Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật...

Tài liệu Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật

.PDF
144
2502
78

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM NGUYÊN NHUNG KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT THANH HÀ NỘI, 2007 MỤC LỤC Trang Mở đầu 4 1 Lƣợc sử nghiên cứu vấn đề 4 2 Ý nghĩa của đề tài 7 3 Mục đích nghiên cứu 8 4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 8 5 Phƣơng pháp nghiên cứu 8 6 Bố cục luận văn 9 Chƣơng 1. Một số vấn đề cơ sở lí luận 10 1.1 Khái niệm và đặc trƣng văn bản 10 1.2 Văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ 22 1.3 Văn bản quản lí nhà nƣớc 30 1.4 Văn bản quy phạm pháp luật 36 1.5 Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với một số loại văn bản 41 quản lí nhà nƣớc 1.6 Tiểu kết 43 Chƣơng 2. Đặc điểm cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm 46 pháp luật 2.1 Các kiểu loại văn bản quy phạm pháp luật 46 2.2 Đặc điểm về cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật 54 2.3 Đặc điểm cấu trúc nội dung của từng kiểu loại văn bản quy phạm 65 pháp luật 2.4 Tiểu kết 72 1 Chƣơng 3. Một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn bản quy 74 phạm pháp luật 3.1 Đặc điểm về ngôn ngữ văn bản quản lí nhà nƣớc 74 3.2 Đặc điểm về ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật 83 3.3 Một số phƣơng thức liên kết phổ biến trong văn bản quy phạm 108 pháp luật 3.4 Tiểu kết 114 Kết luận 116 Tài liệu tham khảo 119 Phụ lục 2 Một số chữ viết tắt trong luận văn 1. Chủ tịch nƣớc : CTN 2. Hội đồng nhân dân : HĐND 3. Quản lí nhà nƣớc : QLNN 4. Quy phạm pháp luật : QPPL 5. Văn bản quy phạm pháp luật : VBQPPL 6. Văn bản quản lí nhà nƣớc : VBQLNN 7. Uỷ ban nhân dân : UBND 8. Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội : UBTHVQH 3 MỞ ĐẦU Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) có vai trò quan trọng trong điều hành quản lí nhà nƣớc, là cơ sở pháp lí cho tất cả hoạt động của một xã hội. Do đó, việc xây dựng đƣợc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lí vững chắc, nâng cao hiệu lực quản lí, bảo vệ quyền và lợi ích của mọi công dân. Vì vậy, chất lƣợng của văn bản khi ban hành và đƣa vào thực tiễn sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, đến sự vận động và phát triển của xã hội. VBQPPL là hình thức cơ bản thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền về mặt chính trị và kinh tế đƣợc đƣa lên thành đạo luật, là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành thể chế của nền hành chính nhà nƣớc. Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật thể hiện tính quyền lực nhà nƣớc. Bên cạnh đó, vẫn còn có những VBQPPL chƣa đạt đƣợc mục đích, nhanh bị lỗi thời, quy định không phù hợp với thực tế, hoặc thiếu tính khả thi. Nội dung chƣa đƣợc diễn đạt gọn gàng, dùng từ vẫn chƣa chuẩn, chƣa phổ thông, chƣa sát với thức tiễn, chƣa xuất phát từ điều kiện của đối tƣợng điều chỉnh để ban hành văn bản. Điều đó đã dẫn tới việc áp dụng VBQPPL vào thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau, hay khó nhớ, khó hiểu. Xuất phát từ các yếu tố chi phối, tác động tới chất lƣợng của văn bản, từ những lí do thực tiễn của văn bản, hoạt động của VBQPPL trong quản lí nhà nƣớc, đời sống xã hội, chúng tôi tiến hành xem xét các vấn đề của hệ thống văn bản này dƣới góc độ ngôn ngữ, yếu tố quan trọng quyết định sự hoàn thiện của một quy trình xây dựng và ban hành văn bản. 1. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu 1.1 Nghiên cứu văn bản nói chung a. Văn bản đƣợc quan tâm nghiên cứu và đã xác lập đƣợc một vị trí trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung. Moskalskaja khi nghiên cứu về ngữ pháp văn bản đã khẳng định "khái niệm "văn bản" chỉ trở thành một khái niệm thuần ngôn ngữ học và mở rộng các ý nghĩa thuật ngữ của từ này khi mà nó, dƣới 4 những hình thức từ ngữ nhất định, đƣợc đƣa vào danh mục các đơn vị ngôn ngữ và lời nói, đƣợc nhận sự miêu tả cấu trúc cần thiết và trở thành một trong những đối tƣợng của việc nghiên cứu ngôn ngữ học [21, 10]. Từ thập niên 70 của thế kỉ này, những bài viết liên quan đến các vấn đề của ngữ pháp văn bản ngày càng tăng cả về chất lƣợng và số lƣợng. Nhiều hội nghị chuyên đề quốc tế về ngôn ngữ học văn bản đƣợc tổ chức. Ngôn ngữ học văn bản dần dần trở thành một bộ môn chính thức của ngôn ngữ học bên cạnh những bộ môn truyền thống nhƣ: ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp học, phong cách học. Nó không chỉ kế thừa đƣợc các thành tựu của ngôn ngữ học truyền thống mà còn có nhiều đóng góp mới, quan trọng cho ngôn ngữ học nói chung. Có thể nói cho tới nay, ngôn ngữ học văn bản đã khẳng định đƣợc chỗ đứng vững chắc của mình và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. b. Ở Việt Nam, nghiên cứu văn bản đã dành đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà ngôn ngữ học nhƣ: Trần Ngọc Thêm, Diệp Quan Ban, Đinh Trọng Lạc... Năm 1985, Trần Ngọc Thêm đã xuất bản cuốn "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt", cuốn sách đầu tiên về ngữ pháp văn bản và cũng là cái mốc đánh dấu sự ra đời của ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam. Từ đây đã hình thành các khuynh hƣớng nghiên cứu về văn bản khác nhau ở Việt Nam: 1. Trong khuynh hƣớng nghiên cứu về liên kết: sau Trần Ngọc Thêm với "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt" chủ yếu nghiên cứu trên cứ liệu các văn bản viết,còn có một số tác giả nhƣ Nguyễn Thị Việt Thanh với "Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt", Phạm Văn Tình với "Phép tỉnh lƣợc và ngữ trực thuộc tỉnh lƣợc trong tiếng Việt", Phan Văn Hoà... 2. Khuynh hƣớng nghiên cứu văn bản phục vụ giảng dạy: cùng với nhu cầu của việc dạy và học môn làm văn ở các trƣờng phổ thông ngày càng cao và chuyên sâu hơn, vì vậy, việc nghiên cứu, ứng dụng ngôn ngữ học văn bản vào thực tế cũng trở nên cấp thiết. Nhiều cuốn sách chuyên khảo, giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ra đời và đã phát huy đƣợc tác dụng của mình và thực sự trở thành tài liệu hữu ích cho ngƣời dạy và học. Một số công trình của các tác giả nhƣ: Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Diệp Quang Ban... đã tập trung vào một số vấn đề quan trọng của ngôn ngữ học văn bản nhƣ 5 kết cấu, mạch lạc, liên kết... để phục vụ cho công việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc phổ thông và trong các trƣờng sƣ phạm. 3. Khuynh hƣớng tiếp cận theo hƣớng phân tích diễn ngôn lấy đối tƣợng là từng kiểu loại văn bản cụ thể: quan tâm đến hƣớng nghiên cứu này có các tác giả nhƣ Lê Hùng Tiến, Nguyễn Hoà, Hữu Đạt... và một số luận văn chuyên ngành ngôn ngữ học. Chúng ta cũng có thể hình dung sự phát triển của ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam thông qua việc lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu. Bắt đầu từ sự quan tâm tới các hiện tƣợng liên kết với những mối quan hệ về cả hình thức lẫn ngữ nghĩa với các yếu tố bên ngoài câu, trong đó tập trung vào việc tìm sở chỉ của các yếu tố đòi hỏi quy chiếu ngoài câu. Dần dần, mối quan tâm mở rộng ra các đơn vị lớn hơn câu với những đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng. Đó là các đối tƣợng khi nghiên cứu văn bản đƣợc tiếp cận theo phƣơng thức vi mô. Bên cạnh cách tiếp cận này có cách tiếp cận khác cũng thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đó là cách tiếp cận theo phƣơng thức vĩ mô – nghiên cứu văn bản tổng thể với những đặc điểm riêng tiêu biểu cho từng loại hình văn bản. Với cách tiếp cận này, các văn bản tin, nghệ thuật, khoa học, hành chính... đã trở thành đối tƣợng khảo sát của không ít công trình nghiên cứu. Đó cũng là hƣớng tiếp cận mà luận văn này sử dụng. 1.2 Nghiên cứu các văn bản hành chính – công vụ nói chung Có thể nói cho đến nay, số lƣợng các công trình chuyên sâu nghiên cứu về các loại hình văn bản hay đặc điểm ngôn ngữ hành chính – công vụ chƣa nhiều. Từ góc độ nghiên cứu phong cách học không thể không nhắc tới các tác giả nhƣ Đinh Trọng Lạc với "Phong cách học văn bản", "Phong cách học tiếng Việt", Cù Đình Tú với cuốn "Phong cách học và các biện pháp tu từ tiếng Việt", Hữu Đạt với "Phong cách học chức năng tiếng Việt"... Tuy vậy, các tác giả chủ yếu đề cập tới những đặc trƣng ngôn ngữ nổi bật trong các văn bản hành chính – công vụ. Song, để có cái nhìn toàn diện cho vấn đề ngôn ngữ hành chính – công vụ thì số lƣợng công trình nghiên cứu sâu về đối tƣợng này từ góc độ phân tích văn bản hay diễn ngôn vẫn còn khá khiêm tốn so với yêu cầu của thực tế. 6 1.3 Nghiên cứu về văn bản quy phạm pháp luật nói riêng Các văn bản quản lí nhà nƣớc nói chung và văn bản quy phạm pháp luật đã đƣợc nghiên cứu chủ yếu ở khía cạnh kĩ thuật xây dựng, ban hành hay thực trạng và giải pháp, những vấn đề tồn tại trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản. Một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này nhƣ: ―Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí‖ của Nguyễn Văn Thâm, ―Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật‖, ―Kĩ thuật lập quy‖ của Lƣu Kiếm Thanh, ―Hƣớng dẫn soạn thảo văn bản‖ của Nguyễn Đăng Dung và Hoàng Trọng Phiến... và trong các đề tài, dự án về VBQPPL, hay các luận văn chuyên ngành hành chính công ... Tuy nhiên, hầu nhƣ chƣa có công trình nào chỉ chuyên dành cho việc nghiên cứu ngôn ngữ thuộc lĩnh vực này. Các vấn đề về ngôn ngữ, dùng từ, tạo câu, văn phong... chỉ đƣợc đề cập tới nhƣ một yếu tố cần, đảm bảo cho việc xây dựng văn bản đƣợc chính xác. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu khá kĩ lƣỡng về một số kiểu loại văn bản hành chính cụ thể nhƣ: Hữu Đạt nghiên cứu về chuẩn hoá từ ngữ trong văn bản luật, luận án tiến sĩ của Nguyễn Hùng Tiến dành nghiên cứu về "Một số đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt", một số luận văn về các văn bản thuộc lĩnh vực cụ thể nhƣ: giáo dục, kinh tế... Song chƣa có công trình nào khảo sát một cách hệ thống các kiểu loại cụ thể của VBQPPL. 2. Ý nghĩa của đề tài 2.1 Ý nghĩa lí luận Các kết quả của luận văn đóng góp thêm về phƣơng diện lí luận cho những nghiên cứu về văn bản nói chung và văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ nói riêng, đặc biệt cung cấp một cái nhìn có tính tổng quát về một kiểu loại văn bản rất phổ biến và điển hình – VBQPPL. Đồng thời, luận văn cũng góp phần xác định các vấn đề về liên quan tới đối tƣợng của luận văn nhƣ: khái niệm, cách phân loại, đặc điểm cấu trúc nội dung và ngôn ngữ của văn bản. 2.2 Ý nghĩa thực tiễn Thông qua việc khảo sát, phân tích, nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc nội dung, và các vấn đề ngôn ngữ của VBQPPL, luận văn mong muốn đóng góp vào 7 việc xây dựng văn bản, đồng thời tránh đƣợc những lỗi, những sai sót không cần thiết về ngôn ngữ khi xây dựng, thẩm tra, thẩm định VBQPPL. Bên cạnh đó, những phân tích, đề xuất trong luận văn sẽ góp phần vào việc chuẩn hoá công tác xây dựng, ban hành, và áp dụng các văn bản này trong thực tế sử dụng cũng nhƣ trong khi giảng dạy chuyên đề này. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn mô tả những cấu trúc của văn bản, đƣa ra đƣợc những cấu tạo chung cho các văn bản thuộc hệ thống VBQPPL. Tiếp đó, mô tả đƣợc những đặc điểm chung về mặt ngôn ngữ, những nét riêng của ngôn ngữ VBQPPL, đồng thời, chỉ ra những tồn tại về ngôn ngữ của văn bản và đƣa ra một số những ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng sử dụng ngôn ngữ trong VBQPPL, và có cách nhìn chung trong quá trình dạy và học. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Năm 1996, Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm luật ra đời, đánh dấu cho sự chuẩn hoá các văn bản về mặt luật pháp. Sau năm năm áp dụng (đến năm 2002), Luật này đã đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với hoạt động thực tiễn. Đến năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm luật của HĐND, UBND ra đời nhằm hoàn thiện việc xây dựng và ban hành văn bản của địa phƣơng. Vì vậy, chúng tôi lấy đối tƣợng nghiên cứu cho luận văn là các văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong năm 2006. Do thời gian không nhiều, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát khoảng 500 văn bản của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành trong năm 2006 thuộc các cơ quan Trung ƣơng và HĐND, UBND cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung ƣơng. Để đảm bảo tính hệ thống của hệ thống văn bản đang xem xét, chúng tôi đƣa vào tƣ liệu khảo sát cả những văn bản mà trong thời gian khảo sát đã xác định ở trên không có. Trong một số trƣờng hợp cần so sánh, chúng tôi sử dụng cả những văn bản đã hết hiệu lực. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc vận dụng trong luận văn là mô tả, phân tích, so sánh với mục đích đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng thể về hệ thống văn 8 bản này. Ở trƣờng hợp cụ thể, chúng tôi sử dụng cả phƣơng pháp thống kê để làm rõ vấn đề. Do thời gian và phạm vi của một luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát các văn bản mang tính đại diện cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Sau khi tìm thấy các điểm chung của các văn bản, chúng tôi tiến hành mô tả cấu tạo và mô hình hoá, đƣa chúng về những khuôn nhất định. Bên cạnh đó, việc so sánh các văn bản ở từng giai đoạn sẽ cho thấy những biến chuyển và sự phát triển của hệ thống văn bản này. 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chƣơng: Chƣơng 1. Một số vấn đề cơ sở lí luận Đây là chƣơng đƣợc xây dựng nhằm định hƣớng, xác định một hƣớng nghiên cứu phù hợp cho luận văn. Ở chƣơng này, chúng tôi trình bày, nêu ra những lí thuyết có liên quan đến đề tài nhƣ: khái niệm, đặc điểm về cấu trúc nội dung, về ngôn ngữ, tiêu chí và cách phân loại của văn bản nói chung, văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ, văn bản quản lí nhà nƣớc, văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, chƣơng này cũng dành một phần để phân biệt, chỉ ra sự khác biệt giữa một số loại văn bản và những khái niệm gần với đối tƣợng khảo sát của luận văn. Chƣơng 2. Đặc điểm cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật Chƣơng này tập trung miêu tả cấu trúc nội dung của VBQPPL nói chung và của từng văn bản cụ thể trong hệ thống này. Mục đích của chƣơng nhằm mô tả, so sánh sự giống và khác nhau về cấu trúc nội dung của văn bản thuộc hệ thống VBQPPL và chỉ ra đƣợc mô hình chung cho tất cả các văn bản, mô hình riêng cho mỗi kiểu loại văn bản riêng biệt. Chƣơng 3. Một số đặc điểm ngôn ngữ cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật Nhiệm vụ của chƣơng này là nêu những đặc điểm về ngôn ngữ trong VBQLNN và một số đặc điểm chủ yếu về từ, câu và một số phƣơng thức liên kết chủ yếu trong VBQPPL. 9 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Khái niệm và đặc trƣng của văn bản 1.1.1 Khái niệm về văn bản Đã có rất nhiều khái niệm về văn bản đƣợc đƣa ra theo nhiều quan điểm khác nhau. Song, hiện nay vẫn chƣa có một khái niệm văn bản nào đƣợc tất cả các nhà ngôn ngữ học chấp nhận. Chúng tôi sẽ nêu ra một số quan niệm, khái niệm về văn bản mà chúng tôi đã tiếp xúc và cũng đƣợc sử dụng để làm cơ sở cho việc thực hiện luận văn. Theo I.R. Galperin, "văn bản với tƣ cách sự kiện trong hành vi ngôn ngữ mang tính hệ thống. Văn bản là một thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung riêng, đƣợc tổ chức theo mô hình trừu tƣợng của một trong những hình thức thông báo (thuộc phong cách chức năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện hữu trong ngôn ngữ văn học và đƣợc xác định bởi những đặc trƣng đặc trƣng khu biệt của nó". [9, 41] Moskalskaja trong cuốn "Ngữ pháp văn bản" cho rằng thuật ngữ "văn bản" biểu thị hai mặt khác nhau. "Một mặt, "văn bản" đƣợc hiểu là bất kì một phát ngôn nào cấu tạo từ một hoặc nhiều câu mang trong mình một nghĩa hoàn chỉnh theo ý đồ của ngƣời nói, mặt khác, đó là những sản phẩm lời nói nhƣ truyện, tiểu thuyết, bài báo và tạp chí, chuyên luận khoa học, những tài liệu các loại...". Nhƣ vậy, đơn vị và đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học văn bản là: 1. thể thống nhất trên câu (văn bản con); 2. sản phẩm lời nói hoàn chỉnh (văn bản lớn). Nhƣ vậy, ngôn ngữ học văn bản bao gồm hai bộ phận chủ yếu: 1. học thuyết về các thể thống nhất trên câu và 2. học thuyết về văn bản theo nghĩa rộng - sản phẩm lời nói hoàn chỉnh. [21, 19-23] 10 G. Brown và G. Jule dùng từ "văn bản" nhƣ là một thuật ngữ khoa học để chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp [5, 22], và coi văn bản là biểu hiện của diễn ngôn. D. Nunan khi nghiên cứu về phân tích diễn ngôn và phân biệt diễn ngôn với văn bản đã đƣa ra quan điểm về thuật ngữ "văn bản" dùng để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp. Theo ông, văn bản (text) là phần ghi ở dạng viết của một sự kiện giao tiếp, truyền đạt một thông điệp hoàn chỉnh. Sự kiện giao tiếp tự nó có thể liên quan đến ngôn ngữ nói (ví dụ: một bài thuyết giáo, một cuộc giao dịch mua bán...) hoặc ngôn ngữ viết (ví dụ: một bài thơ, một quảng cáo trên báo, một bản kê các thứ mua sắm, một tiểu thuyết...). Văn bản biến đổi từ những từ đơn đến những quyển sách kéo dài vài trăm trang. [22, 21] Mak Halliday quan niệm văn bản là sản phẩm của ngôn bản. Ngôn bản là một cái gì đó xảy ra, dƣới hình thức nói hoặc viết, nghe hoặc đọc. Khi tiến hành phân tích ngôn bản thì ngƣời ta phân tích sản phẩm của quá trình ấy; và thuật ngữ "văn bản" (text) thƣờng đƣợc cho là chỉ sản phẩm – đặc biệt là sản phẩm trong hình thức viết văn, bởi vì đây là một vật thể có thể tri giác dễ dàng nhất. [12, 496]. Tƣơng tự với cách nói này, Halliday còn cho rằng: Từ "văn bản" đƣợc dùng trong ngôn ngữ học để chỉ một đoạn nào đó, đƣợc nói ra hay đƣợc viết ra, có độ dài bất kì, tạo lập đƣợc một tổng thể hợp nhất (dẫn theo Diệp Quang Ban [4, 38]) Một quan niệm khác về văn bản vừa có tính khái quát cao vừa có tính hiện đại, có tầm rộng đƣợc giải thích cụ thể trong cuốn Bách khoa thƣ ngôn ngữ và ngôn ngữ học. Văn bản: 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do cấu trúc, đề tài – chủ đề ... của nó hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng... 2. Văn học. Trƣớc hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa với sách, [...] 3. Phân tích diễn ngôn, đôi khi đƣợc đánh đồng với ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì đƣợc dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn đƣợc dùng bao gồm cả văn bản. (dẫn theo Diệp Quang Ban, trong "Văn bản và liên kết trong tiếng Việt") 11 Đó là những quan niệm về văn bản, diễn ngôn của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Ở Việt Nam, các quan niệm về văn bản là sự kế thừa những quan niệm, nghiên cứu đã có trên thế giới, đồng thời phát triển trên cơ sở nghiên cứu những đặc thù riêng của văn bản tiếng Việt. Đinh Trọng Lạc quan niệm: Văn bản với tƣ cách là sản phẩm của hoạt động lời nói, với tƣ cách là tác phẩm lời nói không phải là một chuỗi câu hoặc đoạn văn đƣợc tạo lập ra một cách tuỳ tiện, mà là một thể thống nhất toàn vẹn đƣợc xây dựng theo những quy tắc nhất định. [18, 7] Phỏng theo định nghĩa trong cuốn từ điển bách khoa của Liên Xô này, Diệp Quang Ban đã đƣa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn, dễ hiểu hơn về văn bản: "Văn bản là một loại đơn vị đƣợc làm thành từ một khúc đoạn lời miệng hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài... loại nhƣ một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng..." [4, 37]. Các quan niệm của các tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc trên đây đã đề cập tới cả văn bản và diễn ngôn, phân biệt việc sử dụng thuật ngữ "văn bản" và "diễn ngôn", đồng thời, coi đó là một trong những tiêu chí nhận diện các giai đoạn phát triển của ngôn ngữ học văn bản nói chung. Tuy nhiên, luận văn này lại không nhằm lí giải sự khác biệt đó mà chỉ nhằm kế thừa các thành quả nghiên cứu, quan sát các quan điểm về hai khái niệm để làm cơ sở, xuất phát điểm khi tiến hành nghiên cứu vấn đề của mình. Khái niệm "văn bản" đƣợc dùng trong luận văn cũng không nhằm tới việc phân biệt văn bản với diễn ngôn. Thuật ngữ "văn bản" đƣợc dùng để chỉ chung cho cả hai khái niệm, chấp nhận một điểm chung của chúng để tiến hành các thao tác khác. Để thuận tiện trong việc khảo sát, phân tích đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm về văn bản của Gaperin: "Văn bản là một thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung riêng, được tổ chức theo mô hình trừu tượng của một trong những hình thức thông báo (thuộc phong cách chức năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện hữu trong ngôn ngữ văn học và được xác định bởi những đặc trưng đặc trưng khu biệt của nó." [9, 41] 12 1.1.2 Phân loại văn bản Khi tiến hành phân loại văn bản, ngƣời phân loại thƣờng dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau và để có kết quả cuối cùng ngƣời ta thƣờng dựa trên ít nhất hai tiêu chí để phân loại văn bản. Hoàng Trọng Phiến khi đề cập tới phân chia thể loại văn bản đã nêu ra năm nguyên tắc và dấu hiệu sau [7, 94]: Chức năng giao tiếp theo các lĩnh vực của đời sống xã hội; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ vựng, cú pháp; phƣơng thức tu từ cùng các phƣơng tiện biểu đạt mang tính phong cách cho mỗi thể loại văn bản; phƣơng pháp diễn đạt theo cấu trúc logic khách quan; phƣơng pháp diễn đạt theo cấu trúc chủ đạo: chức năng thẩm mĩ. Dựa vào các nguyên tắc và dấu hiệu trên, chúng ta sẽ có những kiểu phân loại văn bản: a. Theo nguyên tắc chức năng giao tiếp; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ vựng, cú pháp; phƣơng thức tu từ thì văn bản đƣợc chia thành các loại: Văn bản hành chính, văn bản khoa học, văn bản chính luận, văn bản nghệ thuật. b. Xét theo chức năng thẩm mĩ thì văn bản đƣợc chia thành hai loại lớn là: văn bản nghệ thuật và văn bản phi nghệ thuật. Mỗi kiểu loại văn bản lại đƣợc phân chia tƣơng ứng với chức năng và đặc trƣng tổ chức ngôn từ. c. Một quan điểm khác khi phân loại văn bản là dựa vào mô hình hay khuôn hình của văn bản. Đinh Trọng Lạc trong cuốn "Phong cách học văn bản" đã chia toàn bộ các văn bản ra hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất bao gồm những văn bản đƣợc xây dựng theo các mô hình kiểu nghiêm ngặt đã trở thành khuôn mẫu. Nhóm này có các văn bản thuộc phong cách hành chính (nhƣ: đơn từ, chứng chỉ, biên bản, tài liệu pháp lí, quảng cáo, tuyên bố, chỉ dẫn...) và một số văn bản trong văn xuôi khoa học – kĩ thuật (những lời chú giải của các bài báo) hoặc tính chất pháp lí (những bằng phát minh sáng chế). Nhóm thứ hai là những văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình kiểu mềm dẻo. Mô hình kiểu mềm dẻo lại đƣợc chia ra làm hai mô hình nhỏ là: mô hình thông dụng và tự do. Trên cơ sở các mô hình thông dụng (vốn quy định khá nghiêm ngặt tính chất của các thành tố của lƣợc đồ và phần nào là trình tự của chúng), ngƣời viết có thể xây 13 dựng đƣợc những văn bản văn xuôi khoa học (nhƣ: bài báo, luận văn, bản tóm tắt luận án, bản nhận xét công trình khoa học...) và một số văn bản báo (nhƣ: thông báo, bình luận, thiên phóng sự). Những mô hình tự do không mang tính chất điều chỉnh mà mang tính chất chỉ hƣớng. Các văn bản đƣợc tạo ra theo mô hình này là những văn bản nghệ thuật và những tuỳ bút chính luận. Vì vậy, các văn bản thuộc hai nhóm này đƣợc hiện thực hoá trong những văn bản thuộc một trong ba kiểu mô hình nêu trên (khuôn mẫu, thông dụng và tự do). Chúng có tính chất bất biến và xuất hiện trong quan hệ hệ hình với nhau. d. Phân loại văn bản theo thông tin, cấu trúc logic khách quan, tổ chức ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp và cấu trúc văn bản, ngƣời ta thu đƣợc sự đối lập giữa văn bản quản lí và văn bản không quản lí. Văn bản hình thành, tham gia vào quá trình quản lí, và có hiệu lực pháp lí trong quá trình quản lí. Những văn bản hội đủ các yếu tố đó đƣợc xếp vào văn bản quản lí. Những văn bản còn lại không nhằm mục đích tham gia quản lí sẽ đƣợc xếp vào một loại riêng. Tiếp tục phân loại dựa vào cấu trúc logic, cơ cấu tổ chức ngôn ngữ... chúng ta sẽ thu đƣợc các tiểu loại văn bản nhỏ hơn. Trên đây chỉ là một số cách phân loại văn bản thƣờng gặp, ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhƣ: văn bản đối thoại và văn bản độc thoại, văn bản liên tục và văn bản gián đoạn... 1.1.3 Đặc trưng của văn bản 1.1.3.1 Tính nhất thể của văn bản Tính nhất thể của văn bản đƣợc biểu hiện ở khả năng của văn bản hành chức nhƣ là một chỉnh thể thống nhất. Tính nhất thể của văn bản có hai mặt: ngữ nghĩa và hình thức – cấu trúc. Điều này thể hiện ở hai phƣơng diện có mối liên hệ qua lại lẫn nhau là: tính toàn vẹn và tính liên kết. a. Tính toàn vẹn Tính toàn vẹn của văn bản đƣợc thể hiện qua nhiều nhân tố khác nhau nhƣng ở đây chúng tôi lƣu ý những nhân tố có liên quan tới đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: 14 1. Tính đồng nhất của ý đồ giao tiếp: ý đồ giao tiếp là ý định lời nói của tác giả. Trong văn bản, nó là mục đích, điều kiện, đặc điểm của các bên tham gia giao tiếp. Khi các yếu tố đó đƣợc hiện thực hoá trong đặc trƣng của văn bản thì đó là tính tình thái và hƣớng dụng học của văn bản. Tính tình thái của văn bản bao gồm: tình thái chủ quan và khách quan và đa phần xuất hiện trong các văn bản văn học nghệ thuật. Tình thái khách quan thƣờng đƣợc biểu hiện trong truyện cổ tích, truyện khoa học viễn tƣởng. Trong khi đó, tính tình thái chủ quan biểu hiện trong những thể loại diễn tả đƣợc thái độ, quan điểm chủ quan của tác giả đối với sự tình đƣợc nói đến nhƣ: truyện ngắn, tuỳ bút, bút kí... Hƣớng dụng học của văn bản hƣớng vào giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp nhất định. Có mặt trong văn bản là những câu thuộc kiểu dụng học cụ thể, mà nội dung của những câu này đƣợc tạo nên bởi: - Sự xác nhận sự kiện trong những giấy chứng nhận, những ghi chú, những thông báo ngắn trên báo... - Sự hứa hẹn trong những giấy cam đoan, những quy định, những lời hứa hẹn (trƣớc cuộc bầu cử), những lời thề (chẳng hạn của quân đội), những lời tuyên thệ (khi nhậm chức)... - Sự thúc đẩy đi đến hành động trong những quyết định, những mệnh lệnh, những huấn thị, những chỉ dẫn (sử dụng các loại máy móc thiết bị), những quảng cáo. [18, 73-80] Trong các văn bản hành chính – công vụ, báo chí – chính luận, khoa học, hƣớng dụng học trên thể hiện rõ ràng hơn cả. Khi một văn bản đã đạt về ý đồ, đạt tới đích thì văn bản đã kết thúc đƣợc. 2. Sự thống nhất chủ đề của văn bản thể hiện ở chủ đề và đề tài, tính liên kết chủ đề và liên kết đề tài. Sự thống nhất chủ đề đƣợc hình thành nên từ tính liên kết đề tài và liên kết chủ đề. Chủ đề có thể đƣợc tách thành đề tài và chủ đề. Đề tài là sự vật, sự việc, hiện tƣợng đƣợc nói đến trong văn bản. Chủ đề là vấn đề chủ yếu mà ngƣời tạo văn bản muốn giải quyết trong văn bản. Khi chủ đề và đề tài trùng nhau, hoặc không cần thiết phân biệt chủ đề và đề tài thì có thể gọi chung là 15 chủ đề – đề tài hoặc nói gọn là đề. Mỗi loại văn bản có thể đƣợc cấu tạo từ nhiều đoạn, phần với các đề tài, chủ đề, chủ đề con khác nhau nhƣng các chủ đề con đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ, thể hiện cho một chủ đề thống nhất. 3. Chức năng liên kết biểu thị quan hệ logic và quan hệ ngữ nghĩa: Quan hệ logic là các thao tác, quy tắc, luật logic, là sự vận hành của năng lực tƣ duy, quan hệ luôn luôn đúng. Quan hệ ngữ nghĩa là những quan hệ khách quan nhất định giữa các sự vật, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan. Muốn bảo đảm đƣợc tính liên kết logic của văn bản thì không những đảm bảo đƣợc quan hệ logic đích thực, thuần tuý mà còn bảo đảm đƣợc các loại hình quan hệ ngữ nghĩa. 4. Sự thống nhất về kết cấu thể loại: Tính toàn vẹn của văn bản bổ sung thêm cả một bộ các dấu hiệu đem đến cho độc giả cái khả năng xếp văn bản vào một chức năng cụ thể, một thể loại cụ thể, và do đó tiếp cận văn bản nhƣ một tác phẩm đã hoàn chỉnh. Đó là sự thống nhất về kết cấu thể loại. b. Tính liên kết của văn bản Liên kết là những dấu hiệu hình thức chỉ ra các kiểu quan hệ giữa các câu hoặc các bộ phận trong văn bản. Liên kết đƣợc đề xuất bởi hệ thống của văn bản và phụ thuộc theo quy mô của văn bản. Chúng là một phạm trù không thể tách rời của văn bản. Sự liên kết đảm bảo cho thông tin nội dung sự kiện đƣợc lí giải nhất quán. Tính hoàn chỉnh và tính liên kết có quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Kết quả của sự liên kết gắn liền với phạm trù tính hoàn chỉnh. Nó đƣợc thực hiện trong những mức độ và hình thức khác nhau tuỳ theo loại hình văn bản: trong văn bản khoa học, chính luận, hành chính – công vụ và trong văn bản nghệ thuật. Trong văn bản khoa học và hành chính – công vụ tính liên kết đảm bảo cho thông tin đƣợc liên tục. Tuy vậy, liên kết trong các văn bản này thƣờng đƣợc xác định sẵn và phƣơng thức liên kết cũng không đa dạng nhƣ một số kiểu loại văn bản khác ví dụ nhƣ văn bản văn học – nghệ thuật. Liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt của tính liên kết văn bản, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Liên kết nội dung đƣợc thể hiện 16 bằng các phƣơng tiện liên kết hình thức, còn liên kết hình thức đƣợc dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung. Liên kết nội dung có hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết logic. Liên kết chủ đề là sự kết nối các sự vật, hiện tƣợng đƣợc nói đến trong câu và có hai cách để thể hiện là: duy trì chủ đề và phát triển chủ đề. Liên kết logic là đặc trƣng trong một câu hoặc giữa câu với câu (hoặc tập hợp câu, giữa các phần trong văn bản). Liên kết hình thức là liên kết bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ. Nó có các phƣơng thức nhƣ: thế, lặp, liên tƣởng, tỉnh lƣợc... 1.1.3.2 Tính khả phân Tính khả phân của văn bản là khả năng phân chia văn bản thành các phần, đoạn. Việc phân chia văn bản hoàn chỉnh thành các phần là do ngƣời viết muốn chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác, hoặc giữa các chủ đề con hay từ các nội dung trong một chủ đề. Tính khả phân là chức năng bố cục chung của tác phẩm, quy mô các phần và thông tin nội dung sự kiện cũng nhƣ mục đích thực tế của ngƣời tạo dựng văn bản. Quy mô các phần thông thƣờng nhằm làm cho ngƣời đọc có thể tiếp nhận khối lƣợng thông tin một cách đầy đủ, hợp lí và để cho thông tin "không bị thất thiệt". I.R. Gaperin [9] nói tới hai cách phân chia văn bản: theo khối lƣợng thực tế của văn bản (trong đó có tính đến khối lƣợng (hay quy mô) của bộ phận và hƣớng chú ý của ngƣời đọc) và theo cách phân chia đƣợc tạm gọi là biến thể ngữ cảnh. Cả hai hình thức phân chia đều quy định lẫn nhau và đều nêu ra thông tin nội dung – quan niệm. Nhƣng một số nhà ngôn ngữ đề xuất những hình thức phân chia khác cho văn bản văn học nghệ thuật và những văn bản khác. Khi tiến hành nghiên cứu sâu vào từng loại văn bản, phân chia văn bản thực tế thì sẽ gặp những khó khăn nhất định. Vì đối với văn bản văn học nghệ thuật, sự phân đoạn văn bản nằm trong ý đồ của tác giả, mục đích sáng tạo nghệ thuật. Trong các văn bản khoa học, công vụ, báo chí thì sự phân đoạn dựa vào những nguyên tắc hoàn toàn khác. Trong một văn bản không đảm nhiệm chức năng nhận thức thẩm mĩ thì nguyên tắc chủ đạo của phân đoạn là tổ chức logic của thông báo. Cách phân đoạn văn bản theo logic rạch ròi nhất đƣợc thấy rõ 17 trong tài liệu khoa học, hành chính – công vụ. Tính rành mạch đƣợc thể hiện cả bằng cách tách biệt các phần bằng những kí hiệu chữ số nhƣ: 1.1; 1.2; 2.1, 2.3... Cách phân đoạn văn bản nhƣ thế diễn ra do tác giả muốn chỉ rõ sự lệ thuộc giữa các mảnh đoạn của phát ngôn. Đồng thời, trong cách phân chia này cũng gián tiếp lộ ra chính quan niệm của tác giả về sự chi phối qua lại giữa các phần tách biệt [9, 110]. Trong văn bản khoa học còn có phần ghi chú dùng dấu [ ] để ghi rõ nguồn trích dẫn, và để đảm bảo sự liền mạch, liên tục của tƣ duy, lập luận của ngƣời viết. Trong các văn bản ngoại giao nhƣ: công ƣớc, hiến chƣơng, hiệp nghị, hiệp định thƣ, tuyên bố chung... ngƣời ta thƣờng áp dụng hình thức phân đoạn theo chữ số và theo chữ cái. Cách phân đoạn trong văn bản báo chí phần lớn tuỳ theo mục đích thực dụng và phụ thuộc vào kích thƣớc trang báo nên hình thức hết sức linh hoạt. Trong cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể ngữ cảnh, nhiệm vụ của tác giả quy lại là chuyển những hình thức của hành vi ngôn tác, chẳng hạn từ miêu tả sang đối thoại, từ đối thoại sang lời bình của tác giả... Việc chuyển đổi những hành vi ngôn tác khác nhau là đặc trƣng chủ yếu cho các văn bản văn xuôi nghệ thuật. Cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể ngữ cảnh là một trong những phƣơng tiện làm cho bạn đọc gần gũi với sự kiện thông báo, khiến cho bạn đọc trở thành nhƣ ngƣời tham gia những sự kiện này. Nhƣ vậy, tính nhất thể (bao gồm: tính hoàn chỉnh và tính liên kết) của văn bản làm thành một mặt của vấn đề. Nó cùng với tính khả phân của văn bản hợp thành thể thống nhất của hai mặt đối lập, mặt này quy định mặt kia, tác động qua lại lẫn nhau. 1.1.3.3 Tính thông tin Theo Gaperin thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thông dụng và nghĩa thuật ngữ. Thông tin với nghĩa thứ nhất đƣợc hiểu là một thông báo bất kì nào đƣợc trình bày nhƣ một tổ hợp từ mang tính cách định danh. Nghĩa thứ hai của thuật ngữ "thông tin" đƣợc sử dụng trong những công trình viết về lí thuyết thông tin. Việc phân tích những loại thông tin khác nhau dựa vào những văn bản công vụ chính thức, báo chí, nghệ thuật, chính luận cho thấy thông tin mang tƣ 18 cách một phạm trù cơ bản của văn bản, chỉ thuộc về văn bản. Gaperin cho rằng nên phân biệt thông tin: a) về nội dung – sự việc, b) về nội dung – quan niệm, c) về nội dung tiềm văn bản. Thông tin nội dung sự việc gồm thông báo về sự việc, sự cố, quá trình đang diễn ra, đã diễn ra, sẽ diễn ra, trên thế giới bao quanh ta, thế giới hiện thực hoặc tƣởng tƣợng. Thông tin nội dung sự việc, xét thực chất là tƣờng minh, nghĩa là bao giờ cũng biểu đạt thành lời. Những đơn vị ngôn ngữ trong thông tin này thông thƣờng đƣợc sử dụng theo nghĩa đen, nghĩa logic sự việc, nghĩa từ vựng mà ngƣời ta gắn cho những đơn vị ấy theo kinh nghiệm xã hội định ra. Thông tin nội dung quan niệm thông báo với bạn đọc cách hiểu của cá nhân tác giả về quan hệ giữa những hiện tƣợng đƣợc miêu tả bởi các phƣơng tiện của thông tin nội dung sự việc, về những liên hệ nhân quả của chúng, giá trị của chúng trong đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân dân, kể cả quan hệ giữa những cá nhân cụ thể ; về tác động qua lại phức tạp giữa tâm lí với nhận thức thẩm mĩ của họ. Sự khác biệt giữa thông tin nội dung – sự việc với thông tin nội dung – quan niệm có thể đƣợc hình dung là thông tin mang tính cách hiện thực và thông tin mang tính cách thẩm mĩ nghệ thuật, tuy nhiên phải hiểu thông tin mang tính cách hiện thực không những là thực tế có thật mà còn cả tƣởng tƣợng nữa. Thông tin nội dung quan niệm - thƣờng thuộc phạm trù văn bản nghệ thuật, mặc dù có thể tiếp nhận từ văn bản nhận thức khoa học. Đây chỉ có khác ở chỗ là thông tin nội dung quan niệm trong văn bản khoa học bao giờ cũng đƣợc biểu đạt khá rõ, còn trong văn bản nghệ thuật (hẳn là loại trừ giáo huấn ca) thì đòi hỏi phải suy ngẫm mới có thể giải mã thông tin này. Thông tin nội dung tiềm văn bản là thông tin tiềm ẩn, đƣợc rút ra từ nội dung sự việc dựa vào khả năng của các đơn vị ngôn ngữ có thể sản sinh những nghĩa liên tƣởng và nghĩa hàm chỉ. Phạm trù tính thông tin của ngữ pháp là một đặc trƣng bắt buộc của văn bản, có thể biểu hiện trong những hình thức khác nhau. Do đó, khi xem thông tin là một phạm trù ngữ pháp văn bản thì trƣớc hết cần tính đến những loại hình văn bản khác nhau. Văn bản vừa có thể phân loại theo phong cách chức năng vừa có 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan