Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát thực trạng từ điển đồng nghĩa tiếng việt hiện nay...

Tài liệu Khảo sát thực trạng từ điển đồng nghĩa tiếng việt hiện nay

.PDF
147
37
129

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- THÁI THỊ BÍCH THỦY KHẢO SÁT THỰC TRẠNG TỪ ĐIỂN ĐỒNG NGHĨA TIẾNG VIỆT HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội-2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- THÁI THỊ BÍCH THỦY KHẢO SÁT THỰC TRẠNG TỪ ĐIỂN ĐỒNG NGHĨA TIẾNG VIỆT HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 02 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHÁNH HÀ Hà Nội-2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Thái Thị Bích Thủy LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Khánh Hà, người hướng dẫn tôi viết luận văn này. Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo Khoa Ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội đã giảng dạy và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Sau cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, đồng nghiệp và các học viên Cao học Ngôn ngữ K56 đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và làm luận văn. Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2014 Tác giả luận văn Thái Thị Bích Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa 7 14 14 1.1.1. Nghĩa của từ 14 1.1.2. Trường nghĩa 18 1.1.3. Hiện tượng đồng nghĩa 21 1.2. Từ điển từ đồng nghĩa 35 1.2.1. Từ điển học và từ điển từ đồng nghĩa 35 1.2.2. Khái niệm bảng từ và các đơn vị từ ngữ trong bảng từ 39 1.2.3. Khái niệm và đặc điểm của định nghĩa 44 1.2.4. Khái niệm và đặc điểm của ví dụ 49 1.3. Tiểu kết 51 CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT CẤU TRÚC VĨ MÔ CỦA MỘT SỐ TỪ ĐIỂN ĐỒNG NGHĨA TIẾNG VIỆT 53 2.1. Đối tượng và phương thức khảo sát 53 2.1.1. Đối tượng khảo sát 53 2.1.2. Phương thức khảo sát 53 2.2. Phân tích kết quả khảo sát 54 2.2.1. Ý tưởng lập bảng từ và các từ ngữ trong bảng từ 54 2.2.2. Cấu trúc vĩ mô của từ điển 56 2.3. Nhận xét 69 2.3.1. Cấu trúc vi mô 69 2.3.2. Nhận xét 72 2.4. Tiểu kết 78 CHƯƠNG 3: KHẢO SÁT CẤU TRÚC VI MÔ CỦA MỘT SỐ TỪ ĐIỂN ĐỒNG NGHĨA TIẾNG VIỆT 80 3.1. Đối tượng và phương thức tiến hành khảo sát 80 3.1.1. Khái quát về đối tượng khảo sát 5 80 3.1.2. Phương thức tiến hành khảo sát 3.2. Kết quả khảo sát 80 80 3.2.1. Quan điểm của người biên soạn về cách giải nghĩa từ 80 3.2.2. Cấu trúc vi mô của từ điển 82 3.3. Nhận xét 108 3.3.1. Cấu trúc vi mô 108 3.3.2. Ý kiến nhận xét 110 3.4. Tiểu kết 111 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 112 116 120 6 DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT LĐ-NVM Long Điền, Nguyễn Văn Minh (2010),Việt ngữ tinh nghĩa từ điển, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. HVH Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hoàng Phê, Đào Thản (2002), Sổ tay dùng từ tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. DKĐ Dương Kỳ Đức (chủ biên), Vũ Quang Hào (1992), Từ điển trái nghĩa – đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội. NVT Nguyễn Văn Tu (1999), Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. HP Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng. + Ví dụ không bị biến đổi về nghĩa - Ví dụ trở nên khôi hài, khó hiểu * Ví dụ được hiểu theo một nghĩa khác √ Có X Không 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng 2.1. 2.2. 2.3. Số lượng từ đầu mục và số trang của bốn cuốn từ điển Số lượng trung bình của các từ đồng nghĩa trong một dãy Các lớp từ loại trong bốn cuốn từ điển đồng nghĩa được khảo sát Trang 57 58 62 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên hình vẽ hình vẽ 2.1. 2.2. 2.3. Số lượng các từ đầu mục và số trang của bốn cuốn từ điển được khảo sát Số lượng trung bình của các từ đồng nghĩa trong một dãy của bốn cuốn từ điển được khảo sát Các lớp từ loại trong bốn cuốn từ điển đồng nghĩa được khảo sát. 8 Trang 56 58 61 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1.1. Lý do chọn đề tài Từ điển học ở Việt Nam có thể được coi là một ngành học còn khá non trẻ. Lần đầu tiên thuật ngữ “từ điển học” được chính thức đề cập là vào năm 1993 trong bài viết của Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm. Hai tác giả đã nhận xét: “Cho đến nay chúng ta chưa xây dựng được một giáo trình từ điển học và cũng chưa tổng kết kinh nghiệm công tác từ điển ở nước ta” [22; tr.13]. Đến năm 1997, công trình Một số vấn đề từ điển học ra đời được coi là mốc quan trọng đầu tiên của lý thuyết từ điển học ở nước ta. Tuy nhiên, các nhà từ điển học cũng nhận định: “Từ điển học ở Việt Nam mới chỉ hình thành. Chúng ta có một số nghiên cứu và kinh nghiệm được công bố rải rác, song vẫn thiếu một công trình từ điển học thực sự. Tập bài “Một số vấn đề từ điển học” là một cố gắng nhằm đáp ứng nhu cầu này (…) Nhưng hạn chế của cuốn sách này là chưa trình bày được đầy đủ, toàn diện những vấn đề cơ bản của từ điển học. Chúng tôi mới chỉ khảo sát những vấn đề thuộc từ điển ngôn ngữ, mà trong từ điển ngôn ngữ lại chú mục vào từ điển giải thích” [46, tr.6]. Năm 2008, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam được thành lập và cho ra mắt Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư (2009), từ đó những nghiên cứu về từ điển học đã trở nên phong phú, đa dạng hơn. Tuy nhiên, trong lĩnh vực từ điển ngôn ngữ, và hẹp hơn là trong lĩnh vực từ điển giải thích, không phải mọi vấn đề đều đã được giải quyết một cách thấu đáo. Các tác giả đi trước hầu như mới chỉ quan tâm đến các kiểu từ điển giải thích như: từ điển thành ngữ - tục ngữ, từ điển phương ngữ, từ điển ngôn ngữ tác phẩm, tác giả, từ điển từ láy, từ điển từ cổ,v.v. mà chưa quan tâm nhiều đến từ điển đồng nghĩa. Như đã biết, ngôn ngữ vốn là một hệ thống phức tạp, bao gồm các phương tiện biểu hiện, bằng cách này hay cách khác, ít nhiều có sự tương ứng với 9 nhau, và trong quá trình phát triển, chúng trở nên đồng nghĩa với nhau. Để có được sự phù hợp giữa hình thức và nội dung cần diễn đạt khi sử dụng ngôn ngữ, chúng ta cần phải nắm được vốn từ vựng cùng với các đặc điểm ý nghĩa cũng như khả năng kết hợp của từ ngữ này với các từ ngữ khác tạo thành những dãy đồng nghĩa. Các từ ngữ trong dãy đồng nghĩa thường có thể thay thế được cho nhau trong những bối cảnh ngôn ngữ cụ thể. Sự thay thế ấy nếu được sử dụng một cách chính xác, rõ ràng thì sẽ tránh được tình trạng lặp đi lặp lại nhiều lần một đơn vị ngôn ngữ, gây ra cảm giác nhàm chán và nghèo nàn về từ ngữ. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, trên thị trường chỉ lẻ tẻ xuất hiện những cuốn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt, mà chủ yếu dành cho học sinh, như: Từ điển đồng nghĩa – trái nghĩa tiếng Việt (dùng trong nhà trường) (Hồng Đức, 2008, NXB Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh), Từ điển đồng nghĩa - trái nghĩa tiếng Việt (dùng trong cho học sinh) (Nguyễn Quốc Khánh, Trần Trọng Dương, Đình Phúc, Minh Châu, 2011, NXB Từ điển Bách khoa), Từ điển đồng nghĩa - trái nghĩa tiếng Việt (Dành cho học sinh) (Bùi Việt Phương, Đỗ Anh Vũ, Ánh Ngọc, 2010, NXB Từ điển Bách khoa),v.v. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của một số từ điển đồng nghĩa nhưng dưới dạng song ngữ như Anh – Việt, Hoa – Việt,v.v. chẳng hạn Từ điển đồng nghĩa phản nghĩa Hoa - Việt (Nguyễn Hữu Trí, 2001, NXB Thống kê), Từ điển đồng nghĩa và trái nghĩa Anh - Việt (Ngọc Châu – Minh Châu, 2010, NXB TP Hồ Chí Minh),v.v. Tuy nhiên, chất lượng của những cuốn từ điển như vậy hầu như chưa được kiểm chứng. Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Khảo sát thực trạng từ điển đồng nghĩa tiếng Việt hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Với đề tài này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát thực trạng một số từ điển đồng nghĩa tiếng Việt đang lưu hành trên thị trường nhằm bước đầu đưa ra 10 nhận định đánh giá về những thành công và hạn chế trong việc biên soạn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. 1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Việc nghiên cứu lý thuyết từ điển đồng nghĩa đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chẳng hạn phương pháp xác lập cấu trúc dãy đồng nghĩa trong biên soạn từ điển, phương pháp giải thích và tìm sự khu biệt ngữ nghĩa các từ đồng nghĩa, v.v. Mỗi từ điển đồng nghĩa có những tiêu chí riêng trong việc lựa chọn, thu thập, sắp xếp và trình bày bảng mục từ, cách đưa thông tin vào cấu trúc vi mô, v.v. Nghiên cứu của chúng tôi tiếp thu những thành tựu mang tính lý luận của từ điển học thế giới, và trên cơ sở đó, áp dụng vào việc khảo sát các từ điển đồng nghĩa ở nước ta để tìm hiểu cách lập dãy đồng nghĩa và giải thích tìm sự khu biệt ngữ nghĩa giữa các từ đồng nghĩa. Trước nhu cầu nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt hiện nay, nghiên cứu của chúng tôi góp phần xây dựng một hướng đi mới trong biên soạn các cuốn từ điển đồng nghĩa, nhằm nâng cao vai trò của chúng như những công cụ tiện lợi giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ thêm phần phong phú, giúp cho học sinh dễ dàng nắm bắt nghĩa của từ ngữ và cách sử dụng từ ngữ. 2. Lịch sử nghiên cứu vần đề Trong ngôn ngữ học, từ đồng nghĩa (synonym) là hiện tượng từ vựng thuộc loại “kinh điển” và rất cơ bản. Trên thế giới, từ điển học nghiên cứu về từ đồng nghĩa có lịch sử chưa dài nhưng đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Về mặt lý thuyết, thành tựu đó thể hiện ở số lượng khá lớn những bài nghiên cứu trên các tạp chí kỷ yếu chuyên ngành về từ điển học. Về mặt thực tiễn, đó là sự ra đời của các cuốn từ điển đồng nghĩa . Điều này thể hiện đặc trưng riêng của ngành từ điển học là sự liên hệ chặt chẽ giữa “lý thuyết” và “thực hành”. Alain Rey đã viết: “(…) trong lĩnh vực này, người ta thậm chí không thể nghĩ đến “thực hành” mà không đặt vào nó một “hạt giống lý thuyết”. Và “điều đó làm cho những người thực hành nhất trong những 11 người thực hành lại là những nhà lý thuyết không thể phủ nhận được” [Alain Rey, 2009]. Về tình hình biên soạn từ điển đồng nghĩa, trên thế giới, những cuốn từ điển đồng nghĩa đầu tiên được biên soạn cách đây vài trăm năm. Mỗi quốc gia đều xuất bản các loại từ điển đồng nghĩa được biên soạn theo các cách thức khác nhau – hoặc chỉ lập danh sách các từ, hoặc vừa có danh sách từ, vừa có lời định nghĩa chỉ ra sự giống và khác nhau về ngữ nghĩa của các đơn vị cùng các thí dụ minh họa được lấy từ các tác phẩm văn chương nổi tiếng. Năm 1978, George Miller và nhóm nghiên cứu của ông tại Đại học Princeton bắt đầu phát triển một cơ sở ngữ liệu với các mối quan hệ khái niệm, được coi là sự thể hiện (hiện thực hóa) một mô hình của vốn từ vựng nội tâm (mental lexicon). Cơ sở ngữ liệu này, gọi là WrodNet, đã được tổ chức xung quanh ý niệm mà một tập hợp các từ đồng nghĩa (gọi là synet) thể hiện với các mối quan hệ ngữ nghĩa giữa chúng [Vossen Piek, 2002]. Ở Việt Nam, vấn đề hiện tượng đồng nghĩa, từ đồng nghĩa chỉ thực sự được bàn tới từ những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX. Nó được trình bày khái lược trong cuốn giáo trình “Khái luận ngôn ngữ học” (Tổ Ngôn ngữ học Trường ĐHTH HN, 1960). Trong giáo trình, các tác giả mới chỉ đưa ra định nghĩa, phân loại và nêu ra nguồn gốc của các từ đồng nghĩa. Về sau này, các nhà ngôn ngữ học khác cũng bàn nhiều đến lý luận từ đồng nghĩa, đó là những vấn đề cụ thể như: khái niệm từ đồng nghĩa, cách thức phân biệt từ đồng nghĩa tiếng Việt, phương pháp xác định từ trung tâm trong nhóm đồng nghĩa, hay vấn đề phân loại và xác định nguồn gốc của từ đồng nghĩa. Có thể kể đến công trình của một số nhà ngôn ngữ học tiêu biểu như Đỗ Hữu Châu trong Giáo trình Việt ngữ (tập II, 1962), Trường từ vựng và hiện tượng đồng nghĩa trái nghĩa, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng (1987); Nguyễn Văn Tu trong Từ vựng học tiếng Việt hiện đại (1968), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (1976), Các nhóm từ đồng nghĩa trong tiếng 12 Việt (1982); Nguyễn Thiện Giáp trong Từ vựng tiếng Việt (1978), Từ vựng học tiếng Việt (1985); Nguyễn Trung Thuần trong Thử tìm hiểu từ trung tâm và nhóm từ đồng nghĩa (Ngôn ngữ, số 2, 1983), Nguyễn Đức Tồn trong Từ đồng nghĩa tiếng Việt (2006), Đỗ Việt Hùng trong Giáo trình từ vựng học tiếng Việt (2011), v.v. Ở Việt Nam, cho tới nay đã có một số cuốn từ điển đồng nghĩa được biên soạn như: Long Điền Nguyễn Văn Minh, Việt ngữ tinh nghĩa từ điển (xuất bản năm 1951, tái bản năm 1998); Nguyễn Văn Tu, Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt (xuất bản năm 1982, tái bản nhiều lần); Hoàng Phê, Hoàng Văn Hành, Đào Thản, Sổ tay dùng từ (xuất bản năm 1980); Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào, Từ điển trái nghĩa, đồng nghĩa tiếng Việt (xuất bản năm 1992); Trương Chính, Giải thích các từ gần âm gần nghĩa dề nhầm lẫn (xuất bản năm 1997). v.v. Đây là nguồn tư liệu khảo sát tương đối phong phú cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Trong luận văn này, chúng tôi chọn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt làm đối tượng nghiên cứu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Dựa vào thực tiễn biên soạn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt ở nước ta hiện nay, luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan trong phạm vi bốn cuốn từ điển: - Long Điền, Nguyễn Văn Minh, Việt ngữ tinh nghĩa từ điển, xuất bản năm 1951, tái bản năm 1998. Cuốn từ điển này gồm 300 nhóm từ đồng nghĩa tiếng Việt. - Dương Kỳ Đức (chủ biên), Vũ Quang Hào, Từ điển trái nghĩa – đồng nghĩa tiếng Việt, xuất bản năm 1992. Từ điển này thu thập những từ vừa có quan hệ trái nghĩa, vừa có quan hệ đồng nghĩa nên cả cuốn sách bao gồm tập hợp của 3.000 mục từ, trong đó có 267 nhóm từ đồng nghĩa. 13 - Nguyễn Văn Tu, Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, xuất bản năm 1982, tái bản nhiều lần. Cuốn từ điển này cung cấp 750 nhóm từ đồng nghĩa. - Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hoàng Phê, Đào Thản, Sổ tay dùng từ tiếng Việt, xuất bản năm 1980. Cuốn từ điển này bao gồm 137 nhóm từ đồng nghĩa. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của nghiên cứu là góp phần chuẩn bị nền tảng cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc biên soạn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. Vì vậy luận văn cần hoàn thành tốt những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, xác lập cơ sở lý luận về từ điển học nói chung và từ điển đồng nghĩa nói riêng, đồng thời tìm hiểu các vấn đề lí thuyết liên quan đến nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa như: các khái niệm về nghĩa của từ, trường nghĩa, hiện tượng đồng nghĩa, phương pháp xác lập cấu trúc dãy đồng nghĩa trong biên soạn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt,v.v. Thứ hai, khảo sát và đánh giá một số từ điển đồng nghĩa tiếng Việt hiện nay, làm rõ những vấn đề còn tồn tại hoặc chưa được đề cập, đưa ra một số nhận xét về việc biên soạn từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. Vì vậy, chúng tôi lấy nguồn tư liệu để khảo sát và phân tích từ: i) sách và tài liệu mang tính chất lí luận về từ điển từ đồng nghĩa, ii) từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. Chúng tôi sử dụng kết hợp và linh hoạt nhiều thủ pháp, thao tác nghiên cứu nhằm thực hiện các nhiệm vụ một cách khách quan, triệt để và sâu sắc. Để giải quyết nhiệm vụ thứ nhất, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả nhằm tìm hiểu và tổng hợp hệ thống lý luận trong các tài liệu nghiên cứu về từ đồng nghĩa, từ điển, cách xử lý cấu trúc vĩ mô và vi mô trong các cuốn từ điển của nước ngoài, các nghiên cứu của các nhà Việt ngữ. Cụ thể là: i) xác 14 định nội hàm các khái niệm từ, nghĩa của từ, nét nghĩa, ii) khái niệm trường nghĩa và sự phân loại trường nghĩa, iii) hiện tượng đồng nghĩa. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đề cập tới: i) các khái niệm từ điển học, từ điển đồng nghĩa, ii) khái niệm bảng từ và các đơn vị từ ngữ được đưa vào bảng từ, iii) khái niệm và các đặc điểm của định nghĩa, iv) khái niệm và các đặc điểm của ví dụ. Với nhiệm vụ nghiên cứu thứ hai, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả kết hợp với các thủ pháp thống kê, phân loại,v.v. để khảo sát các từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt đã được công bố1. Dựa trên kết quả thu được, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá các vấn đề: i) ý tưởng của các soạn giả về cách lập bảng từ và giải nghĩa từ, ii) cấu trúc vĩ mô của từ điển, iii) cấu trúc vi mô của từ điển. Đặc biệt, chúng tôi kết hợp phương pháp miêu tả (phân tích, đánh giá) với phương pháp so sánh, đối chiếu nhằm làm rõ hơn những vấn đề còn tồn tại trong xử lí các bộ phận của cấu trúc vĩ mô và vi mô của từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa để tìm ra những sự giống nhau và khác nhau giữa các từ trong dãy đồng nghĩa được chọn khảo sát. Chúng tôi cũng tham khảo các tiêu chí đánh giá, kĩ thuật và thủ pháp từ điển học trong việc xác lập mục từ, định nghĩa,v.v. nhằm đưa ra những nhận xét khách quan về mô hình từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. 5. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục , Luận văn được bố cục thành ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận Chương 2. Khảo sát cấu trúc vĩ mô của một số từ điển đồng nghĩa tiếng Việt 1 Tham khảo thêm phương thức khảo sát ở mục 2.1.2 và mục 3.1.2 15 Chương 3. Khảo sát cấu trúc vi mô của một số từ điển đồng nghĩa tiếng Việt. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa 1.1.1. Nghĩa của từ 1.1.1.1. Từ tiếng Việt F. De. Saussre nhận xét: “…Ngôn ngữ có tính chất kỳ lạ và đáng kinh ngạc là không có những thực thể thoạt nhìn có thể thấy ngay được, thế nhưng người ta vẫn biết chắc là nó tồn tại, chính sự giao lưu giữa những thực thể đó tạo thành ngôn ngữ”, trong số những thực thể đó có cái mà ngôn ngữ học vẫn gọi là từ [24, tr.10]. Định nghĩa phổ biến hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho là phù hợp với từ như sau: “Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để đặt câu” [6, tr.1072]. Từ tiếng Việt là một đơn vị thuộc hệ thống các đơn vị ngôn ngữ tiếng Việt. Qua các công trình khảo sát về từ tiếng Việt, chúng tôi thấy có một số nhận định về đặc điểm của từ được nhiều người đồng tình như sau: - Từ tiếng Việt không biến đổi về hình thức ngữ âm theo các nghĩa tương liên trong câu. - Ranh giới hình vị trùng với ranh giới âm tiết nên hình thức ngữ âm chuẩn của từ tiếng Việt được hiện thực hóa bằng những dấu hiệu ngoài từ. - Các đặc điểm nói trên có quan hệ trực tiếp đến từ ngữ nghĩa được hiện thực hóa trong tâm thức người Việt. - Dấu hiệu đặc trưng của từ là tính hệ thống, hoàn chỉnh, có thể phân chia thành các bộ phận và có khả năng tái hiện dễ dàng trong lời nói. [8] Từ những đặc điểm trên của từ tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu đã rút ra định nghĩa: “Từ của tiếng Việt là một số âm tiết cố định, bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc kiểu) cấu tạo nhất định, tuân 16 theo những đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu” [6, tr.122]. 1.1.1.2. Nghĩa của từ Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là “phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” (V.I. Lê nin). Xét về mặt lý thuyết, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng gồm hai mặt: âm và nghĩa. Hai mặt này gắn kết với nhau, không tách rời, có cái nọ thì phải có cái kia, giống như “hai mặt của một tờ giấy” vậy. Ý nghĩa của từ cùng với hình thức âm thanh được hình thành và ổn định dần dần trong lịch sử phát triển ngôn ngữ. Và chúng được từng cá nhân lĩnh hội, tích lũy và sử dụng trong hoạt động giao tiếp. Theo Hoàng Phê, nghĩa của từ là “một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau,v.v. Mỗi nghĩa từ là một tổ hợp đặc biệt những thành tố ngữ nghĩa, gọi là các nét nghĩa” (dẫn theo [21]). “Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa là cái chung cho những từ cùng loại. Nắm được cái chung, cái riêng trong ý nghĩa thì mới thực sự hiểu từ, thực sự hiểu được những cái tinh tế trong từ và mới hiểu được những đặc sắc của từng ngôn ngữ ở phương diện nội dung” [21]. Nghĩa của từ, ở mức khái quát được gọi là nghĩa từ vựng hay ý nghĩa từ vựng. Trong cấu trúc của nghĩa từ vựng có các thành phần nghĩa sau: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái. Ý nghĩa biểu vật của từ là nghĩa ứng với sự vật hiện tượng, trạng thái tính chất được từ gọi tên. Ý nghĩa biểu vật quy định phạm vi sự vật mà từ dùng để biểu hiện. Có những từ có ý nghĩa biểu vật hẹp, chỉ ứng với một sự vật hiện tượng duy nhất trong thực tế; ví dụ như từ “nhai” dùng để chỉ hoạt động của miệng người. Song có những từ mà ý nghĩa biểu vật có tính chất khái quát cao, bao hàm một phạm vi sự vật rộng lớn, ví dụ như từ “thành thị” chỉ các thành phố lớn nói chung. Có những từ lại có nhiều nghĩa biểu vật, nghĩa là từ 17 đó ứng với nhiều loại ý nghĩa biểu vật trong hiện thực khách quan: ví dụ, “mắt cá” chỉ một bộ phận của con cá đồng thời cũng chỉ một bộ phận trên cơ thể con người. Ý nghĩa biểu vật xuất phát từ sự phản ánh sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan vào ngôn ngữ, nên sự vật hiện tượng là cơ sở nguồn gốc của ý nghĩa biểu vật. Nghĩa biểu niệm (hay nghĩa sở biểu) là thành phần cơ bản của ý nghĩa từ vựng. Sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào ngôn ngữ thành ý nghĩa biểu vật và từ có ý nghĩa biểu vật thì sẽ có ý nghĩa biểu niệm tương ứng. Ý nghĩa biểu niệm là những hiểu biết mà từ gợi ra về các sự vật hiện tượng, hoạt động, trạng thái, tính chất. Những hiểu biết này bao gồm những hiểu biết về thuộc tính, đối tượng, tổng hợp tất cả các thuộc tính đó tạo thành nội dung khái niệm. Mỗi thuộc tính đó được phản ánh trong nghĩa biểu niệm của từ thành một nét nghĩa. Và mỗi nét nghĩa như vậy có thể có mặt trong ý nghĩa biểu niệm của các từ. Ví dụ, các từ “anh”, “em”, “chị” cùng có chung một nét nghĩa là cùng chỉ những người cùng bố mẹ với mình nhưng ngoài ra mỗi từ lại có một nét nghĩa riêng biệt nữa. Ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa lại có quan hệ với nhau. Nghĩa biểu thái “là một phạm trù rất rộng bao gồm mọi đặc tính khác nhau của từ cần yếu về mặt ngữ nghĩa” [2, tr.65]. Đó là các đặc tính về sắc thái nghĩa như: phương ngữ/ toàn dân, khẩu ngữ/ văn chương, cũ/ mới, thông tục/ trang trọng, v.v. Việc xác định các thành phần này không đơn giản vì không có đủ tiêu chuẩn chặt chẽ để phân loại, và vì tất cả các từ có thể thay đổi sắc thái của chúng một cách nhanh chóng. Nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào những vấn đề liên quan đến nghĩa từ để nhận diện từ đồng nghĩa. Các tác giả Iu. D. Apresian và Z. E. Alechsandrova đã nêu ra thủ pháp nhận diện từ đồng nghĩa như sau: “chỉ những đơn vị từ vựng nào được sử dụng ở ý nghĩa trùng nhau ít nhất trong một kết cấu chung 18 và có khả năng kết hợp trùng nhau một phần mới có thể được thừa nhận là thay thể được lẫn nhau và do đó là đồng nghĩa” (dẫn theo [35]). Còn trong cuốn Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Nga, tác giả đã “cố gắng đưa vào các dãy đồng nghĩa những từ biểu thị một khái niệm và dựa vào sự có thể thay thế giữa từ đầu mục của dãy và từ đồng nghĩa trong ngữ cảnh đồng nhất” (dẫn theo [35]). 1.1.1.3. Nét nghĩa Nét nghĩa (semantic feature) “là những yếu tố ngữ nghĩa chung cho nghĩa của các từ thuộc cùng một nhóm từ, hoặc riêng cho nghĩa của một từ, đối lập với nghĩa của những từ khác trong cùng một nhóm. Nét nghĩa được diễn đạt bằng từ (hoặc tổ hợp từ)” [20, tr. 11]. Ví dụ (trích dẫn theo Hoàng Phê), nghĩa của hai từ vợ và chồng có yếu tố ngữ nghĩa chung là “nói trong mối quan hệ với người đã kết hôn với mình”. Khi đem đối lập với nhau thì vợ và chồng lại có thể phân tích ra thành những thành tố ngữ nghĩa “phụ nữ”, “đàn ông”, “đã kết hôn”. - vợ: “phụ nữ” – “đã kết hôn” – “nói trong mối quan hệ với chồng”. - chồng: “đàn ông” – “đã kết hôn” – “nói trong mối quan hệ với vợ”. Có thể thấy, các thành tố nghĩa “đã kết hôn”, “ nói trong mối quan hệ với người đã kết hôn với mình” là những nét nghĩa chung cho cả vợ và chồng. Còn thành tố nghĩa “phụ nữ” là nét nghĩa riêng cho từ vợ và thành tố nghĩa “đàn ông” là nét nghĩa riêng cho từ chồng. Bản thân mỗi nét nghĩa, đến lượt chúng, cũng có thể coi như là một nghĩa, và có thể phân tích thành những nét nghĩa nhỏ hơn. Trên lý thuyết, sự phân tích có thể tiếp tục cho đến khi đạt đến những thành tố ngữ nghĩa cơ bản không còn có thể phân tích được nữa (được gọi là nghĩa vị) [20, tr. 11]. Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, các tác giả đồng nhất nghĩa vị với nét nghĩa và cho rằng: “Nghĩa vị biểu hiện mặt nội dung của đơn vị ngôn ngữ ở bình diện giao tiếp. Một từ có thể có một nghĩa vị - đó là các từ đơn nghĩa; 19 hoặc một vài nghĩa vị - đó là các từ đa nghĩa” (dẫn theo [47]). Như vậy, một từ đa nghĩa thì nét nghĩa sẽ nhiều hơn từ đơn nghĩa. Để một từ có thể được sắp xếp vào một nhóm nào đó, từ đó phải có đặc điểm chung nào đó với các từ trong nhóm. Đặc điểm này chính là nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ. Đỗ Việt Hùng cho rằng: “Nét nghĩa là những phần nghĩa thể hiện thuộc tính sự vật mà từ biểu thị, dựa vào đó mà từ có thể thuộc vào một trong các nhóm từ vựng ngữ nghĩa được phân chia theo chủ đề” [12, tr. 24]. Đây cũng chính là cơ chế xác định các dãy đồng nghĩa trong hệ thống từ vựng của ngôn ngữ. Tức là, hiện tượng đồng nghĩa là hiện tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng các nét nghĩa chung trong các từ. Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ chỉ có chung một nét nghĩa đồng nhất. Số lượng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì mức độ đồng nghĩa giữa các từ với nhau càng cao. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đó có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác một hoặc một vài nét nghĩa cụ thể nào đó. 1.1.2. Trường nghĩa 1.1.2.1. Khái niệm trường nghĩa Lý thuyết về trường nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ học đề cập đến từ rất sớm. Những ý tưởng về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong ngôn ngữ đã được nhà bác học người Nga M. M. Pokrovxki viết vào năm 1896: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng của chúng ta và độc lập với ý thức của chúng ta thành những nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất hay trái ngược trực tiếp giữa chúng về ý nghĩa” (dẫn theo [35]). Tuy nhiên, khái niệm về trường và lý thuyết về trường ngữ nghĩa chỉ thực sự được nghiên cứu từ những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, gắn liền với tên tuổi của các nhà ngôn ngữ học như: W. Humboldt và F. de Saussure, A. Jolles (1943), G. Ipsen (1924), J. Trier (1934), W. Porzig (1934),v.v. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan