thì trước tiên cần có sự giúp đỡ của các nghệ nhân. Vận động, khuyến khích các nghệ nhân truyền dạy nghề thông qua việc hướng dẫn một cách tỉ mỉ, chi tiết cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện như: máy quay, máy ảnh, máy ghi âm ... Thông qua các buổi nói chuyện giữa các nghệ nhân với các thế hệ trẻ về lịch sử hình thành làng nghề, các công đoạn của nghề, các kỹ năng làm nghề, kỹ thuật để tạo ra một sản phẩm sơn mài độc đáo được lưu truyền mãi m ãi... Khuyến khích các nghệ nhân viết ra những cuốn sách về nghề sẽ đảm bảo cho nghề được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Để làm được điều này cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể, các nhà tài trợ, các nhà xuất bản sách trong nước. Chính quyền địa phương phối hợp với các chủ sản xuất quan tâm xây dựng các xưởng sản xuất, xây dựng trường lớp, mở các lớp dạy nghề để người học nghề được đào tạo bài bản hơn. [9] 3.5 Giải pháp phát triển làng nghề bền vững Không chỉ bảo tồn làng nghề mà còn phải phát triển làng nghề bền vững, để làm được điều này sau đây tôi đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau: - Quy hoạch khu sản xuất và khu dân cư. Hiện nay các cở sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn làng nghề chủ yếu tồn tại dưới hình thức kinh tế hộ gia đình. Đây vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên khó khăn trong việc mở rộng sản xuất đồng thời cũng gây ô nhiễm môi trường. Hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc còn khó khăn, nhiều đoạn còn xuống cấp bất lợi cho việc đi lại, vận chuyển nguyên vật liệu cũng như sản phẩm (Ảnh 13). Vì thế việc quy hoạch tổng thể đóng vai trò rất quan trọng. Mặc dù tại cơ sở sản xuất làng nghề hiện nay thì việc đưa ra quy hoạch là một việc làm khó, cần có thời '/CV/s//// ^7/ỉ/ Q/iYíM/t ////ĩ / X ỉ2 /J - JS„/i /ỉỉộ /ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự 2 gian, cần có sự phối hợp và quan tâm của các cấp, các ngành và phù hợp với quy hoạch phát triển của tỉnh. Nhưng đối với một làng nghề thì đây là hướng giải quyết mà trước sau làng nghề cũng cần thực hiện. Trên cơ sở dự kiến về các quy hoạch, bố trí lại các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm cho môi trường, từ đó quy hoạch lại làng nghề trên cơ sở làng cũ. Để quy hoạch được khu sản xuất tập trung của nghề Sơn mài cần chú ý: + Cần phân chia thành các hộ sản xuất có mức độ ô nhiễm nặng, trung bình và nhẹ nhằm thiết kế một hệ thống xử lý chất thải tập trung. Các hộ có mức độ ô nhiễm nặng hơn nên đặt gần khu vực xử lý hơn nhằm tránh sự phơi bày các chất ô nhiễm, đặc biệt là nước thải, cũng như hạn chế được những ảnh hưởng của hóa chất lên hệ thống cống rãnh dẫn nước thải. + Với các hộ sản xuất có thể trồng cây xanh xung quanh vừa tạo bóng mát, vừa ngăn cản quá trình pháp tán khí vào môi trường không khí. - Quản lý các cơ sở sản xuất thông qua việc: + Thu gom rác thải. Xã nên thành lập tổ vệ sinh môi trường, được trang bị xe chở rác, dụng cụ lao động... Công việc của họ là thu gom, chở rác thải ra bãi rác của xã và nạo vét cống rãnh thoát nước. Việc trả lương cho đội ngũ này được thu từ đóng góp của các hộ dân. Đồng thời ú y ban nhân dân xã cũng cần đưa ra các biện pháp xử phạt hành chính cụ thể đối với hành vi đổ rác bừa bãi ra môi trường. + Bố trí bãi rác hợp vệ sinh. Trong điều kiện hiện tại của địa phương, các loại rác thải sinh hoạt và sản xuất được xả thải bừa bãi ra môi trường như: đường đi, bờ ao, mương... Vì vậy, trước mắt đối với vấn đề này là cần phải lựa chọn, bố trí một bãi đổ rác hợp vệ sinh. + Vệ sinh hệ thống thoát nước. Hệ thống thoát nước tại các xã có đặc trưng là các cống rãnh hở, phân bố cùng với đường làng, đường liên xóm ... do đó để hệ thống hoạt động tốt, lâu dài cần có hình thức vệ sinh thường xuyên. Bùn thải được đưa đến một khu riêng của bãi rác, hệ thống mương rãnh thoát ^7/ỉ/ Q/t/ffi/t ////ĩ/ X J2 /J - JS„/i JC0WW JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 nước tốt nhất là có nắp đậy và phải được cải tạo, nâng cấp để đáp ứng được quy mô phát triển của làng nghề. + Thành lập các bộ phận chuyên trách về môi trường. Trong làng nghề cần có bộ phận chuyên trách về môi trường và an toàn lao động nhằm giám sát và quản lý chất lượng môi trường. Địa phương cần đưa ra các quy định về bảo vệ môi tnrờng, cán bộ kỹ thuật chuyên trách về môi trường sẽ giúp các cấp quản lý nắm vững tình hình thực hiện các vấn đề có liên quan đến môi trường và xử lý chất thải nhằm kịp thời đưa ra những giải pháp mỗi khi có sự cố trong sản xuất ảnh hưởng đến môi trường. Để đảm bảo cho các hoạt động của làng nghề bình thường, chính quyền địa phương cần phối hợp thực hiện với các cơ quan chức năng về quản lý môi trường. Cần xây dựng phương án kiểm tra chất lượng môi trường làng nghề một cách hệ thống và duy trì đều đặn. + Lập quỹ bảo vệ môi trường. Để thực hiện đầy đủ những biện pháp khắc phục các tác động tiêu cực của các hoạt động sản xuất đên môi trường cần có kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường. Hơn nữa việc này còn có tác động đến tâm lý người sản xuất về vấn đề bảo vệ môi trường một cách thường xuyên. Quỹ môi trường này có thể có bằng cách thu từ các hộ sản xuất tùy theo mức độ sản xuất của mỗi hộ. Tuy nhiên do đây chỉ là sản xuất nhỏ nên số kinh phí này cần được hỗ trợ từ nhà nước cũng như các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ môi trường dùng để chi chủ yếu cho: chi cho trồng cây xanh bảo vệ môi trường, chi cho việc vệ sinh môi trường làng nghề, chi cho việc kiểm tra giám sát chất lượng môi trư ờng... + Giáo dục môi trường. Mục đích của việc giáo dục môi trường là tạo nên trong nhân dân ý thức quan tâm đến môi trường. Đây là biện pháp quan trọng để nâng cao ý thức trách nhiệm và hành động để bảo vệ môi trường. Với sự nhận thức và trách nhiệm của mình góp phần vào việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Mục tiêu của giáo dục môi trường: ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i JX/t0tí /ỉỉộ/ỉ fờ í Hự/ỉ/êp > '7/'ỉỉf)fỉự W ậ /2 Giúp người dân có được ý thức về môi trường và các vấn đề liên quan, có thái độ và tình cảm bảo vệ lợi ích môi trường. Với sự nhận thức và trách nhiệm của mình góp phần vào việc bảo vệ và cải thiện môi trường. > Trang bị cho người dân những kiến thức về môi trường chung và những vấn đề giải pháp có liên quan, giúp họ có những trách nhiệm và thói quen cần thiết để có các giải pháp giải quyết về vấn đề môi trường. Đối với làng nghề, cần phải có các biện pháp giáo dục môi trường một cách thường xuyên, từ các cán bộ lãnh đạo địa phương tới những người dân cũng như tới các lao động trực tiếp trong làng nghề. Việc giáo dục này trước mắt bằng các phương tiện thông tin đại chúng như: loa phóng thanh, pano, áp phích, tờ rơ i... tuyên truyền cho mọi người ý thức bảo vệ môi trường trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt, giúp cho mọi người nhận thức được rằng môi trường làm việc và môi trường xung quanh cần được bảo vệ, trước hết là vì lợi ích của chính họ, sau nữa cần phải hiểu được rằng môi trường là tài sản quốc gia cần được bảo vệ, giữ gìn. Sau đó nên tổ chức các lớp tập huấn về môi trường để tạo điều kiện cho các cán bộ địa phương và nhân dân trong làng nắm được nội dung cơ bản của Luật bảo vệ môi trường, nâng cao nhận thức về môi trường sinh thái, từ đó sẽ tự giác chấp hành nghiêm chỉnh những quy định về giữ gìn vệ sinh môi trường và an toàn trong sản xuất, trong lao động. Cần đôn đốc và bắt buộc những người lao động trực tiếp trong các xưởng thực hiện quy định vệ sinh sạch sẽ nơi sản xuất cũng như môi trường xung quanh nhà xưởng. Đối với môi trường trong làng, cần phải tổ chức định kỳ các buổi vệ sinh đường làng, ngõ xóm, nạo vét cống rãnh thoát nước với sự tham gia của toàn bộ nhân dân trong khu vực làng nghề nhằm đảm bảo đường giao thông và môi trường làng nghề sạch sẽ, thông thoáng. Các buổi tổng vệ sinh có thể tổ chức tuần một lần hoặc hai tuần một lần tùy theo lượng giác phát sinh và ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường của người dân. ^7/ỉ/ ữ/iíỉtỉ/t ////ĩ/ X ỉ2 /J - JS„/i
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất