Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khảo sát các tầng nghĩa chức năng từ vựng tiếng anh có liên hệ với tiếng việt (t...

Tài liệu Khảo sát các tầng nghĩa chức năng từ vựng tiếng anh có liên hệ với tiếng việt (trên tƣ liệu từ cơ bản

.PDF
103
2658
141

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1 Lý do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4 Phương pháp nghiên cứu 4 5 Bố cục của luận văn 5 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Khái quát về bản chất nghĩa từ vựng. 6 1.2. Các tầng nghĩa, kiểu nghĩa và nghĩa từ vựng 7 1.2.1 Phân biệt tầng nghĩa, kiểu nghĩa và chiều kích nghĩa của từ vựng. 7 1.2.2. Khái quát các tầng nghĩa, kiểu nghĩa. 12 1.2.3. Tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng 16 1.2.3.1. Tầng nghĩa trí tuệ 16 1.2.3.2. Tầng nghĩa thực tiễn 17 1.2.3.3. Tầng nghĩa biểu trưng 17 1.3. Nội dung nghĩa từ vựng trong mối liên hệ với Văn hóa và Đặc trƣng Văn hóa Dân tộc. 21 1.3.1. Khái quát nghĩa từ vựng trong mối liên hệ với Văn hóa và Đặc trưng Văn hóa Dân tộc. 21 1.3.2. Liên hệ các từ tiếng Anh cơ bản Land, Mountain, Water, River với các từ tương ngstrong tiếng Việt dưới góc độ văn hoá Việt 1.4. Tiểu kết 30 33 CHƢƠNG 2: TẦNG NGHĨA THỰC TIỄN 2.1. Khái quát về tầng nghĩa thực tiễn 35 2.1.1. Nghĩa biểu thị (denotational meaning) 5 35 2.1.2. Nghĩa biểu chỉ (designated meaning) 36 2.1.3. Liên hệ lớp từ cơ bản trong tiếng Anh 36 2.1.3.1. Từ Land/ Đất 36 2.1.3.2. Từ Mountain/ Núi 38 2.1.3.3. Từ Water/ Nước 39 2.1.3.4. River/ Sông 41 2.2. So sánh đối chiếu tầng nghĩa thực tiễn của lớp từ cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt. 43 2.2.1. Khái quát 43 2.2.2. Về mặt số lượng nghĩa 44 2.2.3. Về mặt ứng dụng (tần xuất sử dụng) 49 2.3. Tiểu kết 50 CHƢƠNG 3 TẦNG NGHĨA TRÍ TUỆ VÀ TẦNG NGHĨA BIỂU TRƢNG 3.1. Tầng nghĩa trí tuệ 51 3.1.1. Nghĩa biểu niệm – Khái niệm khoa học 51 3.1.2. Nghĩa biểu hiện 52 3.2. Tầng nghĩa biểu trƣng 54 3.2.1. Nghĩa biểu trưng 54 3.2.2. Nghĩa biểu tượng 55 3.3. Một số nghĩa cơ bản thuộc tầng nghĩa trí tuệ và tầng nghĩa biểu trƣng 58 3.3.1. Từ land 58 3.3.2. Từ mountain 66 3.3.3. Từ water 68 3.3.4. Từ river 83 3.4. Tiểu kết 92 PHẦN KẾT LUẬN 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO 98 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngôn ngữ có liên hệ rất mật thiết với văn hóa, ngôn ngữ là một bộ phận của văn hóa. Ngữ nghĩa từ vựng hay chính là một phần bên trong của từ vựng thường biểu đạt phản ánh hiện tượng trải qua quá trình tồn tại trong hiện thực thông qua nhận thức của chủ thể ngôn ngữ. Sự phản ánh và cảm nhận đó mang tính chất vừa là ngôn ngữ tư duy đồng thời vừa là cảm nhận văn hóa của chủ thể ngôn ngữ đó. Thường thì nghĩa từ vựng của những từ thuộc lớp từ vựng cơ bản không những phản ánh và thể hiện về mặt ngôn ngữ mà còn cả về mặt văn hóa. Cấu tạo nghĩa từ vựng của những từ cơ bản ấy không phải là cấu tạo đơn giản mà là được cấu tạo thành từng lớp, từng tầng. Vì lí do đó mà chúng tôi tiến hành “khảo sát tầng nghĩa chức năng từ vựng tiếng Anh có liên hệ với tiếng Việt trên tư liệu lớp từ cơ bản.” Ở đề tài này chúng tôi dựa trên cơ sở ngôn ngữ Anh với những từ thường dùng mà bản thân chúng không chỉ gắn bó thân thiện với môi trường thiên nhiên, môi trường sống mà còn có cả quá trình lịch sử văn hoá dân tộc của các ngôn ngữ. Đây chính là hướng đi tìm và đào sâu khai thác sự giống và khác biệt của ngôn ngữ Anh liên hệ với ngôn ngữ Việt. Vì vậy nên tôi chọn đề tài là: “Khảo sát các tầng nghĩa chức năng từ vựng tiếng Anh có liên hệ với tiếng Việt (trên tƣ liệu từ cơ bản)”. Lí do tôi chọn các từ như land, mountain, water, river, và các danh từ tiếng Việt tương ứng như đất, núi, nước, sông là vì theo hiện tượng tự nhiên thì ở đất nước nào cũng có những sự vật, hiện tượng đó nhưng ở mỗi ngôn ngữ lại có cách gọi tên hoặc biểu trưng cho các sự vật hiện tượng ấy bằng những từ ngữ khác nhau để diễn tả về sự hiện hữu mang tính tự nhiên của chúng. Chúng là những từ cơ bản đã tồn tại lâu đời trong tiếng Anh và tiếng Việt. Ở những từ này, ngoài việc định danh gọi tên sự vật ấy, do việc sử dụng rộng rãi và và do tư duy tri nhận của người sử dụng ngôn ngữ khác nhau nên nó bao hàm nội hàm văn hoá dân tộc cũng khác nhau. Việc khảo sát 7 không chỉ dừng lại ở việc khảo sát sâu ở nghĩa đơn thuần của nó trong tiếng Anh và tiếng Việt mà còn khảo sát sự khác nhau đối với nội hàm văn hoá giữa hai ngôn ngữ nữa. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích việc khảo sát của chúng tôi là dựa trên các kết quả nghiên cứu của những người đi trước cùng với việc phân tích ngữ liệu mà chúng tôi thu thập được để chỉ rõ các tầng nghĩa và kiểu nghĩa có trong lớp từ vựng này. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ nghĩa từ vựng được hiểu theo quan quan niệm dưới góc độ và ánh sáng của ngôn ngữ học gắn liền với chức năng hoạt động của những từ ngữ. Nghĩa của từ thực tế được thể hiện trong các loại hình phong cách chức năng khác nhau như phong cách đời sống hàng ngày, phong cách văn hoá nghệ thuật, phong cách khoa học hay phong cách ngôn ngữ khoa học kĩ thuật... Gắn với các yếu tố ngữ nghĩa ấy, hàm lượng nội dung bao gồm trong đó là từ nhận thức lí tính đến tư duy hình tượng được thể hiện như thế nào và đằng sau những cái đó thể hiện được phần nào đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ đó. Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là nghĩa các từ dẫn trên trong mối liên hệ với các từ tương ứng của tiếng Việt. Nhiệm vụ nghiên cứu cũng dựa vào sự phân tích, miêu tả. Chúng tôi cố gắng kết hợp những biểu hiện về mặt ngôn ngữ mà có liên hệ với những giá trị văn hóa (những cảm nhận hoặc những đặc trưng riêng liên quan đến cộng đồng người khác nhau cụ thể là người Anh và người Việt). Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ trên, chúng tôi lần lượt phân tích các nghĩa của từng từ một và rồi sau đó tổng thể cả nhóm bốn từ trên để nhìn nhận một cách khái quát theo yêu cầu và nhiệm vụ đề ra ở trên. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8 Để thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên thì theo quy trình làm việc, chúng tôi tham khảo những tài liệu về mặt lí luận cụ thể là những tri thức về nghĩa từ vựng cũng như những hiểu biết về văn hóa và đặc biệt ở đây là văn hóa tinh thần – một loại hình văn hóa phi hữu hình (intangible). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm các nguồn ngữ liệu liên quan đến ngôn ngữ cụ thể được thể hiện trong tiếng Anh và trong tiếng Việt về nghĩa của từ chúng tôi đang nghiên cứu sau: Tiếng Anh Tiếng Việt Land Đất Water Nước Mountain Núi River Sông Nguồn ngữ liệu ấy trước hết được thể hiện trong các cuốn từ điển sau: Từ điển đối dịch Anh – Việt. Từ điển giải thích Anh – Anh. Từ điển giải thích tiếng Việt. Từ điển Bách Khoa Toàn Thư. Từ Điển Oxford Learner’s Advanced Từ điển Lạc Việt. Một bộ phận ngữ liệu khác của một số tác giả đã chứng minh như: “Khi tôi ra đời thì đất, nước đã có rồi”. Thể hiện tính tự nhiên vốn có của lớp từ vựng này. Từ liên quan đến văn hóa: Tham khảo các bài viết về văn hóa, những đặc trưng trong văn hóa có sử dụng các từ này, cụ thể trong thơ ca, ca dao, câu ví mà thường thấy trong các phép ẩn dụ để làm rõ mục đích nêu trên. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 9 Để có được những kết quả khách quan và chính xác thì trong khi thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp thứ nhất: Phương pháp nhận diện, phân tích, miêu tả nghĩa của những đơn vị từ vựng trên trong hai ngôn ngữ theo lí luận tầng nghĩa, kiểu nghĩa chức năng, ví dụ như với từ Water / Nước hay Mountain / Núi, non trong câu “Nước Non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng Non”. Vậy trong tiếng Anh liệu có những câu tương tự như vậy không thì còn tùy thuộc vào từng nền văn hóa, từng tư duy tri nhận của mỗi ngôn ngữ thế nào để có thể thể hiện được chúng trong ngôn ngữ. Đây cũng chính là cách áp dụng phương pháp thống kê, khảo sát các ngữ liệu được thể hiện trong tiếng Anh. Phương pháp thứ hai: Phương pháp so sánh liên hệ tập trung trong tiếng Anh với tiếng Việt (đây là một bước thấp của phương pháp so sánh nghiên cứu đối chiếu vì ở đây chỉ là phương pháp liên hệ). Đây cũng chính là cách phân tích đối chiếu liên ngữ giao văn hoá để xác định cái giống và khác nhau của ngữ nghĩa liên quan và trong điều kiện có thể dùng các thủ pháp thống kê tần số liệu sử dụng của chúng. Phương pháp thứ ba: Để đảm bảo tính khách quan, chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp khoa học trong ngôn ngữ đó là phương pháp phân tích định lượng và định tính. Cũng có thể áp dụng cách phân tích ngữ nghĩa từ vựng để xác định các tầng nghĩa kiểu nghĩa về mặt đồng đại cũng như lịch sử phát triển của nó. Phương pháp thứ tư: Phương pháp tư duy khoa học chung đó là phương pháp diễn dịch và qui nạp, bằng biểu hiện này hay biểu hiện khác, cách này hay cách khác để có thể chấp nhận được. Chúng ta sử dụng tư duy khoa học, diễn dịch và qui nạp để đi đến kết luận và khái niệm có giá trị biểu tượng, biểu trưng và phản ánh chính xác mang tính khoa học. 10 5. Bố cục của luận văn Kết quả của luận văn được chúng tôi trình bày theo từng phần. Phần 1 là phần mở đầu, phần 2 là phần nội dung và phần 3 là phần kết luận. Phần nội dung được trình bày ở ba chương sau: Chƣơng 1. Cơ sở lí luận của việc khảo sát các tầng nghĩa chức năng từ vựng. (Ở chương này chúng tôi trình bày cơ sở lí luận về khái niệm về bản chất nghĩa từ vựng và cách phân biệt các tầng nghĩa, kiểu nghĩa và chiều kích nghĩa của từ vựng). Chƣơng 2. Tầng nghĩa thực tiễn. (Ở chương này chúng tôi trình bày chi tiết khái niệm về tầng nghĩa thực tiễn và các ứng dụng của lớp từ cơ bản trong tầng nghĩa này.) Chƣơng 3. Tầng nghĩa trí tuệ và tầng nghĩa biểu trưng. (Ở chương này chúng tôi trình bày khái niệm về tầng nghĩa trí tuệ và tầng nghĩa biểu trưng với các ứng dụng của lớp từ cơ bản trong các tầng nghĩa này.) 11 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Khái quát về bản chất nghĩa từ vựng. Như mục 3 của phần mở đầu về đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là dựa vào một số tài liệu đã nghiên cứu trước về lĩnh vực này thì nhận thấy phạm vi nghiên cứu nghĩa nói chung là rất đa dạng, phức tạp vì trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường được nghe hoặc gặp các tình huống đặt ra là: “Từ này có nghĩa gì? Hiện tượng đó là thế nào?” hay rộng hơn nghĩa từ vựng chúng ta còn thấy “Câu chuyện đó ngụ ý là gì?”… Tất cả mọi sự vật hiện tượng kể cả tự nhiên hay xã hội cũng đều mang ý nghĩa nhất định. Sau khi chúng ta nhận được câu trả lời, hoặc lời giải thích thích đáng, điều đó sẽ làm sáng tỏ nghĩa của nó. Tóm lại chúng ta có thể hiểu là chúng ta cần lời giải thích hay giải đáp một vấn đề nào đó một cách rõ ràng nhất chính là đi tìm nghĩa của sự vật hiện tượng ấy. Thực tế ba câu hỏi đặt ra ở trên cần câu trả lời thuộc ba phạm vi tri thức khác nhau. Trả lời cho câu thứ nhất thuộc phạm vi nghĩa từ vựng. Câu thứ hai thuộc phạm vi tri thức triết học. Còn câu thứ ba lại thuộc phạm vi nghĩa ngữ pháp. Chỉ có câu 1 và câu 3 là đối tượng nghiên cứu của ngữ nghĩa học. Trong luận văn này chúng ta chỉ nghiên cứu hiện tượng liên quan đến câu hỏi 1 là nghĩa từ vựng của từ. Tuy nhiên, thông thường thì chúng ta chỉ có thể hiểu một cách nôm na, hoặc nghĩa thực tiễn, hoặc nghĩa cơ bản thôi, còn dưới góc độ văn hóa thì nghĩa từ vựng của từ cần được đào sâu nghiên cứu và so sánh đối chiếu theo từng tầng nghĩa, kiểu nghĩa cũng như theo từng nền văn hóa của các ngôn ngữ khác nhau. Muốn hiểu rõ hình thức tư duy và tri nhận khác nhau như thế nào thì chúng ta phải đi vào cụ thể từng ngôn ngữ. Đây là một đề tài rất khó để có thể nêu bật nên như trong ngôn ngữ thi ca, hội họa hoặc khoa học, mà chỉ có thể dựa trên tư liệu đã có để nghiên cứu. Khi chúng ta sinh ra, các sự vật hiện tượng như “đất, nước, sông, núi” đã có rồi, vấn đề là chúng ta không đi tìm hiểu ai đã đặt tên cho các sự vật hiện tượng đó, hay tìm hiểu nó có nghĩa là gì mà nghiễm nhiên chúng ta chấp nhận 12 các nghĩa đó đã có sẵn trong mỗi ngôn ngữ nhưng có sự khác biệt trong việc tri nhận ở mỗi ngôn ngữ khác nhau mà thôi. Vì vậy khái niệm về nghĩa và ngữ nghĩa có thể hiểu là đi tìm và làm sáng tỏ nghĩa của từ gọi tên sự vật hiện tượng ấy chứ không phải đi tìm hiện tượng, sự việc ấy. Xin trích dẫn ví dụ xác thực nhất trong cuốn giáo trình “Ngữ nghĩa học” của tác giả Lê Quang Thiêm trong việc phân biệt nghĩa của từ với sự vật như sau: “Chẳng hạn như xưa nay hành tinh ngoài trái đất chỉ có một Venus (Kim Tinh) duy nhất (chỉ một cái được quy chiếu) nhưng có hai tên gọi khác nhau là Sao Hôm và Sao Mai. Chúng có nghĩa biểu hiện khác nhau. Nghiên cứu nghĩa của ngôn ngữ phải làm sáng tỏ những vấn đề đa dạng, phức tạp đại loại như thế. Và chung nhất suy cho cùng, có thể nói rằng nhờ hiểu nghĩa của ngôn ngữ mà hiểu được mọi điều, diễn giải, biểu hiện được mọi điều trên thế gian này. [51, 6]. Cụ thể đi vào nghiên cứu nghĩa từ vựng của các từ ngữ thể hiện sự vật hiện tượng tự nhiên mà ở bất kì quốc gia nào cũng có như land, mountain, water, river. Tương ứng trong tiếng Việt là đất, núi, nước, sông. 1.2. Các tầng nghĩa, kiểu nghĩa và nghĩa từ vựng 1.2.1. Phân biệt tầng nghĩa, kiểu nghĩa và chiều kích nghĩa của từ vựng. Trước hết để nói về nghĩa của từ vựng, chúng tôi đã đọc và tham khảo qua các công trình nghiên cứu của các học giả thuộc lĩnh vực ngôn ngữ thì thấy một số quan điểm về nghĩa như sau: Nguyễn Thiện Giáp quan niệm rằng nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp, nên qui chúng theo một khái niệm thành tố đơn giản hơn như: - Nghĩa Sở chỉ: tức là chỉ ra mối quan hệ của Từ với sự vật, hiện tượng, quá trình mà Từ biểu thị. - Nghĩa Sở biểu: Là quan hệ của Từ với Ý, tức là nêu bật được khái niệm hoặc biểu tượng mà Từ đó được biểu thị. 13 Riêng khái niệm này của Nguyễn Thiện Giáp được ứng dụng trong việc hình thành khái niệm về nghĩa của Từ rất có hiệu quả cho người sử dụng ngôn ngữ. - Nghĩa Sở dụng: Là quan hệ của từ và người sử dụng từ đó. Qua đó người sử dụng có thể bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình. - Nghĩa kết cấu: Là quan hệ của từ với những từ khác trong hệ thống. Theo quan niệm trên chúng ta thấy rõ ràng để phân biệt được nghĩa của từ thì nghĩa sở biểu là có khả năng chỉ ra nghĩa của từ là rõ nhất. Còn như nghĩa sở dụng thì chỉ ra mối liên hệ giữa người sử dụng và từ thì không nằm trong phạm vi nghiên cứu của ngữ nghĩa học. Nó thuộc phạm vi của ngữ dụng học. Cũng với cách quan niệm như vậy thì nghĩa kết cấu không chỉ nghiên cứu mối quan hệ trong bản thân từ mà còn có thể xem xét nó với các từ khác trong cùng hệ thống. Nghĩa kết cấu phải cùng thuộc phạm vi nghiên cứu của nghĩa từ vựng. Như vậy, chúng ta có thể thấy Nguyễn Thiện Giáp phân biệt rõ ràng các yếu tố nằm trong bản thân nghĩa của từ với các yếu tố có quan hệ với nghĩa của từ. Chính điều này đã thể hiện rõ việc phân chia các thành tố nghĩa của tác giả. Còn Đỗ Hữu Châu quan niệm về nghĩa từ vựng gồm ba thành phần tương ứng với ba chức năng mà bản thân từ đó đảm nhiệm: - Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật. - Ý nghĩa biểu niệm tương ứng với chức năng biểu niệm. - Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái. Các ý nghĩa này mang tính chất tương đối cố định, bền vững và là sự kiện thuộc cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Đi sâu vào từng loại ý nghĩa, tác giả quan niệm: - Ý nghĩa biểu vật tạo nên khi từ biểu thị sự vật, hiện tượng, đặc điểm,... ngoài ngôn ngữ. - Ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một số lớp sự vật, hoạt động nhất định. - Ý nghĩa biểu thái của từ là những nhân tố đánh giá, nhân tố cảm xúc, nhân tố thái độ,... mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. 14 Khách quan nhận định thì các khái niệm mà Đỗ Hữu Châu đưa ra có vẻ hợp lí hơn, bao quát hơn và đương nhiên có hàm ý rộng hơn. Tuy nhiên cũng còn có một vấn đề chưa được thể hiện rõ như quan niệm nghĩa biểu thái chính là quan niệm về nghĩa biểu niệm đối với tính từ. Hay nói cách khác, nghĩa biểu niệm của tính từ được được tác giả tách riêng thành một kiểu. Nhìn chung, có nhiều nhà ngôn ngữ cũng thể hiện sự tổng hợp về nghĩa, cuối cùng các tác giả đều có tâm niệm là làm thế nào để phân biệt được nghĩa của từ một cách đơn giản như phân biệt được nghĩa cơ bản – nghĩa không cơ bản; nghĩa đen nghĩa bóng; nghĩa độc lập – nghĩa phụ thuộc văn cảnh; ... Cách phân chia này căn cứ vào các đặc điểm sự tổ hợp các nghĩa. Tác giả Lê Quang Thiêm lại có cách nhìn nhận về nghĩa khác hơn so với các tác giả khác. Theo ông, các khái niệm trên cần phải được xác định và làm rõ một cách cụ thể bằng các thành tố nội dung và cách thức tổ chức các thành tố đó. Tác giả chỉ ra rằng nghĩa cơ bản là nghĩa chịu sự chi phối của các quan hệ hệ hình nhiều nhất; ngoài ra còn chịu sự chi phối của các quan hệ cú đoạn. Còn nghĩa không cơ bản thì ngược lại. Trong mỗi nghĩa cơ bản thường có chứa một hoặc vài nghĩa khái quát phạm trù nằm trong nghĩa cơ bản và kèm theo một vài nghĩa loại đặc biệt do các kết hợp cú đoạn tạo ra. Sự phân biệt nghĩa đen – nghĩa bóng cũng được giải quyết trên cơ sở phân biệt các nghĩa được xác định theo quan hệ hệ hình và quan hệ cú đoạn. Như vậy, việc xác định các loại nghĩa và các nghĩa dựa trên hai quan hệ này là khoa học, bởi nó cho phép xác định một cách khách quan nội dung của các loại nghĩa và chỉ rõ con đường hình thành của chúng. Mối quan hệ nghĩa, xét về mặt đồng đại, rất đa dạng và phức tạp. Thực tế, trong các từ điển giải nghĩa, chỉ các nghĩa của từ đa nghĩa có quan hệ đơn tuyến mới được phản ánh. Đối với các nghĩa được tổ chức theo quan hệ đa tuyến, từ điển giải nghĩa không thể chỉ ra một cách cụ thể rằng nghĩa phái sinh này được xuất hiện dựa trên nghĩa cơ bản hay nghĩa không cơ bản liền trước nó. Chính điều này tạo ra ấn 15 tượng sai lạc, làm cho người đọc hiểu sai các mối quan hệ, liên hệ ngữ nghĩa vốn có trong các từ đa nghĩa. Chúng tôi xét khía cạnh của từ đa nghĩa vì trong tiếng Anh và cả trong tiếng Việt luôn luôn có các hiện tượng này. Để chứng minh cho phần lí luận trên của tác giả chúng tôi dẫn một ví dụ về từ trong đề tài này đó là: Từ Mountain: - (nghĩa bóng) núi, đống to VD: Everest mountain: Thể hiện nghĩa cơ bản là một ngọn núi và ngọn núi này có tên gọi là Everest. Từ đó chúng ta có thể có nghĩa tương tự với tất cả các ngọn núi khác với nghĩa cơ bản là núi và nghĩa khu biệt là chỉ chính xác ngọn núi nào như Fuji mountain, núi Thái Sơn,.... Ngoài ra, do có quan hệ hệ hình trong từ núi thể hiện ở nghĩa bóng là một đống to, vì vậy theo quan hệ cú đoạn người ta có thể nói: mountains of gold: hàng đố ng vàng . Tương đồng trong tiếng Việt của từ núi có thể nghĩa khác là non, sơn, lâm (đều chỉ cảnh núi rừng). Bằng cách chứng minh cơ sở lí luận một cách có khoa học như vậy, trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, các loại nghĩa và mối quan hệ giữa các nghĩa đều có mối liên hệ nhất định với quan hệ liên tưởng. Do liên tưởng có đặc điểm là phản ánh sự vật hiện tượng qua mối quan hệ tương đồng và biểu tượng hóa nên các nghĩa cũng được hình thành qua các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp. Hệ quả của đặc điểm này là sự phân chia nghĩa đen và nghĩa bóng. Theo đó, nghĩa đen phản ánh trực tiếp, nghĩa bóng phản ánh gián tiếp. Nghĩa đen gắn liền với các dấu hiệu của hiện thực, nghĩa bóng gắn liền với hình tượng biểu trưng hóa, tương ứng với sự sử dụng trong từng văn cảnh. Đối với trường hợp là các từ đa nghĩa thì cũng có cơ cấu nghĩa riêng. Trên bình diện này, nội dung nghĩa của từ đa nghĩa gắn liền với quá trình chuyển nghĩa và sự vật hiện tượng của nghĩa bóng. Sự chuyển nghĩa này là hệ quả của việc mở rộng nội dung lượng nghĩa của cùng một từ nhằm thể hiện những nội dung nhất định có mối liên hệ nào đó với nội dung ban đầu. (cụ thể: “núi” là nghĩa ban đầu, thể hiện 16 của “núi” là cái gì đó to lớn, đồ sộ, khi nhìn xa có thể như một khối khổng lồ người ta liên tưởng đến “đống to”. Đây chính là hệ quả của từ trong việc mở rộng nghĩa). Nghĩa mới được hình thành trên cơ sở sự chuyển nghĩa này được gọi là nghĩa bóng hay nghĩa phái sinh. Để phân biệt với nghĩa phái sinh được tạo ra sau quá trình chuyển nghĩa, nghĩa ban đầu được gọi là nghĩa từ nguyên. Bằng tư duy hình tượng, sự chuyển nghĩa được thực hiện qua quá trình chuyển tên gọi của đối tượng này sang tên gọi của đối tượng khác. Sự chuyển nghĩa tạo nên cách dùng từ có hình thức mới mẻ hơn, thể hiện được tính hình tượng cao hơn, tránh hiện tượng lặp lại từ một cách nhàm chán. Nghĩa phái sinh có thể được sử dụng một cách linh hoạt dựa trên khả năng sáng tạo ngôn ngữ của cộng đồng tùy vào hoàn cảnh cụ thể. Qua đó, chúng ta thấy rõ cả trên bình diện đồng đại và lịch đại, một từ dù có nhiều nghĩa đến đâu trước đây cũng chỉ được phân chia theo hướng lưỡng phân mà thôi. Sự phân biệt như vậy không thể chỉ rõ, không thể gọi tên một cách chính xác vị thế, vai trò của nó trong các bộ phận nghĩa còn lại của từ bởi lẽ chúng ta không thể đưa ra một sự định loại đích đáng cho từng bộ phận nghĩa của từ. Theo đó sẽ dẫn đến các mặt hạn chế đòi hỏi những người tiệm cận nhìn nhận và đưa ra các hướng khắc phục sao cho nó sát với bản thân nghĩa vốn có của nó. Để giảm thiểu những hạn chế trên khi xác định các kiểu / loại nghĩa của từ, tác giả Lê Quang Thiêm đưa ra mô hình phân chia các kiểu/loại nghĩa của từ đa nghĩa thành ba tầng nghĩa với sáu kiểu nghĩa. Theo quan điểm của ông, trong rất nhiều các nhân tố tác động và qui định nghĩa từ vựng, nhân tố cần được ưu tiên là vai trò của chủ thể ngôn ngữ và sự tri nhận nghĩa. Sở dĩ có sự phân chia các tầng nghĩa/ kiểu nghĩa như vậy là vì ở các phong cách chức năng nhất định. Tác giả cũng cho rằng, nội dung phổ nghĩa của từ không phải chỉ là một sự hình dung tiên nghiệm chủ quan. Đó thực chất là sự phản ánh được thể hiện qua văn cảnh nội dung các từ ngữ thuộc các loại hình phong cách chức năng khác nhau. Các yếu tố thuộc tính của nội dung đó trải dài trong phổ nghĩa từ vựng và được thể hiện tách bạch trong tầng nghĩa/ kiểu nghĩa của từ. [51. 123]. 17 Với lập luận chặt chẽ như vậy, tác giả Lê Quang Thiêm đưa ra sơ đồ các tầng nghĩa và kiểu nghĩa tự vựng như sau: Nghĩa biểu niệm - Khái niệm khoa học (intellectual stratum) (scientific concept) Ý niệm quy ước (sense-relation) Giá trị hệ thống - Tầng nghĩa thực tiễn Nghĩa biểu thị (denotational meaning) (practical stratum) Nghĩa biểu chỉ (desinated meaning) - Tầng nghĩa biểu trưng Nghĩa biểu trưng (symbolized meaning) (symbolized stratum) Nghĩa biểu tượng (imaginative meaning) Phổ nghĩa từ vựng Nghĩa biểu hiện (lexical meaningful spectrum) - Tầng nghĩa trí tuệ Dựa vào sơ đồ phân chia tầng nghĩa, kiểu nghĩa của tác giả thì thấy tác giả thể hiện rõ sự phân loại về mặt thuật ngữ giữa loại nghĩa và kiểu nghĩa. Loại nghĩa có tính phân loại và bao quát hơn, còn kiểu nghĩa có tính năng động và mềm dẻo hơn, nó hoạt động theo đường hướng chức năng luận. Về cấu tạo, các thuật ngữ được đưa ra có cấu tạo gồm hai yếu tố với yếu tố chung là biểu như F.de Saussure đã dùng: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Và các thành tố khu biệt niệm, hiện, thị, chỉ, trưng, tượng giúp chúng ta dễ hình dung đặc điểm chung của các kiểu nghĩa và làm rõ nội dung đặc trưng của từng kiểu nghĩa này. 1.2.2. Khái quát các tầng nghĩa, kiểu nghĩa. Trước khi đi vào khái quát các tầng nghĩa, kiểu nghĩa chức năng từ vựng chúng ta cần dựa trên cơ sở hoạt động chức năng của ngữ nghĩa theo các tầng chức năng cụ thể. Về mặt triết học, nói đến chức năng tức là nói đến “sự thể hiện ra bên ngoài của một khách thể nào đó trong hệ thống các quan hệ nhất định.”. Trong trường hợp chúng ta bàn về chức năng của ngôn ngữ, trước hết cũng có thể suy ra là xem xét 18 sự thể hiện ra bên ngoài của ngôn ngữ trong hệ thống các quan hệ ngôn ngữ với xã hội, bởi lẽ ngôn ngữ là hiện tượng xã hội đặc thù. Quan niệm cho rằng ngôn ngữ có bản chất xã hội dường như là quen thuộc nhưng ta còn hiểu một cách sơ lược, thiên về việc xác định thuộc tính bản chất (phân biệt không phải là hiện tượng tự nhiên hay hiện tượng sinh học....) mà ít đào sâu vào mặt tác động xã hội, chức năng xã hội tương tác trong ngôn cảnh tình huống và ngôn cảnh văn hóa của ngôn ngữ mà một số đại diện nhà ngôn ngữ học chức năng chú ý đến. Khi nói đến chức năng ngôn ngữ với một cách hiểu đầy đủ bao gồm: - Vai trò của ngôn ngữ đối với xã hội như chức năng làm công cụ giao tiếp và công cụ biểu hiện tư duy của con người. - Nhiệm vụ, vai trò của các đơn vị ngôn ngữ hoặc các yếu tố ngôn ngữ trong hệ thống – cấu trúc ngôn ngữ. - Sự cụ thể hóa vai trò của các đơn vị yếu tố ngôn ngữ trong lời nói cụ thể. - Tác dụng của các ngôn từ cụ thể trong giao tiếp. Trong thành tựu của ngôn ngữ học cấu trúc, trường phái ngôn ngữ học cấu trúc-chức năng Praha đã từng nhấn mạnh chức năng giao tiếp của ngôn ngữ và chức năng khu biệt như chức năng khu biệt nghĩa của âm vị cũng như của thành phần ngôn ngữ khác. Trường phái này, nhờ chú ý chức năng mà đã đóng góp cho kho tàng tri thức ngôn ngữ học nhiều khám phá giá trị trong âm vị học, trong lí thuyết phân đoạn thực tại. ... Sự thực là trong giao tiếp, ngôn ngữ được dùng để thực thi một số nhiệm vụ, hoàn thành những chức năng xác định. Trong một chiết đoạn lời nói, mỗi thành phần đều đảm nhiệm chức năng của mình. Vì vậy việc phân tích ngôn ngữ cần thiết xác định mối quan hệ giữa các thành phần. Trong trường hợp như vậy, nếu không tính đến chức năng giao tiếp thì sẽ không thể lí giải hay đánh giá đúng vị trí, vai trò, đặc điểm của các thành phần đó trong biểu đạt ý nghĩa. Mỗi ngôn ngữ đều có hệ thống biểu đạt tương ứng với hệ thống nghĩa của nó. Quy cách nói năng cũng chỉ rõ: Trước 19 tiên người nói suy nghĩ xem cần nói gì rồi sau đó tìm cách lựa chọn hình thức biểu đạt. Điều này hoàn toàn phù hợp với thứ tự mà người nói (người viết) tuân thủ, tức cũng phù hợp với chủ thể ngôn ngữ trong nói năng, sáng tạo ngôn ngữ. Ngay trong chiều sâu tư duy phản ánh cũng xảy ra quá trình: Người nói cảm nhận, đánh giá sự vật khách quan rồi mới quyết định việc sử dụng ngôn ngữ thích hợp, phong cách chức năng tương thích. Cụ thể là người nói quan sát, nhận xét hiện thực hay dự định thay đổi hiện thực thì nảy sinh truyền tạo nghĩa cho hình thức ngôn ngữ thích hợp để hoàn thành chức năng đó. Vậy là ý người nói, nghĩa đơn vị ngôn ngữ và chức năng của nó có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau. Chức năng tín hiệu ngôn ngữ là hiện thực của chính tín hiệu đó và tín hiệu là hiện thực của nghĩa. Lâu nay chúng ta cũng thường nhấn mạnh đến chức năng giao tiếp, chức năng chỗ dựa của tư duy khi dẫn câu nói của các nhà ngôn ngữ rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người”, và “ngôn ngữ là ý thức thực tại thực tiễn... và, cũng như ý thức, ngôn ngữ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác” nhưng lại chưa đi sâu phân tích mặt hoạt động biểu hiện chức năng này trong lời nói, trong hành chức. Hơn nữa như trên đã nói, khi nghiên cứu, đặc biệt là khuynh hướng hình thức, khuynh hướng cấu trúc luận chỉ chú ý mặt phương tiện, mặt biểu hiện hình thức mà bỏ quên hoặc xem nhẹ mặt nghĩa, mặt nội dung. Hiểu cho đúng chức năng công cụ giao tiếp tưởng không chỉ là bản thân cấu tạo công cụ mà còn là công cụ hoạt động cụ thể, thực tiễn như thế nào, nhằm mục đích tác động gì cho người nghe, cho mọi hoạt động sáng tạo, tiến bộ của xã hội. Hơn nữa, muốn hiểu sự thể hiện trong cấu tạo, cơ chế cấu tạo và hoạt động phức tạp của ngôn ngữ thì theo phân biệt của F. de Saussure thì ông cho rằng cần phải phân biệt rõ các tầng chức năng tương ứng với lớp hạng cấu tạo của ngôn ngữ, còn theo N. Chomsky thì quan niệm sự tương đồng với nghĩa trong ngôn ngữ và cả trong lời nói, ngữ năng và ngữ thi. Nhưng theo M.A.K Halliday và S.M.Dik lại xét trong quá trình tương tác xã hội của ngôn ngữ. Bởi vậy, chúng ta có thể tổng hợp thành các tầng chức năng tương ứng ngữ nghĩa sau đây: 20 - Tầng chức năng-ngữ nghĩa trí tuệ. Đây là tầng chức năng – ngữ nghĩa tổng hợp trừu tượng sâu nhất trong hoạt động tư duy sáng tạo của chủ thể ngôn ngữ, tầng tri thức tương ứng với loại tầng chức năng – ngữ nghĩa này là nghĩa của các đơn vị, biểu thức thức ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ khoa học kĩ thuật, trong tư duy khoa học. - Tầng chức năng-ngữ nghĩa phản ánh, miêu tả. Đây là tầng chức năng – ngữ nghĩa mà chủ thể ngôn ngữ tư duy giao tiếp trong bối cảnh, tình huống rộng rãi, phổ biến. Tầng chức năng-ngữ nghĩa này tương ứng với phong cách ngôn ngữ trung hòa, phong cách khẩu ngữ kết hợp với sách vở như trong phong cách quan niệm. Ở một mức độ nào đó, loại chức năng này cũng có thể liên hệ với loại “siêu chức năng tư tưởng, biểu ý” hay còn gọi là “siêu chức năng phản ánh” mà M.A.K. Halliday quan niệm. - Tầng chức năng-ngữ nghĩa tương tác. Đây là tầng chức năng – ngữ nghĩa mà chủ thể phát ngôn thể hiện sự tác động, điều chỉnh, liên nhân trong giao tiếp đối thoại, nghi vấn, mệnh lệnh. Phong cách chức năng ngôn ngữ tương ứng là hội thoại, khẩu ngữ. Loại chức năng nghĩa này có thể liên hệ với nội dung “siêu chức năng liên nhân” hay “siêu chức năng hoạt động” của M.A.K. Halliday. - Tầng chức năng-ngữ nghĩa biểu cảm văn hóa. Đây là tầng chức năng – ngữ nghĩa mà ngôn ngữ được biểu hiện, bộc lộ trong ngữ cảnh văn hóa, có đặc trưng nghệ thuật. Tương ứng với tầng chức năng – ngữ nghĩa này là loại phong cách chức năng thi pháp – nghệ thuật. Loại chức năng - ngữ nghĩa này theo nghĩa rộng có thể liên hệ với “siêu chức năng ngôn bản” của M.A.K. Halliday và theo nghĩa hẹp là chức năng thi pháp của R. Jacobson hoặc ngôn cảnh văn hóa của Malinowski. Có thể nói rằng chính sự hoạt động trong các phạm vi chức năng trên của ngôn từ làm bộc lộ nghĩa của ngôn ngữ. Nghĩa chính là mục đích, cứu cánh của chức hoạt động chức năng. Nghĩa của các đơn vị, biểu thức ngôn ngữ chính là sự hoàn thành chức năng của đơn vị, biểu thức trong hoạt động hành chức của chúng. Song ở đây cũng chú ý một điều rằng chức năng không phải là nghĩa. Chức năng là cơ sở, là 21 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi biểu hiện của nghĩa. Nghĩa là cái được tổng hợp từ một chuỗi một loại lớp chức năng. Nghĩa cũng không phải là cách dùng mà là sự tổng hợp từ cách dùng. Nghĩa gắn với hoạt động chức năng, nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp, tư duy, hoạt động có ý thức của con người. Nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp tư duy và chức năng của các loại đơn vị, yếu tố biểu thức của ngôn ngữ trong cấu tạo cũng như sự hoạt động của chúng thể hiện ở các loại hình phong cách chức năng đa dạng khác nhau mà trước đây giới tu từ học và nay là ngữ dụng học chú ý khám phá. 1.2.3. Tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng Như ở phần trên chúng tôi đã trình bày quan điểm của Lê Quang Thiêm về sơ đồ tầng nghĩa và kiểu nghĩa của từ vựng, là cơ sở cho phần giải thích các tầng nghĩa, kiểu nghĩa một cách khái quát như sau: 1.2.3.1.Tầng nghĩa trí tuệ: gồm 2 kiểu nghĩa: Nghĩa biểu niệm: Là nội dung mà tư duy con người nhận thức và phản ánh được bản chất thuộc tính, quá trình và hiện tượng. Đó là nghĩa trừu tượng, khái quát, khoa học và được thể hiện bằng những khái niệm ở một giai đoạn phát triển nhất định của khoa học. Nghĩa biểu hiện: Là nội dung khái quát, hàm chứa 2 nội dung cụ thể sau: Thứ nhất, nội dung khái quát thuộc tính dấu hiệu có tính chủ quan, không hoàn toàn thể hiện bản chất; được gọi là ý niệm qui ước. Thứ hai, nội dung nghĩa hệ thống là một yếu tố khái quát, trừu tượng, được xác lập trong quan hệ với từ khác cùng nhóm hoặc trong trường từ vựng. Cả hai nội dung này đều được xác lập qua nhận thức trừu tượng của chủ thể tư duy. Như vậy, tầng nghĩa trí tuệ được xác lập, tồn tại và biến đổi thông qua nhận thức trí tuệ của người nghiên cứu và chủ thể nhận thức. Ngoài ra, tầng nghĩa trí tuệ được coi là yếu tố quan trọng nhất thể hiện đặc điểm của thuật ngữ khoa học. 1.2.3.2. Tầng nghĩa thực tiễn: gồm 2 kiểu nghĩa 22 Nghĩa biểu thị: Thể hiện tính cụ thể của lời nói. Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ, một khía cạnh, một nội dung cụ thể nào đó xuất hiện. Nghĩa biểu thị xuất hiện trong văn cảnh cụ thể đó và chỉ ra một nghĩa nhất định hay một đặc trưng cơ bản. Chính nhờ yếu tố này giúp cho người đưa ra thông báo trao đổi một cách trực tiếp và tự nhiên. Nghĩa biểu chỉ: Thực chất là nghĩa của những từ chỉ định như: này, kia, ấy, đó, nọ, tôi, tớ... Nghĩa biểu chỉ của từ có thể được thay bằng một biểu thức qui chiếu. 1.2.3.3. Tầng nghĩa biểu trưng Là tầng nghĩa thể hiện mức độ của sự hình dung, tưởng tượng của con người khi liên hệ nghĩa với hình thức biểu hiện của phạm vi tồn tại khác trong cuộc sống. Tầng nghĩa này bao gồm 2 kiểu nghĩa sau: Nghĩa biểu trưng: Thể hiện nội dung nghĩa của những từ có hình thức ngữ âm hoặc hình thức cấu âm liên hệ chặt chẽ với nội dung được biểu hiện. Đây là nghĩa của những từ mà ta vẫn quen gọi là từ tượng thanh, tượng hình. Quá trình biểu tượng hóa của tín hiệu vốn có nguồn gốc tâm lí trong đời sống xã hội và được ghi lại một cách độc đáo trong ngôn ngữ. (Ví dụ khi chúng ta nghe nói “líu lo” khiến chúng ta liên tưởng đến tiếng chim hót thì ở đây tờ này có nghĩa tượng thanh). Nghĩa biểu tượng: Là nội dung có được do sự hình dung, tưởng tượng. Nội dung tín hiệu được gán với những sự vật, hoạt động, thuộc tính của thế giới viễn tưởng. Biểu tượng luôn mang tính văn hóa, nghệ thuật, là giá trị nhân văn mà toàn thể cộng đồng mã hóa bằng ngôn ngữ. Tầng nghĩa này, mà đặc biệt là kiểu nghĩa biểu tượng gắn bó chặt chẽ với chức năng thẩm mĩ của từ ngữ. Do chịu ảnh hưởng của lí thuyết logic điển mẫu, Lê Quang Thiêm muốn chúng ta nhận ra rằng ranh giới giữa nghĩa đời thường, nghĩa mang tính khoa học và nghĩa được sử dụng trong sáng tạo hình tượng chỉ là một ranh giới mờ, khác nhau về độ đậm nhạt. Chúng được phân bố đều đặn trên một phổ nghĩa từ vựng. Các nghĩa này không thể bị phân cách một cách rạch ròi, cứng nhắc. Chính vì không nhận thức 23 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi được điều này nên ngôn ngữ học truyền thống đã cố gắng phân địnhmột cách rạch ròi, chính xác ranh giới của từng loại nghĩa. Một số hạn chế cần khắc phục Trong tính đa dạng về nghĩa của từ, lịch sử ngữ nghĩa học đã có những kiến giải như thế nào? Ta tạm chấp nhận một sự phân biệt, đó là phân biệt bản chất nghĩa và loại nghĩa. Bản chất nghĩa là thực tế nội dung, thuộc về tính bên trong của nghĩa. Loại nghĩa là các dạng tồn tại của cùng một thuộc tính bản chất của nghĩa. Dựa vào sự phân biệt vừa nêu trên, trong ngôn ngữ học một thời đã phân ra nhiều loại nghĩa. Ở đây chúng ta dùng thuật ngữ loại theo lối phân loại luận, và dường như đã quen thuộc, như là tri thức luận khi phân loại nghĩa thành nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Trong lịch sử ngữ nghĩa học, nghĩa từ vựng đã trở thành đối tượng ngữ nghĩa học truyền thống trong một quan niệm khiếm khuyết, hạn hẹp về ngữ nghĩa học đã biết. Nghĩa trong ngữ pháp ít được nghiên cứu riêng như một đối tượng độc lập. Có chăng sự chú ý của nghĩa trong ngữ pháp là để cắt nghĩa, luận giải các hình thức, phân biệt hình thái, phân biệt phạm trù cấu tạo và chức năng ngữ pháp mà thôi. Còn trong ngữ dụng, người ta luôn nhắc đến nghĩa, dựa vào nghĩa nhưng không xử lí nó như đối tượng nghiên cứu độc lập. Như vậy là về bản chất nghĩa, loại nghĩa xét thực chất chủ yếu chỉ mới làm một sự phân biệt nghĩa từ vựng với nghĩa ngữ pháp. Và việc đi sâu phân tích như đối tượng ngữ nghĩa học, tức xác định loại nghĩa (như phân biệt đã chấp nhận) chỉ chủ yếu là đối với nghĩa từ vựng mà cũng chưa thật thỏa đáng. Để phân biệt các từ loại nghĩa về mặt lịch đại, người ta chia ra nghĩa từ nguyên và nghĩa phái sinh. Nghĩa từ nguyên là nghĩa khởi thủy, nghĩa đầu tiên, nghĩa gốc của từ. Nghĩa phái sinh là nghĩa mới, phát sinh về sau do có quá trình sử dụng, sáng tạo của người dùng. Ví dụ trong tiếng Việt, từ đăm chiêu có nghĩa gốc, nghĩa từ nguyên “bên phải, bên trái”, nghĩa phái sinh là “có vẻ đang bận lòng suy nghĩ, băn khoăn nhiều bề”. Hoặc từ đài – 1. “Công trình xây dựng trên nền cao, dùng vào 24
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan