Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập tại nhà trường, để vận dụng những kiến thức đã
học vào thực tiễn, được sự nhất trí của Khoa Kinh Tế Và Phát Triển trường Đại học
Kinh Tế Huế, tôi đã tiến hành nghiên cứu và hoàn thành khóa luận: “Tình hình sản
xuất và tiêu thụ trứng vịt tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An”. Để hoàn thành đề
tài này, ngoài sự cố gắng bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy
cô giáo trong nhà trường cùng các cô, các chú, các anh chị và các bác trong ban
lãnh đạo huyện Yên Thành.
Trước hết, tôi xin cảm ơn quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức cho tôi trong
suốt thời gian học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Huế. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến cô giáo Th.s Phạm Thị Thanh Xuân - người đã trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cô, các chú, các bác trong phòng Nông
Nghiệp huyện Yên Thành đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian thực tập tại phòng Nông Nghiệp.
Xin gửi những lời cảm ơn chân thành tới các hộ sản xuất, các hộ bán lẻ và
các nhà thu gom đã giúp đỡ tôi nhiệt tình trong công tác điều tra thu thập số liệu,
nhằm phục vụ cho việc hoàn thành khóa luận.
Xin cảm ơn những người thân trong gia đình cùng toàn thể bạn bè đã luôn
động viên, khích lệ tôi trong quá trình học tập cũng như trong thời gian thực tập để
hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5/2010
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Ngọc Tú
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
0
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chăn nuôi là một trong những bộ phận cấu thành của nền nông nghiệp. Nó
có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu của con
người, góp phần tạo việc làm tăng thu nhập, khai thác các nguồn lực ở khu vực
nông thôn... Trong những năm qua, ngành chăn nuôi đã có những bước phát triển
mạnh, với tốc độ bình quân 5,4%/năm trong 10 năm từ 1998 - 2008. Nhưng nhìn
tổng thể thì ngành chăn nuôi nước ta nói chung ngành chăn nuôi gia cầm nói riêng
vẫn còn gặp không ít khó khăn. Ngành chăn nuôi nước ta chủ yếu là quy mô nhỏ,
phân tán, chăn nuôi hộ gia đình, tận dụng phế phẩm nông nghiệp, chủ yếu lấy công
làm lãi. Các trang trại chăn nuôi gia cầm với quy mô vừa và lớn mặc dù đã hình
thành tại một số vùng sinh thái, song chiếm tỷ lệ chưa cao, thị trường tiêu thụ sản
phẩm chăn nuôi gia cầm còn khó khăn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ chăn nuôi nhìn
chung còn thấp kém, hầu hết chưa đảm bảo quy trình kỹ thuật, chưa phải là một nền
chăn nuôi chuyên nghiệp có quy mô lớn để giảm giá thành tăng sức cạnh tranh trên
thị trường trong và ngoài nước.
Với dân số hơn 86 triệu dân trong đó trên 70% dân số sống ở khu vực nông
thôn. Nếu như trong những năm 90 nhu cầu tiêu thụ trứng vịt là 6%/năm thì với tốc
độ tăng trưởng dân số 1,25%/năm như hiện nay, dự báo nhu cầu tiêu thụ trứng vịt
trong thời gian tới sẽ tăng ít nhất thêm 5 - 6%/năm. Mặt khác, nền kinh tế sau hơn
20 năm đổi mới cũng mang lại những bước phát triển mới, tạo điều kiện cải thiện
thu nhập của người dân. Một phần của nguồn thu nhập tăng được người tiêu dùng
dành cho thực phẩm chất lượng tốt hơn.
Trứng vịt là một món ăn đầy bổ dưỡng đặc biệt là trứng vịt lộn. Tuy nhiên,
sản phẩm trứng vịt nhất là trứng vịt lộn đến người tiêu dùng còn hạn chế vì sản
phẩm dễ vỡ và khó vận chuyển đi xa nếu không bảo quản đúng cách. Do đó, để sản
phẩm đến với người tiêu dùng với quy mô lớn thì rất nên có các chuỗi cung ứng và
hoàn thiện hơn nữa các kênh phân phối trong chuỗi cung của nó. Và mỗi tác nhân
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
1
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
của chuỗi ngoài kiến thức kĩ thuật còn phải có nhiều về thông tin thị trường, thương
mại để trao đổi, thương lượng, giao dịch nhằm mục đích cuối cùng là hưởng phần
lợi nhuận tạo ra trong toàn chuỗi cung ứng.
Yên Thành là một huyện đồng bằng của tỉnh Nghệ An, có vị trí địa lý thuận
lợi, hệ thống kênh ngòi dày đặc có điều kiện thuận lợi cho việc chăn nuôi thủy cầm.
Hơn nữa, có nhiều giống vịt sinh trưởng nhanh, sức đề kháng với bệnh tật tốt hơn cả
gà, có thể cho tới 300 trứng/năm. Tuy vậy chăn nuôi vịt ở đây chưa thật sự có quy
mô lớn, vẫn còn manh mún nhỏ lẻ, đầu ra của sản phẩm vẫn chưa ổn định. Xuất
phát từ thực tế đó, qua quá trình điều tra tại địa phương, tôi quyết định chọn đề tài:
“Tình hình sản xuất và tiêu thụ trứng vịt tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả chăn nuôi vịt lấy trứng của các nông hộ và tình hình tiêu
thụ trứng vịt trên địa bàn từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm phát triển
ngành chăn nuôi vịt và khả năng tiêu thụ trứng vịt trên địa bàn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận và thực tiễn về tình hình sản xuất và tiêu
thụ trứng vịt.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ trứng vịt của các hộ nông
dân trên địa bàn huyện Yên Thành năm 2009.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ trứng vịt
cho các hộ nông dân ở huyện Yên Thành.
1.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu..
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
2
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
+ Chọn điểm: Tôi tiến hành chọn 3 xã của huyện Yên Thành có tỷ lệ hộ nuôi
vịt nhiều nhất theo thống kê của huyện.
+ Chọn mẫu: Trong 3 xã chọn điều tra tôi tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên ở
xã Khánh Thành 27 hộ, xã Nam Thành 20 hộ và 13 hộ ở xã Tân Thành.
+ Thu thập số liệu:
* Số liệu sơ cấp: Để có đủ thông tin cho việc nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến
hành phỏng vấn trực tiếp các hộ nuôi vịt ở địa phương năm 2009 theo bản hỏi được
thiết kế sẵn. Ngoài ra để đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm trứng vịt, tôi điều tra
phỏng vấn hộ thu gom sỉ, lẻ trên địa bàn.
* Số liệu thứ cấp được thu thập từ: Niên giám thống kê của huyện, trên
internet và qua các báo cáo hàng năm của các xã điều tra.
+ Xử lý số liệu: Tôi xử lý số liệu trên Excel.
- Phương pháp thống kê kinh tế: Kết hợp với các phương pháp khác, phương
pháp thống kê được sử dụng để phục vụ cho việc thu thập, tổng hợp và phân tích
các thông tin, số liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống.
- Các phương pháp so sánh: Dùng phương pháp này để so sánh kết quả các
trị số của các chỉ tiêu như: Diện tích, sản lượng, giá trị sản lượng … của các đối
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp sơ đồ: Sử dụng sơ đồ trong đề tài để mô tả các kênh tiêu thụ
trứng vịt từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng.
- Phương pháp phân tích chuỗi cung
Trên cơ sở các thông tin, số liệu thu thập được, thông qua việc xây dựng
chuỗi cung sản phẩn trứng vịt cung cấp cho các lò ấp, người tiêu dùng... nghiên cứu
phân tích, đánh giá từng tác nhân trong chuỗi, những thuận lợi, khó khăn của các
tác nhân. Trên cơ sở đó đưa ra các nhận định, biện pháp nhằm tăng hoạt động của
từng tác nhân, giúp chuỗi hoạt động bền vững.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
- Phương pháp phân tổ thống kê.
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
3
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
1.4 PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Do giới hạn về thời gian cũng như kinh nghiệm thực
tế nên đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu tình hình nuôi vịt lấy trứng quy mô lớn
ở các hộ thuộc 3 xã: Khánh Thành, Nam Thành, Tân Thành.
- Phạm vi thời gian:
+ Số liệu thứ cấp được thu thập qua các năm: 2007 - 2009
+ Số liệu sơ cấp được điều tra hộ nuôi vịt trong năm 2009
1.4.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là các hộ nông dân, các nhà thu gom trứng,
người bán lẻ ở các chợ và các vấn đề liên quan đến chuỗi cung sản phẩm.
1.5 GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
- Do thời gian có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu trên 3 xã, đây là
những xã mà theo nguồn thống kê của huyện thì tỷ lệ hộ nuôi vịt chiếm phần lớn
trong toàn huyện.
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành đề tài mặc dù bản thân đã cố gắng
nhưng do thời gian có hạn, năng lực còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong sự giúp đỡ, đóng góp của quý thầy cô và bạn đọc để đề tài được hoàn
thiện hơn.
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
4
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản:
Hiệu quả kinh tế:
Ngày nay, bất kì sản xuất trên lĩnh vực nào thì hiệu quả kinh tế luôn được coi
trọng và là mục tiêu phấn đấu hàng đầu của các doanh nghiệp. Có nhiều quan điểm
khác nhau về hiệu quả kinh tế. Ở mỗi góc độ, mỗi quan điểm có một cách nhìn nhận
khác nhau.
Theo T.S Nguyễn Tiến Mạnh thì: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế khách
quan phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được những mục tiêu xác
định. Theo Farell (1957) và một số nhà kinh tế khác như Schultz (1964), Rizzo
(1979), Ellis (1993)... Thì cho rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi việc so
sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra (gồm nhân tài, vật lực và tiền vốn...) để
đạt được kết quả đó. Các học giả trên đều cho rằng hiệu quả kinh tế là phạm trù
kinh tế mà trong đó sản xuất đạt được hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân phối. Điều
đó có nghĩa là khi tiến hành xem xét việc sử dụng các yếu tố nguồn lực phục vụ sản
xuất chúng ta phải tính đến cả hai yếu tố hiện vật và giá trị.
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi
phí đầu vào hay nguồn lực được sử dụng vào sản xuất trong điều kiện cụ thể về
nguồn lực hay công nghệ áp dụng. Hiệu quả kỹ thuật chủ yếu xem xét về mặt vật
chất của quá trình sản xuất, nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn lực được đưa vào sản
xuất có khả năng cho thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm.
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
5
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
Hiệu quả phân phối (hay còn gọi là hiệu quả về giá) là chỉ tiêu hiệu quả trong
đó cả yếu tố giá sản phẩm và giá các yếu tố đầu vào được tính đến để phản ánh giá
trị sản phẩm thu thêm được trên một đồng chi phí về đầu vào hay nguồn lực được
sử dụng. Thực chất của hiệu quả phân phối là hiệu quả kỹ thuật có tính đến giá của
các yếu tố đầu vào, giá sản phẩm bán ra. Hay nói cách khác, trên cơ sở giá cả các
yếu tố đầu vào, giá cả sản phẩm bán ra để phân bổ các yếu tố đầu vào theo tỷ lệ hợp
lý để tối đa hóa lợi nhuận thu được. Tức là giá trị biên của sản phẩm sản xuất ra
phải bằng giá trị biên của các nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh tế:
- Sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực hiện có.
- Thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đẩy nhanh
quá trình CNH - HĐH.
- Phát triển kinh tế với tốc độ nhanh.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ là tất cả các hoạt động liên quan đến sự lưu chuyển của hàng hoá và
dịch vụ từ người cung cấp đến tay người tiêu dùng cuối cùng để thoả mãn nhu cầu
của người tiêu dùng thông qua trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
Thực chất của tiêu thụ sản phẩm là quá trình người sản xuất sử dụng các
trung gian hoặc trực tiếp giao quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng
cuối cùng, đồng thời tạo doanh thu thông qua việc thu tiền hoặc nhận quyền thu tiền
hàng hoá, dịch vụ đã bán.
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc thù của nền king tế quốc
dân, có nhiều điểm rất khác biệt so với các ngành sản xuất vật chất khác. Do vậy
sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp cũng mang những nét đặc thù riêng.
1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi vịt bền vững
Để phát triển chăn nuôi bền vững, mang lại hiệu quả cao, người chăn nuôi
từng bước phải đi đến phương thức chăn nuôi nhốt tập trung qui mô và có kiểm soát
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
6
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
dịch bệnh, xây dựng mô hình chăn nuôi vịt theo hướng an toàn sinh học. Nhằm để
thay đổi tập quán của người nuôi, đồng thời nâng cao hiệu quả chăn nuôi vịt cho hộ
gia đình, người chăn nuôi cần lưu ý mấy vấn đề sau đây:
1.1.2.1. Vấn đề con giống
Phải đảm bảo nguồn con giống sạch bệnh, đồng đều về ngày tuổi, thể trạng
sức khỏe. Muốn đạt được điều này thì con giống phải có xuất xứ rõ ràng: từ đàn bố
mẹ đã được tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin ngừa bệnh, đảm bảo chuồng trại
chăn nuôi hợp vệ sinh, đúng qui trình kỹ thuật. Đối với các lò ấp trứng phải đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật và phải có qui trình vệ sinh định kỳ lò ấp. Đặc biệt, lò ấp phải được
cơ quan thú y chứng nhận đạt yêu cầu.
1.1.2.2. Vấn đề chuồng trại
Để đảm bảo đúng theo yêu cầu kỹ thuật trong chăn nuôi thì chuồng nuôi phải
cách xa khu nhà ở, xa trục lộ chính. Chuồng nuôi phải đảm bảo an toàn vệ sinh dịch
tể, phải cách ly với môi trường xung quanh.
1.1.2.3. Vấn đề thức ăn
Đối với chăn nuôi gia cầm nói chung, thức ăn và nước uống rất quan trọng và
nhạy cảm. Đặc biệt trong giai đoạn nhỏ ngày tuổi. Việc thay đổi thức ăn thường
xuyên hoặc trong điều kiện chăn nuôi thiếu nước uống hoặc không đảm bảo chất
lượng, kém vệ sinh sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng sức khỏe, khả năng tăng
trọng. Điều này sẽ là yếu tố thuận lợi cho bệnh phát sinh.
1.1.2.4. Chăm sóc nuôi dưỡng
Để đảm bảo gia cầm phát triển tốt, không xảy ra dịch bệnh ngoài các yếu tố
kể trên thì vấn đề chăm sóc cũng rất quan trọng quyết định hiệu quả chăn nuôi.
Muốn đạt được kết quả cao thì từ giai đọan úm đến khi chăn thả cần phải lưu ý đến
nhiệt độ, ẩm độ chuồng nuôi, gió lùa,thức ăn, nước uống phải đảm bảo hợp vệ sinh,
đủ nhu cầu dinh dưỡng cho từng giai đoạn, hạn chế tối đa trường hợp thay đổi thức
ăn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng làm ảnh
hưởng đến khả năng tăng trọng và dễ nhiễm bệnh
1.1.2.5. Vấn đề thuốc thú y
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
7
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
Đảm bảo tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin theo khuyến cáo của cơ quan thú
y địa phương, cần tăng cường các loại kháng sinh và thuốc bổ, thuốc trợ sức định
kỳ trong trường hợp thời tiết thay đổi bất lợi cho đàn.
Để đảm bảo chăn nuôi thành công, người chăn nuôi nên tuân thủ đúng theo
quy trình kỹ thuật, đồng thời khuyến cáo và nhắc nhở những hộ chăn nuôi lân cận
áp dụng đúng qui trình kỹ thuật trong chăn nuôi để cùng nhau chăn nuôi mang lại
hiệu quả cao.
Để đạt được kế hoạch phát triển chăn nuôi theo hướng bền vững, các cấp, các
ngành cần phải phối hợp thực hiện triệt để các giải pháp đầu tư và tổ chức thực hiện
tốt, có định hướng chung cùng với sự tác động và những chính sự tác động và
những chính sách đúng mức, phù hợp của ngành Nông nghiệp và phát triển nông
thôn của huyện cũng như của tỉnh Nghệ An.
1.1.3 Giá trị kinh tế của trứng vịt
1.1.3.1 Giá trị dinh dưỡng
Trứng gồm lòng đỏ và lòng trắng. Lòng đỏ tập trung chủ yếu các chất dinh
dưỡng; Lòng đỏ trứng gà có 13,6% đạm, 29,8% béo và 1,6% chất khoáng. Chất
đạm trong lòng đỏ trứng có thành phần các acid amin tốt nhất và toàn diện nhất.
Thành phần của lòng trắng trứng đa số là nước, có 10,3% chất đạm, chất béo và rất
ít chất khoáng.
Chất đạm của lòng đỏ trứng chủ yếu thuộc loại đơn giản và ở trạng thái hòa
tan; Còn chất đạm của lòng trắng chủ yếu là Albumin và cũng có thành phần các
acid amin tương đối toàn diện. Chất đạm của trứng là nguồn cung cấp rất tốt các
acid amin cần thiết có vai trò quan trọng cho cơ thể, đặc biệt cần cho sự phát triển
cả về cân nặng và chiều cao của trẻ.
Trứng có nguồn chất béo rất quí, đó là Lecithin vì Lecithin thường có ít ở các
thực phẩm khác. Lecithin tham gia vào thành phần các tế bào và dịch thể của tổ
chức, đặc biệt là tổ chức não. Nhiều nghiên cứu cho thấy Lecithin có tác dụng điều
hòa lượng cholesterol, ngăn ngừa tích lũy cholesterol, thúc đẩy quá trình phân tách
cholesterol và bài xuất các thành phần thu được ra khỏi cơ thể. Trứng cũng chứa
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
8
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
lượng cholesterol đáng kể (600mg cholesterol/100g trứng gà), nhưng lại có tương
quan thuận lợi giữa Lecithin và cholesterol do vậy Lecithin sẽ phát huy vai trò điều
hòa cholesterol, ngăn ngừa quá trình xơ vữa động mạch và đào thải cholesterol ra
khỏi cơ thể.
Trứng cũng là nguồn cung cấp vitamin và chất khoáng rất tốt. Các chất
khoáng như sắt, kẽm, đồng, mangan, iod... tập trung hầu hết trong lòng đỏ. Lòng đỏ
trứng có cả các vitamin tan trong nước (B1, B6) và vitamin tan trong dầu (Vitamin
A, D, K). Trong lòng trắng trứng chỉ có một ít vitamin tan trong nước (B2, B6). Cả
trong lòng đỏ và lòng trắng trứng đều có chất Biotin. Biotin là vitamin B8, tham gia
vào chu trình sản xuất năng lượng để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Trong lòng trắng
trứng tươi, chất Biotin kết hợp với một protein là Avidin làm mất hoạt tính của
Biotin, tạo phức hợp Biotin - Avidin rất bền vững và không chịu tác dụng của men
tiêu hóa. Khi nấu chín, Avidin sẽ được giải phóng khỏi phức hợp Biotin - Avidin.
1.1.3.2 Giá trị công nghiệp
- Làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, như để làm nguyên liệu chế
biến bánh kẹo...
1.1.3.3 Giá trị kinh tế
Ngành chăn nuôi thủy cầm nói chung và chăn nuôi vịt lấy trứng nói riêng đã
đem lại nguồn thu nhập lớn cho người dân. Qua các tài liệu nghiên cứu thì nuôi vịt
lấy trứng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất vì có nhiều giống vịt sinh trưởng
nhanh, sức đề kháng với bệnh tật tốt hơn cả gà, có thể cho tới 300 trứng/năm/con
mái.
Sản phẩm trứng vịt đã được xuất khẩu ra các nước trên thế giới dưới nhiều
hình thức chế biến khác nhau. Đặc biệt là trong mấy năm gần đây sản phẩm trứng
vịt muối đã được xuất khẩu rất nhiều nhất là vào dịp trung thu. Với sản phẩm trứng
muối ngon hơn còn nhờ độ tươi, so trứng muối cùng loại của một nước lớn trong
khu vực sản xuất từ vịt nuôi công nghiệp, chất lượng không thể sánh bằng bởi lòng
đỏ trứng bở rời, do ảnh hưởng từ thức ăn công nghiệp. Hơn nữa, nhờ uy tín sản
phẩm duy trì chất lượng, kết quả kiểm dịch thường xuyên đảm bảo trứng không
nhiễm sudan, melamine... nên hiện thời trứng vịt muối Việt Nam luôn được tiêu thụ
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
9
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
mạnh trong các nhà hàng, khách sạn ở Singapore, dù đắt giá hơn 20% so sản phẩm
cùng loại từ các nước khác mà vẫn được chấp nhận. Trứng vịt muối hiện tại và
tương lai sẽ là một trong những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của nước ta còn
nhiều tiềm năng phát triển hơn nữa.
1.1.4 Chuỗi cung sản phẩm
1.1.4.1 Khái niệm Chuỗi cung sản phẩm
Chuỗi cung bao gồm tất cả các Doanh nghiệp tham gia một cách trực tiếp
hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Bên trong mỗi tổ chức chẳng
hạn nhà sản xuất, chuỗi cung bao gồm tất cả các chức năng liên quan đến việc nhận
và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Những chức năng này không hạn chế, phát triển
sản phẩm mới, marketing, sản xuất, phân phối, tài chính và dịch vụ khách hàng.
(Bài giảng Marketting Nông nghiệp - Th.s Nguyễn Cường - 2006 - ĐH Kinh Tế
Huế)
Trong định nghĩa trên nói rõ ba vấn đề sau đây: Thứ nhất, thành phần của
chuỗi cung bao gồm các doanh nghiệp tham gia trực tiếp và gián tiếp trong việc đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng, đóng vai trò làm cầu nối cho người sản xuất và người tiêu
dùng; Thứ hai, nói về mối quan hệ đồng thời cùng các dòng chảy bên trong chuỗi
cung như: dòng thông tin, dòng thanh toán, dòng chuyển quyền sở hữu...; Thứ ba,
nói về các vai trò và chức năng phân phối trong toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ.
Đây là một định nghĩa tổng quát nói lên đầy đủ bản chất của chuỗi cung sản
phẩm hàng hóa - dịch vụ trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Như vậy, thực chất của việc phân tích chuỗi cung là việc phân tích chuỗi quá
trình tiêu thụ sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
1.1.4.2 Các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm
Chuỗi cung sản phẩm gồm các tác nhân: Cơ sở cung cấp các dịch vụ đầu vào,
hộ sản xuất, người mua gom, người bán lẻ và người tiêu dùng. Được thể hiện qua sơ
đồ 1.
Khái niệm các tác nhân:
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
10
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
- Cơ sở cung cấp các dịch vụ đầu vào: là những cơ sở cung cấp cho hộ sản
xuất những yếu tố đầu vào như giống, thức ăn công nghiệp (đã qua chế biến mang
tính công nghiệp, thú y (dịch vụ thú y, thuốc phòng, trị bệnh dịch...).
Người tiêu dùng
(3)
Cơ sở thu gom
(7)
(4)
Người bán lẻ
(5)
(2)
(6)
Hộ sản xuất
9
97
0
(1)
Cơ sở cung cấp dịch
vụ đầu vào
(1
Sơ đồ 1: Chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp
- Hộ sản xuất: là những gia đình hoặc cơ sở sản xuất cung cấp sản phẩm cho
thị trường.
Hộ sản xuất hoặc cơ sở sản xuất nhận các đầu vào từ các cơ sở cung cấp dịch
vụ đầu vào như giống, thức ăn công nghiệp, thú y... phối hợp với các nguồn lực sẵn
có của hộ như lao động gia đình, chuồng trại chăn nuôi... để tổ chức sản xuất cung
cấp sản phẩm cho thị trường.
- Người mua gom: là những người trung gian đầu mối, tổ chức thu mua sản
phẩm của các hộ hoặc các cơ sở sản xuất, sau đó gom về một địa điểm để bán lại
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
11
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
cho các nhà bán lẻ khác.
- Người bán lẻ: là những người mua sản phẩm qua các hộ thu gom trung gian
hoặc là đến trực tiếp hộ sản xuất thu gom rồi đem trực tiếp ra thị trường bán.
- Người tiêu dùng (cá nhân, gia đình, quán, nhà hàng...): là những người
hoặc cơ sở tiêu thụ sản phẩm các loại của người bán lẻ hoặc hộ thu gom.
Đối với người tiêu dùng là các quán, nhà hàng thì yêu cầu khá cao về chất
lượng từ các hộ thu gom hoặc người bán lẻ. Do đây là những cơ sở tiêu thụ chính
nhưng chưa phải là người tiêu dùng cuối cùng. Người tiêu dùng cuối cùng của họ là
những khách hàng. Người tiêu dùng này dựa trên uy tín, sự quen biết làm cơ sở để
hình thành mối quan hệ bạn hàng.
Trong sơ đồ 1, tất cả các sản phẩm để đến được tay người tiêu dùng thường
qua một vài hình thức của chuỗi cung ứng, có một số thì lớn hơn và một số thì phức
tạp hơn nhiều. Chúng ta thấy chỉ có một người tạo ra lợi nhuận cho toàn chuỗi đó là
người tiêu dùng cuối cùng. Khi các khâu riêng lẻ trong chuỗi cung ứng ra quyết
định kinh doanh mà không quan tâm đến các thành viên khác trong chuỗi, điều này
dẫn đến giá bán cuối cùng cho người tiêu dùng là rất cao.
1.1.4.3 Mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm
Dựa vào sơ đồ 1, ta thấy có 7 mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi:
(1)
Quan hệ giữa cơ sở cung cấp Dịch vụ đầu vào với hộ sản xuất
(2)
Quan hệ giữa hộ sản xuất với Cơ sở thu gom
(3)
Quan hệ giữa hộ thu gom với người tiêu dùng
(4)
Quan hệ giữa hộ thu gom với người người bán lẻ
(5)
Quan hệ giữa hộ sản xuất với người tiêu dùng
(6)
Quan hệ giữa hộ sản xuất với người bán lẻ
(7)
Quan hệ giữa hộ bán lẻ với người tiêu dùng
1.1.5 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
1.1.5.1 Chỉ tiêu đánh giá quy mô chăn nuôi:
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
12
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
Là chỉ tiêu biểu hiện mức độ, số lượng vật nuôi, mức đầu tư tư liệu sản
xuất... trong một thời gian nhất định của một vùng, một địa phương hay một hộ gia
đình nào đó.
1.1.5.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả
- Tổng giá trị sản xuất (GO):
Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ do các cơ
sở sản xuất thuộc tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân tạo ra được
trong một chu kỳ nhất định thường là một năm.
GO = ∑Pi*Qi
Trong đó:
Pi: Đơn giá/ sản phẩm thứ i
Qi: Khối lượng sản phẩm thứ i
- Chi phí trung gian (IC):
Chi phí trung gian là một bộ phận cấu thành của tổng giá trị sản xuất bao
gồm toàn bộ chi phí thường xuyên về vật chất (không kể khấu hao TSCĐ) và chi
phí dịch vụ (sản phẩm vật chất và phi vật chất) được sử dụng để sản xuất ra sản
phẩm vật chất và dịch vụ khác của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm). Chi phí trung gian bao gồm:
+ Chi phí vật chất: Là chi phí do hộ gia đình bỏ ra không qua các hoạt động
dịch vụ, bao gồm: chi phí giống, chi phí thức ăn chăn nuôi, điện, nước, các công cụ
lao động rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm...
+ Chi phí dịch vụ: Là chi phí cần qua các hoạt động dịch vụ, bao gồm: Thuê
lao động, chi phí thú y, chi trả tiền lãi vay, các chi phí dịch vụ khác...
- Giá trị gia tăng (VA):
Là chỉ tiêu phản ánh những phần giá trị do lao động sáng tạo ra trong một
thời kỳ nhất định. Đó chính là một bộ phận còn lại của giá trị sản xuất sau khi trừ đi
chi phí trung gian.
∑VA = ∑GO - ∑IC
- Thu nhập hỗn hợp (MI):
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
13
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
Đó là phần còn lại của giá trị gia tăng sau khi đã trừ đi khấu hao và thuế.
∑MI = ∑VA - Khấu hao - Thuế
- Lợi nhuận kinh tế (Pr):
∑Pr = ∑MI - chi phí lao động
1.1.5.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
- Giá trị sản phẩm chăn nuôi tính cho 1 lao động, 1 ngày công
(GO/ngày/người): Chỉ tiêu này cho biết 1 ngày 1 người lao động tạo ra bao nhiêu
đồng giá trị sản xuất.
- Giá trị sản phẩm chăn nuôi tính cho một đồng chi phí (GO/IC): Chỉ tiêu
này cho biết một đồng chi phí trung gian tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản
xuất.
- VA/IC (Hiệu suất chi phí gia tăng theo giá trị gia tăng): Chỉ tiêu này mang
tính tổng hợp cho biết việc bỏ ra một đồng chi phí trung gian thu được bao nhiêu
đồng giá trị gia tăng. Đây là chỉ tiêu quan trọng để lựa chọn phương án đầu tư tốt
nhất trong giới hạn nguồn lực chi phí.
- MI/IC: Chỉ tiêu này cho biết việc bỏ ra một đồng chi phí trung gian thì thu
được bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp.
- Pr/TC: Chỉ tiêu này cho biết việc bỏ ra một đồng tổng chi phí thì thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Giá thành sản phẩm chăn nuôi = Tổng chi phí / Tổng khối lượng sản phẩm
tạo ra.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Tình hình chăn nuôi vịt lấy ở các nước nhiệt đới ẩm
Chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi vịt nói riêng ở các nước nhiệt đới
có những nét khác biệt với tình hình chung của thế giới. Quá trình thương mại hóa
chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi vịt nói riêng mới bắt đầu phát triển trong
thời gian gần đây. Ở các nước này trong một chừng mực nào đó, có sự trái ngược
với các nước đã nói trên. Chăn nuôi gia cầm công nghiệp trong tình trạng thiếu vốn,
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
14
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
bao gồm nhiều đơn vị sản xuất nhỏ, lao động chủ yếu trông chờ vào lao động thủ
công... Vì vậy ngành chăn nuôi gia cầm nói chung và ngành chăn nuôi vịt nói riêng
diễn ra ở trình độ thấp, giá thành sản phẩm gia cầm còn cao. Đặc biệt bệnh tật, rủi
ro xảy ra thường xuyên đối với đàn gia cầm. Dịch cúm gia cầm H5N1 trong các
năm 2003 đến nay đã gây hậu quả nghiêm trọng và tổn thất lớn về kinh tế không chỉ
cho các nước ở khu vực này mà còn ảnh hưởng đến kinh, tế xã hội và sức khỏe con
người trên phạm vi toàn thế giới. Các yếu tố đó dẫn đến mức tiêu thụ sản phẩm gia
cầm ở các nước này còn thấp. Ví dụ: Ước lượng vài năm gần đây ở Nigieria, mức
tiêu thụ trứng chỉ khoảng 20 - 25 quả/người/năm, trong khi đó ở Châu Âu và Châu
Mỹ khoảng 250 - 300 quả/người/năm.
Chăn nuôi gia cầm mà cụ thể là chăn nuôi vịt ở các nước này là đơn điệu, chỉ
nhấn mạnh sản xuất trứng là chính. Qua các tài liệu nghiên cứu thì nuôi vịt lấy
trứng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất vì có nhiều giống vịt sinh trưởng nhanh,
sức đề kháng với bệnh tật tốt hơn cả gà, có thể cho tới 300 trứng/năm/con mái. Tuy
nhiên chăn nuôi vịt chưa được nuôi rộng rãi.
1.2.2 Tình hình chăn nuôi vịt lấy trứng ở Việt Nam
Chăn nuôi vịt là một nghề truyền thống khá phát triển ở nước ta. Tổng đàn
vịt hiện nay ở Việt Nam khoảng 44 triệu con, chỉ đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Trong
đàn vịt thì vịt hướng trứng chiếm tới 63%, gắn với phương thức chăn nuôi thả đồng
thời vụ là chính. Nuôi nhốt kiểu công nghiệp chỉ ở vịt giống và các giống vịt cao
sản mới nhập vào trong những năm gần đây.
Ở Việt Nam trước đây, chăn nuôi vịt nói riêng ngành chăn nuôi gia cầm nói
chung mang tính tự cấp tự túc, chưa có ý nghĩa như là một ngành sản xuất hàng hóa.
Nhưng từ năm 1996, cùng với sự đổi mới kinh tế đất nước, ngành chăn nuôi gia
cầm nói chung và ngành chăn nuôi vịt nói riêng đã có những bước tiến nhảy vọt.
Nhiều giống vịt siêu trứng, siêu thịt được nhập vào nước ta. Tuy vậy, dịch cúm gia
cầm trong các năm 2003 - 2005 và ngay cả hiện tại đã và đang gây tổn thất lớn cho
ngành chăn nuôi nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Phân bố đàn vịt: Đàn vịt chủ yếu tập trung ở đồng bằng Sông Cửu Long
(chiếm khoảng 55%), còn lại phân bố ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
15
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
Ngành chăn nuôi vịt trong những năm gần đây đạt được những thành tựu to
lớn, tuy vậy còn gặp không ít khó khăn. Ngành chăn nuôi gia cầm nói chung và
chăn nuôi vịt nói riêng của nước ta chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, chăn nuôi hộ
gia đình, tận dụng phế phẩm nông nghiệp. Các trang trại chăn nuôi vịt lấy trứng quy
mô vừa và nhỏ mặc dù đã hình thành tại một số vùng sinh thái song tỷ lệ chưa cao,
thị trường tiêu thụ sản phẩm trứng vịt còn khó khăn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ chăn
nuôi nhìn chung còn thấp kém, hầu hết chưa đảm bảo quy trình kỹ thuật. Nguy cơ
dịch bệnh đối với đàn vịt và an toàn thực phẩm cho con người ngày càng nghiêm
trọng.
Tình hình phát triển đàn gia cầm ở nước ta trong những năm 2007 - 2009
được biểu hiện cụ thể dưới bảng sau:
Bảng 1: Tình hình phát triển đàn gia cầm ở nước ta 2007 - 2009
Chỉ tiêu
ĐVT
2007
2008
2009
1. Tổng đàn gia cầm
Nghìn con 226029 247320 256076
Đồng bằng Sông Hồng
Nghìn con
64303
68640
69540
Trung Du và Miền Núi Phía Bắc
Nghìn con
51693
55447
57224
Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung
Nghìn con
49889
52509
55112
Tây Nguyên
Nghìn con
8159
9552
10100
Đông Nam Bộ
Nghìn con
12118
13645
14600
Đồng bằng Sông Cửu Long
Nghìn con
39867
47527
49500
2. Sản lượng trứng
Triệu quả
4465,8
4937,6
5066,9
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Qua bảng trên ta thấy, nhìn chung tổng đàn gia cầm của cả nước qua 3 năm
2007 - 2009 đều tăng nhưng tốc độ tăng từ năm 2007 đến năm 2008 cao hơn năm
2008 đến năm 2009. Cụ thể như sau: tổng đàn gia cầm của nước năm 2007 là
226029 nghìn con. Năm 2008, tổng đàn gia cầm là 247320 nghìn con tăng 9,42 %
so với năm 2007. Sang năm 2009 thì đàn gia cầm của cả nước là 256076 nghìn con
tăng 3,54 % so với năm 2008.
Trong cả nước thì các tỉnh ở miền Bắc nuôi nhiều nhất chiếm 49,5% trong
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
16
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
tổng số đàn gia cầm. Nuôi ít nhất là các tỉnh ở miền Trung chiếm 21,52 % trong
tổng số đàn gia cầm của cả nước.
Việt Nam là một nước đất chật người đông, có nhiều chợ đầu mối lớn ở các
cửa khẩu, có vị trí địa lí thuận lợi...nên đây là thị trường tiêu thụ trứng vịt tiềm năng
cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, từ khoảng giữa cuối năm 2007 đến nay, phong
trào chăn nuôi vịt có phần chìm lắng vì giá thức ăn liên tục leo thang. Trứng vịt thì
lúc giá cao, lại không có mà bán. Lúc vịt đẻ rộ, thì giá rớt. Cộng với nghề chăn nuôi
vịt chạy đồng, phụ thuộc quá nhiều vào may rủi. Dịch bệnh luôn chực chờ bùng
phát và có thể bị tiêu hủy cả đàn bất cứ lúc nào v.v.. và v.v.. Cho nên hai năm trở lại
đây, tổng đàn vịt đã giảm nhiều. Trong năm 2009 vừa qua, giá bán trứng vịt lúc cao
lúc thấp. Có lúc đạt gần 2.000 đồng/trứng, nhưng cũng có thời điểm giá sụt xuống
còn 1.200 đồng/trứng. Nghề chăn nuôi vịt thật sự rất bấp bênh.
Vào đầu tháng 01/2010, một hướng mở với nhiều triển vọng cho người chăn
nuôi vịt đẻ. Chuỗi liên kết đã có doanh nghiệp tham gia. Một buổi lễ ký kết hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm trứng vịt giữa Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Ba Huân và
nông dân nuôi vịt đã thực sự tạo an tâm cho nông dân. Giám đốc Phạm Thị Huân
cho biết, với loại trứng tươi và sạch, trọng lượng trứng đạt từ 55g trở lên, Công ty
mua với giá cao hơn thị trường từ 50 - 100 đồng/trứng.[1]
Hy vọng rằng, với những tín hiệu này, sẽ góp phần giúp thị trường nông sản
bước vào năm mới, với nhiều khởi sắc và ổn định.
1.2.3 Tình hình nuôi vịt lấy trứng ở Nghệ An
Nghệ An có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.649.853 ha, được coi là lớn nhất
trong cả nước với dân số 2.913.055 người năm 2009, với lượng sinh viên rất đông
đảo ở các trường đại học (đại học Vinh, đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Vinh...), cao
đẳng (cao đẳng kinh tế, cao đẳng Y...) và rất nhiều sinh viên ở các trường trung cấp
nghề ở các tỉnh khác trên cả nước tập trung về đây học tập đã đem lại cho Nghệ An
một lượng khách hàng lớn trong việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ở Nghệ An
(ở thành phố Vinh). Một trong những sản phẩm mà được sinh viên nói riêng và
người tiêu dùng nói chung lựa chọn đó là sản phẩm trứng vịt. Nắm bắt được tình
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
17
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
hình trên nhiều địa phương ở Nghệ An đã có hướng chuyển đổi phù hợp với nhu
cầu thị hiếu của khách hàng. Một trong những địa phương đó là huyện Yên Thành.
Nghệ An là một thị trường đầy tiềm năng trong việc tiêu thụ trứng vịt. Các
chợ lớn như: Chợ Hôm, chợ Vinh, Chợ Hưng Dũng, Chợ Đại Học... là nơi tiêu thụ
rất mạnh trứng vịt, trứng vịt lộn. Đặc biệt ở thành phố Vinh - nơi tập trung nhiều
dân cư, nhiều nhà hàng, quán ăn và sinh viên ở các trường học nên lượng trứng vịt
được tiêu thụ rất mạnh. Chính vì vậy nó đã đem lại một nguồn thu nhập không nhỏ
cho người dân.
Hiện nay vẫn chưa thống kê được số hộ nuôi vịt lấy trứng trong toàn tỉnh vì
chủ yếu người dân nuôi theo kiểu tự phát, một phần nữa là do dịch cúm gia cầm
bùng phát ngày càng nhiều nên số hộ sản xuất bỏ cũng rất nhiều. Sau khi bỏ nuôi
một thời gian có hộ nuôi lại có hộ bỏ nuôi hẳn luôn. Tình hình phát triển đàn gia
cầm của tỉnh từ năm 2007 - 2009 được thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình phát triển đàn gia cầm ở Nghệ An qua 3 năm ( 2007 - 2009)
Chỉ tiêu
1. Tổng
ĐGC
2. SL
trứng
ĐVT
2007
2008
2009
Con
10.967
12.599
14.320
2008/2007
2009/2008
±
%
±
%
1.632
14,9
1.721
13,7
235.478
13,7
Trứng 1500573 1723873 1959351 223.300 14,9
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng đàn gia cầm của tỉnh tăng dần qua 3 năm,
năm 2007 đàn gia cầm của tỉnh là 10.967 con đạt sản lượng trứng là 1.500.573
trứng, năm 2008 là 12.599 con tăng 14,9 % so với năm 2007. Đến năm 2009 tổng
đàn gia cầm của tỉnh là 14.320 con tăng 13,7 % so với năm 2008 và đạt sản lượng
trứng là 1.959.351 trứng.
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
18
Khãa LuËn Tèt NghiÖp
Khoa Kinh TÕ Vµ Ph¸t TriÓn
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ TRỨNG VỊT
CỦA CÁC HỘ NÔNG DÂN Ở HUYỆN YÊN THÀNH
2.1 TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1 Vị trí địa lý
Yên Thành là một huyện đồng bằng của Nghệ An, cách Quốc lộ 1A khoảng
6km, có Quốc lộ 7 đi qua. Trung tâm của huyện (Thị Trấn Yên Thành) có tỉnh lộ
534 và tỉnh lộ 538 đi qua, điều kiện giao thông rất thuận lợi cho việc giao lưu, phát
triển kinh tế với các xã và các huyện lân cận, có tiềm năng tạo ra thế và lực mới để
có thể phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn so với mức bình quân
chung của huyện.
Phía Bắc giáp huyện Quỳnh Lưu
Phía Tây giáp huyện Tân Kỳ, Đô Lương, Nghĩa Đàn
Phía Đông giáp huyện Diễn Châu
Phía Nam giáp huyện Nghi Lộc, Đô Lương
Về tổ chức hành chính, Yên Thành có 39 xã thị trong đó có 1 thị trấn, 22 xã
đồng bằng và 16 xã vùng núi thấp.
Yên Thành có con sông Đào đi qua, là nơi cung cấp nguồn nước tưới tiêu chủ
yếu cho toàn huyện.
2.1.1.2 Thời tiết và khí hậu
Điều kiện khí hậu thời tiết của huyện Yên Thành tương tự các huyện khác
trên địa bàn tỉnh Nghệ An, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mang
tính chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và khí hậu miền Nam. Từ tháng 4 đến tháng
8 chịu tác động trực tiếp của gió mùa Tây Nam khô và nóng, từ tháng 11 đến tháng
3 năm sau chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc lạnh và ẩm.
* Nhiệt độ:
- Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23,5 oC.
Lª ThÞ Ngäc Tó - K40A KTNN
19
- Xem thêm -