Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu (counter - factive) tr...

Tài liệu Khảo sát các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu (counter - factive) trong tiếng việt

.PDF
129
2192
149

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------- ------- BÙI THỊ XUÂN HƯƠNG Khảo sát các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu (counter- factive) trong tiếng Việt LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ Mã số: 60 22 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN HIỆP. Hà Nội, 2008 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của luận văn Luận văn này dành cho việc khảo sát các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu(counter- factive) trong tiếng Việt. Có nhiều lí do đã dẫn chúng tôi đến việc lựa chọn vấn đề này: Như mọi người đều biết, các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu là nội dung quan trọng của bất kì một ngôn ngữ nào. Bởi vì nó biểu thị cách nhìn, quan điểm, và cách sử dụng của người bản ngữ đối với các nội dung được diễn đạt trong ngôn ngữ. Đặc biệt, với tiếng Việt vấn đề nghiên cứu các phương tiện biểu thị tình thái những năm gần đây đang được sự chú ý đặc biệt của giới chuyên môn. Các phương tiện biểu thị tình thái là phạm trù quan trọng đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu đã bàn đến các phương tiện biểu thị tình thái thực hữu (factive), tình thái không thực hữu (non- factive). Riêng đối với các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu (counter- factive) thì chưa có một công trình nào đề cập một cách hoàn chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu để lấp chỗ trống này là một việc làm cần thiết. Về mặt lí luận, với việc khảo sát một cách chuyên sâu, tỉ mỉ các phương tiện biểu thị tình thái phản thực, đề tài sẽ góp phần cung cấp thêm những cơ sở lí luận quan trọng cho lí luận về tình thái trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Xét về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa rất lớn với việc dịch thuật và giảng dạy ngoại ngữ (đặc biệt là vấn đề dạy tiếng Việt cho người nước ngoài). Luận văn sẽ là những cứ liệu đáng tin cậy phục vụ cho công việc dạy tiếng, giúp cho người học nhận thức được các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu trong tiếng Việt, giúp cho việc phát triển các kĩ năng sử dụng và nhận thức các phương tiện phản thực hữu trong quá trình học tiếng. Do đó, kết quả khảo sát của luận văn chắc chắn là tài liệu tham khảo thiết thực phục vụ cho việc xây 1 dựng các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, ở các hình thức khác nhau. 2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc nghiên cứu các phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ pháp biểu thị tình thái phản thực hữu trong tiếng Việt từ nguồn tư liệu chọn lọc ở một số tác phẩm văn học, báo chí, kịch... 3. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Trong luận văn này, chúng tôi tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây: Xác lập khung lí thuyết có hiệu lực để nghiên cứu tình tháI nói chung và tình thái phản thực hữu nói riêng trong tiếng Việt. Khảo sát các phương tiện từ vựng dùng để biểu thị tình thái phản thực hữu trong tiếng Việt. Khảo sát các phưưong tiện ngữ pháp dùng để biểu thị tình thái phản thực hữu trong tiếng Việt. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được định hướng theo các phương pháp nghiên cứu chung và các thủ pháp ngôn ngữ học cụ thể. Phương pháp diễn dịch: Xuất phát từ lí luận tình thái nói chung để soi sáng một vấn đề lí luận tình thái cụ thể là vấn đề các phương tiện biểu thị tình thái phản thực hữu trong tiếng Việt Phương pháp quy nạp: Nhận xét các hiện tượng từ nguồn tư liệu chọn lọc ở một số tác phẩm văn học, báo chí, kịch. Chúng tôi cũng áp dụng một số thủ pháp ngôn ngữ học đặc trưng để tiếp cận và mô tả hiện tượng một các chính xác, tỉ mỉ: thủ pháp cải biến, thủ pháp so sánh, thủ pháp phân tích ngữ cảnh. 5. Bố cục của luận văn 2 Dựa trên những nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài. Chương 2: Các phương tiện từ vựng biểu thị tình thái phản thực hữu. Chương 3: Các phương tiện ngữ pháp biểu thị tình thái phản thực hữu CHƢƠNG 1 NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1 Khái niệm tình thái Tình thái là một phạm trù rất cơ bản trong ngôn ngữ học. Các nhà nghiên cứu đã dùng thuật ngữ này để nói đến những hiện tượng ngữ nghĩa chức năng rộng lớn, đa dạng có nhiệm vụ phản ánh sự liên hệ của nội dung thông tin được nói đến với thực tế, cũng như sự đánh giá, thái độ của người nói đối với nội dung thông tin miêu tả trong câu, với người nghe và với hoàn cảnh giao tiếp. Như thế, các nội dung quan trọng nhất của khái niệm tình thái đều tập trung ở mối quan hệ của người nói với nội dung miêu tả và thực tế giao tiếp. Tuy vậy, do tính tình thái được biểu hiện ở mọi cấp độ ngôn ngữ và có mặt trong tất cả các ngôn ngữ nên khái niệm này đã được hiểu và lí giải theo nhiều trường phái và khuynh hướng rất khác nhau. Sự khác biệt không chỉ giữa các nhà ngôn ngữ học mà rộng hơn là sự khác biệt trong quan niệm tình thái của lô gich học truyền thống và trong ngôn ngữ học. Các cố gắng của chúng tôi trên bình diện lí thuyết sẽ miêu tả tỉ mỉ hơn các vấn đề này nhằm đưa ra một cách nhìn tương đối bao quát, làm cơ sở để miêu tả vấn đề cốt yếu nhất liên quan đến đối tượng khảo sát. 1.1.1 Tình thái xét về mặt lô gich học truyền thống Các nhà lô gich học là những nhà nghiên cứu đầu tiên quan tâm đến vấn đề tình thái.Trong số đó, Aristole được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng ngành khoa học này vì ông đã xác lập các khái niệm tất yếu, khả năng, và 3 phi khả năng cùng mối quan hệ giữa chúng trong các phán đoán. Kế thừa quan điểm của ông, các nhà lô gich học truyền thống dựa trên những đặc trưng cơ bản của mối liên hệ giữa hai thành phần chủ từ và vị từ, xét ở khía cạnh mức độ phù hợp giữa các phán đoán và thực tế đã phân loại các phán đoán, các mệnh đề lô gich thành 3 nhóm lớn: khả năng, tất yếu, hiện thực. Phán đoán khả năng phản ánh xác xuất có mặt hay vắng mặt của một đặc trưng nào đó ở đối tượng của phán đoán tức đối tượng có thể mang đặc trưng đó ít nhất trong một thế giới khả hữu nào đó; phán đoán tất yếu phản ánh đặc trưng được gắn cho đối tượng, tức đối tượng mang đặc trưng đó trong mọi thế giới khả hữu; phán đoán hiện thực đơn thuần xác nhận sự có mặt hay vắng mặt của đặc trưng được gán cho đối tượng. Khái niệm tình thái hay modus như trên của lô gich học truyền thống chỉ xoay quanh một số kiểu quan hệ chung nhất giữa phán đoán với hiện thực vốn mang tính khách quan, bản thể và được xem như một đặc trưng nội tại của cấu trúc chủ từ- vị từ lô gich. Quan niệm về tình thái như vậy hoàn toàn gạt bỏ mọi nhân tố chủ quan như thái độ, tình cảm, ý chí, sự đánh giá, mức độ cam kết hay mục đích của người nói. Vì vậy tình thái trong lô gich học được gọi là tình thái khách quan nhằm đối lập và phân biệt với tình thái trong ngôn ngữ học là tình thái chủ quan. Sự phân biệt tình thái khách quan và tình thái chủ quan cũng là sự phân biệt các loại nghĩa tình thái ở cấp độ bao quát nhất được nhiều tác giả hiện nay chấp nhận. Tình thái trong lô gich là kiểu tình thái khách quan phản ánh cái nhìn lô gich học về nội dung của câu. Có thể thấy bản chất khách quan của tình thái trong lô gich học trong phát biểu của Kiefer (1994) đã được nhiều nhà ngôn ngữ học viện dẫn: “Bản chất của “tình thái” là sự tương đối hoá giá trị thực cách của nội dung câu nói đối với một tập hợp thế giới khả hữu”. [Dẫn theo Nguyễn Văn Hiệp, 2006, tr 1]. Rõ ràng, tình thái khách quan của lô gich học là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt với tình thái trong ngôn ngữ học- tình thái chủ quan. 1.1.2 Tình thái trong ngôn ngữ học 4 Trong ngôn ngữ học, sự khác biệt đồng thời cũng là sự phong phú, vượt trội hơn hẳn về nội hàm của khái niệm tình thái so với tình thái trong lô gich học chính là sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học đến bình diện dụng học khi nhấn mạnh đến vai trò của người nói đối với điều được nói ra trong câu để xác lập tình thái chủ quan. Các nhà ngôn ngữ học đã đưa một số định nghĩa nhắm nhấn mạnh tính chủ quan hay vai trò của người nói: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức năng thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau đối với điều được thông báo”[ Liapol(1990), dẫn theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, 2003, tr 18]; “Tình thái là thái độ của người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả” [Lyons (1977), dẫn theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, 2003, tr 18]; “Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói với điều được nói đến trong câu” [ Palmer(1986), dẫn theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, 2003, tr 18]. Nhưng cũng chính vì đặc biệt quan tâm sâu sắc đến nhân tố con người trong ngôn ngữ và hoạt động ngôn ngữ mà khái niệm tình thái của ngôn ngữ tự nhiên là một vấn đề rất phức tạp, phức tạp đến mức: “cho đến nay rất khó có thể tìm thấy hai tác giả có quan niệm hoàn toàn thống nhất với nhau về tình thái của ngôn ngữ” hoặc “không có phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và thành phần các ý nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều ý kiến khác biệt và đối lập nhau như phạm trù tình thái” [V.Z Panfilov, dẫn theo Nguyễn Văn Hiệp, 1998, tr 215]. Sở dĩ như vậy là do rất nhiều nhân tố: những sự khác biệt về tình thái có ý nghĩa đối với ngôn ngữ học vốn hết sức đa dạng, không chỉ bó hẹp trong một số đối lập khái quát, phổ quát và tách khỏi biện chủ quan như lô gich học; mặt khác các ý nghĩa tình thái của ngôn ngữ làm thành một bảng màu cực kì đa sắc, đan xen, giao hoà vào nhau, chồng chéo lên nhau và liên quan đến những những bình diện rất khác nhau của tổ chức phát ngôn, 5 tới đồng nghĩa, đa nghĩa, tới việc xác định các cấp độ và phạm trù khác của ngôn ngữ [Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, 2003]. Do vậy, việc xác lập một định nghĩa về khái niệm tình thái có tính bao quát chung của các học giả là một vấn đề không dễ dàng. Tuy nhiên, qua các định nghĩa đã nêu có thể thấy các nhà nghiên cứu ở những mức độ và cách thức khác nhau đã chỉ ra những đặc trưng chung nhất của tình thái: mối quan hệ giữa người nói với nội dung phát ngôn và nội dung phát ngôn với thực tế, trong đó đặc biệt quan tâm đến vai trò người nói. Cơ sở để có được sự thống nhất này là do các nhà nghiên cứu đều xuất phát từ một đối lập cơ bản nhất để xây dựng khái niệm tình thái: Đối lập giữa tình thái và nội dung mệnh đề. Cặp thuật ngữ tình thái / nội dung mệnh đề là thuật ngữ được dùng phổ biến nhất hiện nay để chỉ sự đối lập giữa hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn là nội dung sự tình được nêu ra (nội dung mệnh đề) và thái độ, đánh giá, hoặc cam kết... của người nói đối với nội dung miêu tả (tình thái). Sự đối lập giữa hai thành phần cơ bản như vậy có thể truy nguyên nguồn gốc từ cách gọi của Ch.Bally, học giả đầu tiên đề cập vấn đề tình thái một cách hệ thống. Ch.Bally đã phân biệt trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn hai thành phần cơ bản là modus và dictum. Trong đó, dictum là bộ phận biểu hiện một nội dung sự tình ở dạng tiềm năng nào đó, gắn với chức năng thông tin miêu tả của ngôn ngữ. Modus (tức bộ phận tình thái) gắn với bình diện tâm lí thể hiện những nhân tố thuộc phạm vi cảm xúc, ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói với điều được nói ra, xét trong quan hệ với thực tế, với người đối thoại và với hoàn cảnh giao tiếp. Modus tham gia vào quá trình cho biết, chẳng hạn sự tình nêu trong phát ngôn là khả năng hay hiện thực, khẳng định hay phủ định, mức độ cam kết của người nói đối với độ tin cậy của thông tin đến đâu, đánh giá, tình cảm, ý chí, mong muốn, ý đồ của người nói khi phát ngôn là như thế nào.v.v...Ví dụ như cùng một nội dung nói về sự tình “Cô ấy đã lấy chồng”, người ta có thể thể hiện những nội dung tình thái rất khác nhau: 1) Cô ấy đã lấy chồng. 6 2) Cô ấy chưa lấy chồng. 3) Hình như cô ấy đã lấy chồng. 4) Cô ấy đã lấy chồng rồi ư ? 5) Lẽ ra cô ấy đã lấy chồng rồi ! 6) Đến lúc cô ấy phải lấy chồng ! 7) Nếu cô ấy lấy chồng thì tôi đã biết. Với phát ngôn (1), người nói thể hiện xác nhận, khẳng định với mức độ cam kết rất cao của anh ta rằng sự tình được nói đến là hiện thực, là chắc chắn có đã xảy ra. Nhưng với phát ngôn (2) người nói lại phủ định thông tin “cô ấy đã lấy chồng” với tác tử phủ định “chưa”, phát ngôn này xác định hiện thực trái ngược với điều thông báo trước đó hay nội dung sự tình là không có trong thực tế. Với phát ngôn (3), người nói thể hiện thông báo như một sự đoán định, nội dung sự tình là một khả năng có thể xảy ra hoặc không xảy ra, đó là một kiến giải chủ quan mà người nói không cam kết về tính chân thực của nó. Ở phát ngôn (4), người nói vừa cung cấp thông tin miêu tả vừa thể hiện thái độ ngạc nhiên, có thể kèm theo sự tiếc nuối trước việc cô ấy lấy chồng. Đến phát ngôn (5), người nói lại thông báo rằng sự tình được nói đến là phi hiện thực, không có trong thực tế nhưng kèm theo một dụng ý nào đó (Ví dụ như Lẽ ra cô ấy đã lấy chồng nhưng cô ấy đã quyết tâm đợi anh nên đã không lấy chồng). Với phát ngôn (6), người nói lại nhìn nhận sự việc được nói đến theo những quy ước xã hội về đạo đức, luân lí với sắc thái bắt buộc cần tuân theo với từ “phải”, người nói cho rằng cô ấy đã đến tuổi phải lấy chồng hoặc cô ấy lấy chồng vì phải phù hợp một số điều kiện về gia đình, xã hội, đạo đức... Với phát ngôn (7) người nói nghi ngờ về tính xác thực của việc cô ấy lấy chồng. Sự đối lập giữa hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn giữa nội dung sự tình và nghĩa tình thái là một trong những đối lập cơ bản làm cơ sở xác lập lí thuyết tình thái. Sau Ch.Bally, nhiều nhà ngôn ngữ học tuỳ theo sự nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác đã sử dụng những cách gọi, những thuật ngữ khác nhau để chỉ đối lập này như: modus/ dictum, tình thái/ ngôn liệu, 7 tình thái/ mệnh đề, tình thái/ cơ sở mệnh đề, tình thái/ proto. Hiện nay, trong một phạm vi nhất định, cách dùng cặp thuật ngữ tình thái/ nội dung mệnh đề là cách gọi hợp lí hơn cả và được thừa nhận rộng rãi nhất. Từ cơ sở chung như trên, nhiều học giả đã định nghĩa nội dung tình thái theo những mức độ rộng hẹp khác nhau. Ở cấp độ hẹp các nhà nghiên cứu thừa nhận xem xét tình thái trong ngôn ngữ là kiểu tình thái chủ quan nhằm đối lập tình thái khách quan của lô gich học. Tình thái chủ quan được phân chia thành hai loại : tình thái nhận thức gồm ba tiểu loại là thực hữu, không thực hữu, phi thực hữu; tình thái đạo nghĩa gồm bốn nhóm là bắt buộc, cấm đoán, được phép, miễn trừ. Ở cấp độ rộng, nhiều tác giả như Vinogradov [1977]; Benveniste [1966]; Portie[1992]; Đỗ Hữu Châu, Hoàng Tuệ, Cao Xuân Hạo... đi theo một hướng mở rộng khái niệm tình thái theo hướng bao quát tất cả các hiện tượng ứng với cách hiểu tình thái theo nghĩa rộng, được Bybee diễn đạt là “tất cả những gì mà người nói thực hiện cùng với nội dung mệnh đề” [dẫn theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp,2003, tr 23]. Ở Việt Nam, gần đây nhất, quan niệm của tác giả Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp được nhắc đến nhiều hơn cả. Hai tác giả này đã phân loại khái niệm tình thái trong ngôn ngữ thành 5 nhóm ý nghĩa khác nhau: (1) Các ý nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn của người nói, hay nói theo lí thuyết hành vi ngôn ngữ là kiểu mục đích tại lời mà người nói thực hiện (hỏi, ra lệnh, yêu cầu, bác bỏ, khuyên mời...), gắn trực tiếp với tương tác của giao tiếp, với kiểu tác động của người nói đến người đối thoại. (2) Các ý nghĩa khác nhau thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường hay cảm xúc của người nói với nội dung thông báo: người nói đánh giá nội dung thông báo về mức độ quan trọng, độ tin cậy, xem đó là điều tích cực mong muốn hay tiêu cực, bất ngờ, ngoài chờ đợi hay bình thường, về tính khả năng, tính hiện thực.v.v... (3) Những ý nghĩa thuộc đối lập giữa khẳng định hay phủ định sự tồn tại của sự tình. 8 (4) Những đặc trưng liên quan đến sự diễn tiến của sự tình, liên quan đến khung vị từ và mối quan hệ giữa chủ thể được nói đến trong câu và vị từ (thời thể hay các ý nghĩa được thể hiện bằng vị từ tình thái...). (5) Các ý nghĩa tình thái phản ánh các đặc trưng khác của phát ngôn và hành động phát ngôn với ngữ cảnh, theo quan điểm, đánh giá của người nói. Ví dụ, đặc tính siêu ngôn ngữ, hỏi lại, tự đánh giá của người nói về mức độ hiểu biết của người nghe, thái độ, tình cảm của người nói đối với người nghe, sự đánh giá của người nói đối với các quan điểm, ý kiến khác.v.v... Trong phạm vi đề tài, nhằm xác lập một cách hiểu tình thái tiện dụng nhất cho đề tài, một mặt chúng tôi chấp nhận cách quan niệm rộng về tình thái như trên mặt khác chúng tôi cũng khẳng định sự phân biệt tình thái khách quan và tình thái chủ quan là cơ sở để chúng tôi tiến tới một sự phân loại thống nhất để làm việc. Trong phạm vi tình thái chủ quan, hay tình thái trong ngôn ngữ, chúng tôi tập trung vào một sự phân biệt hết sức cơ bản, đó là sự phân biệt giữa tình thái đạo nghĩa và tình thái nhận thức. Sở dĩ như vậy vì đối tượng nghiên cứu của luận văn chúng tôi là một kiểu ý nghĩa tình thái thuộc tình thái nhận thức. 1.2 Phân biệt tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa Các nhà nghiên cứu đã đưa những cách phân loại khác nhau nhằm sắp xếp các kiểu tính tình thái vào một số phạm trù. Tuỳ thuộc vào những góc độ tiếp cận mà bức tranh các mảng màu về ý nghĩa tình thái có những sự phân loại đa dạng khác nhau. Tuy vậy, cho dù bức tranh phân loại có như thế nào đi nữa, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa vẫn là hai phạm trù trung tâm của tình thái, như Ngũ Thiện Hùng [2003, tr12] đã nhận xét “tình thái đạo nghĩa và tình thái nhận thức- hai kiểu tình thái nguyên thuỷ nhất- được quan tâm và có vị trí quan trọng nhất trong tất cả các công trình nghiên cứu”. Nhiều tác giả khác như Nguyễn Văn Hiệp [2006], Đoàn Thu Hà [2000], Nguyễn Thị Phương Trà [2005] trong các công trình gần đây nhất cũng đã đồng ý với nhận định này. Theo quan sát của chúng tôi, sự thừa nhận hai kiểu tình thái nhận thức cơ bản và tình thái đạo nghĩa (hai phạm 9 trù cơ bản của tình thái chủ quan) là kiểu phân loại được phần lớn các nhà ngữ học nước ngoài như Von Wright, Rescher, Lyons,... và các nhà nghiên cứu Việt Nam chấp nhận rộng rãi nhất. Chẳng hạn, Jerpersen [1924] cho rằng phạm trù tình thái với tư cách là phạm trù ngữ nghĩa chức năng có thể được chia thành hai tiểu phạm trù, dựa trên tiêu chí có hay không có thành tố sự mong muốn (will) của người nói. Hai tiểu loại này ứng với sự phân biệt cơ bản giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Ủng hộ quan điểm này, Von Wright [1951] phân biệt bốn thái (Modes/ Modalities) gồm hai kiểu nhận thức và đạo nghĩa: - Thái khách quan lô gic (alethic modes), hay thái chân thực. - Thái nhận thức (epitemic modes) hay thái của sự hiểu biết. - Thái đạo nghĩa (deontic modes), hay thái của sự bắt buộc. - Thái tồn tại (existential modes), hay thái của sự hiện hữu. Những năm gần đây, cách phân chia các phạm trù tình thái thành ba phạm trù: tình thái khách quan lô gich, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa vẫn là cách phân loại khá phổ biến. J.Lyons [1977] đã nêu ra ba ý nghĩa tình thái: - Tình thái tất yếu và khả năng (bắt nguồn từ sự phân chia của các nhà lô gic). - Tình thái nhận thức, liên quan đến tính thực tế, tính hiện thực - Tình thái đạo nghĩa gắn với một lĩnh vực của lô gich tình thái, đó là lô gich về nghĩa vụ và cho phép. Palmer [1986] lại tách biệt rõ ràng hai loại tình thái này với việc xác định rõ ràng các tiểu loại của nó: - Tình thái nhận thức gồm tình thái thực hữu, phi thực hữu và tình thái phản thực hữu; - Tình thái đạo nghĩa: thể hiện sự áp đặt của người nói về trách nhiệm về mặt đạo lí của người thực hiện hành động nhưn bắt buộc, cấm đoán, được phép, không cho phép. 10 Tựu trung lại, về mặt khái niệm, có thể xem lối nhìn nhận về tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa có những mức độ tổng hợp và bao quát nhất là các định nghĩa: - Tình thái nhận thức: Chỉ ra vị thế (status) hiểu biết của người nói, bao gồm cả sự xác nhận cũng như những đảm bảo cá nhân của người nói với điều anh ta nói ra [Palmer (1986), dẫn theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, 2003, tr 56] - Tình thái đạo nghĩa: Liên quan đến tính hợp thức về đạo đức hay các chuẩn mực xã hội khác đối với hành động do một người nào đó hay chính người nói thực hiện. [J.Lyons (1977), dẫn theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, 2003, tr 57] Cần phải nói thêm là, tình thái đạo nghĩa (deontics) nguyên từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “bổn phận, trách nhiệm” liên quan đến tính tất yếu hay khả năng của các hành động thực hiện với nghĩa vụ và sự cho phép. Nghĩa là không như tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa chỉ các hành động chứ không phải các nội dung mệnh đề. Cách hiểu này cũng được nhiều học giả tán đồng. Như vậy, cũng phức tạp như khái niệm tình thái, sự phân chia các kiểu tình thái nói chung và sự phân loại hai kiểu tình thái cơ bản nói trên là không dễ dàng và chỉ mang tính tương đối mà thôi. Tùy theo mục đích nghiên cứu, mỗi nhà nghiên cứu có thể xác nhận tính hợp lí của từng hệ thống theo những mức độ khác nhau. Để xác lập một khung lí thuyết có hiệu lực để giải quyết vấn đề, trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu đi trước, chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét như sau: - Dưới góc độ đối lập với tình thái khách quan, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa là hai phạm trù cơ bản của tình thái chủ quan. Tình thái nhận thức là kiểu tình thái trong đó người nói đưa ra những bằng chứng, những suy luận có tính cá nhân, làm cơ sở cho một cam kết nào đó đối với tính chân thực với điều được nói ra trong câu. Tình thái đạo nghĩa là kiểu tình thái trong đó người nói thể hiện thái độ của mình được nói ra trong câu, gồm bốn nhóm tình thái là bắt buộc, cấm đoán, được phép, được miễn trừ. Ví dụ: 11 1) Nó đang học bài  Tình thái nhận thức: người nói đưa ra xác nhận đúng với hiện thực mà người nói khẳng định với mức độ cam kết cao với những bằng chứng (Tôi biết thế vì tôi nhìn thấy nó đọc sách, làm bài) 2) Lúc này nó phải học bài chứ ! Tình thái đạo nghĩa: người nói thể hiện thái độ “bắt buộc” đối với hành động đang học bài theo mong muốn của người nói (Giờ này nó phải học bài chứ không phải làm việc khác). 3) Nó có thể làm việc vào ngày nghỉ (Ví dụ của Nguyễn Văn Hiệp) Vị từ tình thái “có thể” đem đến 2 cách hiểu. Theo tình thái đạo nghĩa, câu này được hiểu là: Tôi cho rằng nó được phép làm việc cả vào ngày nghỉ vì một số mục đích như tăng thu thập chẳng hạn. Theo tình thái nhận thức, câu này được khúc giải là: với những bằng chứng hoặc suy luận cá nhân của tôi (như: nó từ chối đi chơi vào những ngày nghỉ, thường đến xí nghiệp vào ngày nghỉ), tôi ngờ rằng có thể nó làm việc vào ngày nghỉ. - Trong phạm vi tình thái chủ quan, chúng tôi đồng ý với sự phân biệt của tác giả Nguyễn Văn Hiệp về tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa theo ba tham số tính tất yếu, tính khả năng, và tính hiện thực. Sơ đồ sau của tác giả tỏ rõ những ưu điểm nhất định vì đã cố gắng khái quát được các bình diện của hiện tượng phức tạp này: Tình thái Tất yếu Đạo nghĩa Khả năng Nhận thức Phi ht Hiện thực Phi ht Hiện thực Đạo nghĩa Nhận thức Phi ht Hiện thực Phi ht Hiện thực (Phi ht: Phi hiện thực) - Xét theo góc độ lí thuyết hành vi ngôn ngữ và hành động ngôn từ: Tình thái nhận thức liên quan đến các tuyên bố về kiến thức, về sự hiểu biết của người nói và phân biệt với tình thái đạo nghĩa vốn liên quan đến các hành động của người nghe. 12 Vì vậy tình thái nhận thức xuất hiện trong các hành động trình bày, xác nhận (nhóm Assertives, theo thuật ngữ của Searle), có hướng ghép lời là lời khớp với thế giới trong khi tình thái đạo nghĩa xuất hiện trong nhóm với hành động khuyến lệnh (Directives, theo thuật ngữ của Searle) có hướng ghép lời theo kiểu lời khớp với hiện thực. Xét các ví dụ sau: 1) Lan sẽ đến gặp tôi vào thứ hai. 2) Lan cần đến gặp tôi vào thứ hai ! Phát ngôn (1) thuộc vào tình thái nhận thức nhằm xác nhận về một sự tình được coi sẽ là hiện thực. Với phát ngôn (2), người nói thể hiện một yêu cầu về phương diện đạo đức, người nói là người yêu cầu cho thực hiện hành động: tôi yêu cầu Lan đến gặp tôi vào thứ hai, đó là một dạng khác của hành động khuyến lệnh (được hiểu như “Hãy đến gặp tôi vào thứ hai !”). 1.3 Các kiểu loại tình thái nhận thức Xét theo khía cạnh nhận thức, như trên đã đề cập, Palmer là học giả đề cập một cách có hệ thống việc phân chia tình thái nhận thức thành 3 tiểu loại mà sau này được chấp nhận rộng rãi: - Tình thái thực hữu (factual). - Tình thái phi thực hữu (non- factual). - Tình thái phản thực hữu (counter- factual). Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đi theo hướng chấp nhận cách phân loại trên về những nội dung cơ bản. Gần đây, tác giả Nguyễn Văn Hiệp đã làm rõ hơn về tên gọi và nội dung các tiểu loại tình thái nhận thức theo 3 nhóm trên như sau: - Tình thái thực hữu (factive): Người nói xác nhận, đưa ra những cam kết về tính chân thực của nội dung mệnh đề dựa trên những bằng chứng nói cách khác sự tình được nói ở đây là hiện thực dựa trên những suy luận có tính cá nhân. Ví dụ: 1) Nào ngờ hắn về thật. 13 2) Ấy thế mà thị cũng cười. 3) Người ta tuôn đến xem. 4) Rồi nó cũng lấy chồng. 5) Chắc chắn cái áo này rất đắt tiền. 6) Thể nào chúng ta cũng gặp phiền phức to. - Tình thái không thực hữu (non- factive): Người nói thể hiện nội dung sự tình như là một sự đoán định, nội dung sự tình là một kiến giải chủ quan mà người nói không đảm bảo, không cam kết về tính chân thực. Ví dụ: 1) Nghe đâu Hùng đã có gia đình. 2) Có thể nó không còn nhớ tên tôi nữa. 3) Hình như nó đã nghe người ta bàn tán. 4) Có lẽ cô ấy đã rời đây rồi. 5) Dường như anh không đủ sức chịu đựng nữa. 6) Nếu anh sợ nó thì anh ở nhà. - Tình thái phản thực hữu (counter- factive): Người nói nhận định rằng sự tình được nói đến ở nội dung mệnh đề là không có thực hay tất yếu phi hiện thực. Ví dụ: 1) Tôi toan mở ra xem nhưng Toàn ngăn lại. 2) Giá tôi biết trước thì đâu đến nỗi. 3) Tôi có biết gì đâu. 4) Hắn đứng lên làm sao được. 5) Thế mà tôi tưởng cô ấy nói đùa. 6) Người ấy không yêu dì. Sự điều chỉnh như trên của Nguyễn Văn Hiệp đã được giới nghiên cứu chấp nhận và thể hiện trong nhiều công trình của Đoàn Thu Hà, Nguyễn Thị Phương Trà, Nguyễn Cẩm Thanh, Bùi Trọng Ngoãn... Nhằm xác lập một quan niệm về nội dung chính sẽ trình bày, chúng tôi cũng kế thừa và đi theo hướng phân loại này 14 nhưng tập trung vào phạm trù tình thái phản thực hữu gắn với việc xác lập các phương tiện biểu thị tình thái nói chung và tình thái phản thực hữu nói riêng. 1.4 Các phƣơng tiện biểu thị tình thái nhận thức nói chung Những nội dung tình thái khi tham gia vào cấu trúc nghĩa của phát ngôn thường được mã hoá bằng những hình thức ngôn ngữ nhất định. Các đơn vị biểu thị tình thái khác nhau không chỉ chia sẻ những thuộc tính ngữ nghĩa chung mà còn có sự khu biệt của những sắc thái mà đơn vị này biểu hiện. Hình thức ngôn ngữ biểu hiện những ý nghĩa tình thái như vậy được gọi là các hình thức biểu hiện tình thái hay các phương tiện biểu thị tình thái. Do sự đa dạng của ngôn ngữ tự nhiên và sự hành chức của ngôn ngữ, các chỉ tố đánh dấu tình thái của các ngôn ngữ cụ thể là rất đa dạng, phong phú, nói như Bybee và Fleischman “Tình thái là lĩnh vực ngữ nghĩa gắn với nhiều yếu tố ngữ nghĩa mà ngôn ngữ diễn đạt. Nó bao gồm một diện rộng các sắc độ ngữ nghĩa...Tình thái được biểu hiện bởi nhiều cách khác nhau, hình thái, từ vựng, cú pháp hay ngữ điệu”[Dẫn theo Nguyễn Văn Hiệp, 2006, tr 26]. Nguyễn Văn Hiệp cũng có nhận xét tương tự: “Nếu chúng ta hiểu tình thái theo một nghĩa rộng, xem như là “tất cả những gì mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề” thì trong thực tế, các nội dung tình thái được biểu thị xuyên thấm qua nhiều cấp độ ngôn ngữ khác nhau, từ ngữ điệu, trật tự từ, các thành tố cấu trúc thuộc bậc câu, bậc trên câu và bậc dưới câu” [2006, tr 25]. Tuy vậy, ở mức độ bao quát nhất, thông thường các phương tiện biểu thì tình thái chuyên dụng nhất được xếp vào 3 nhóm lớn: - Phƣơng tiện ngữ pháp: Thời hoặc các hình thái khác của động từ như (thời, thể) và phương thức trật tự từ, các kiểu câu chỉ tình thái trong tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga...Trong tiếng Việt các chỉ tố ngữ pháp đánh dấu tình thái tập trung ở các kiểu cấu trúc câu như giá..thì, nếu...thì. Ví dụ: Nếu mai trời đẹp chúng ta sẽ đi cắm trại. Với phát ngôn này người nói không chắc chắn về sự tình được nói đến 15 trong câu, đó chỉ là một sự đoán định, cấu trúc “nếu... thì” trong trường hợp này biểu thị tình thái không thực hữu (non-factive). - Phƣơng tiện từ vựng: Các tính từ tình thái nhận thức, động từ tình thái nhận thức, trạng từ tình thái nhận thức, danh từ tình thái nhận thức trong tiếng Anh hoặc các quán ngữ tình thái, tiểu từ tình thái, phó từ tình thái, động từ tình thái...trong tiếng Việt. Chẳng hạn, xét ví dụ: They| ll probably come soon (Tiếng Anh) tương đương với Có lẽ là họ sẽ đến sớm (tiếng Việt). Trong câu tiếng Anh , probably là phó từ biểu thị tình thái nhận thức không thực hữu- thể hiện một sự đoán định sẽ xảy ra ở một thế giới khả năng nào đó. Ở Tiếng Việt, “có lẽ là” cũng biểu thị tình thái không thực hữu thể hiện dự đoán của người nói (người nói không cam kết về tính chân thực của sự tình), tiếng Việt gọi đây là một loại quán ngữ. - Phƣơng tiện ngữ âm: Dùng ngữ điệu bằng cách lên giọng hoặc xuống giọng ở những ngữ đoạn nhất định để thể hiện thái độ, tình cảm hoặc nhấn mạnh vào điểm mà người nói cho là cần chú ý là loại phương tiện ngôn điệu phổ biến ở tiếng Pháp, Anh... Tiếng Việt có rất ít công trình nghiên cứu ngữ điệu tiếng Việt, thay vào đó người Việt thường nhấn giọng hay dài giọng ở các trợ từ nhấn mạnh cuối câu hoặc các thành phần khác của câu, hay kết hợp ngữ điệu với trọng âm để gắn ngữ điệu với cách nhấn âm tiết. Xét ví dụ: 1) Sao anh ta giỏi thế nhỉ ? >– ngạc nhiên, có dụng ý không tin tưởng 2) Hùng đi (1)xem phim với tôi đi (2) ! > khi nhấn mạnh và kéo dài giọng vào từ đi (2) thì “tôi” thể hiện nội dung sự tình như là một lời mời khẩn thiết hay một sự rủ rê, đó là điều mà người nói mong muốn người nghe thực hiện và kêu gọi thực hiện. Nếu chỉ nhấn mạnh vào từ đi (1) thì sắc thái mong muốn và kêu gọi thực hiện sẽ giảm hiệu lực rất nhiều. Từ sự phân loại trên có thể thấy sự tương đồng hay khác biệt của nhân tố loại hình học đã tác động khá lớn đến việc hiện thực hoá các chỉ tố tình thái. Ở các ngôn ngữ có biến đổi hình thái, các phương tiện ngữ pháp như thức hoặc các hình thái 16 khác của động từ (như thời, thể) đóng một vai trò quan trọng trong việc biểu thị tình thái, kế đến là các phương tiện từ vựng và ngữ điệu (phương tiện ngữ âm). Còn trong tiếng Việt, do tính chất là ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính nên thức xa lạ với tiếng Việt, thay vào đó, bên cạnh ngữ điệu, các phương tiện từ vựng từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng thể hiện tính tình thái của tiếng Việt. Gần đây một nhà nghiên cứu đã chú trọng hơn đến giá trị của các phương tiện ngữ pháp, chẳng hạn đã chú ý đến kiểu câu điều kiện với tư cách là một phương tiện thể hiện tình thái. Tuy nhiên, các phương tiện ngữ pháp biểu thị tình thái trong tiếng Việt là lĩnh vực chưa được nghiên cứu nhiều. Một sự phân biệt về hai loại phương tiện này ở tiếng Việt sẽ là cơ sở lí luận đặc biệt quan trọng giúp chúng tôi xác lập các phương tiện từ vựng và ngữ pháp để miêu tả tình thái phản thực hữu trong tiếng Việt. 1.5 Phân biệt phƣơng tiện từ vựng và phƣơng tiện ngữ pháp ở tiếng Việt Trong các ngôn ngữ biến tố như tiếng Pháp, Anh, Nga các nhà nghiên cứu thường dễ dàng phân biệt rõ ràng các phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ pháp do đặc biểm từ ở các ngôn ngữ này biến đổi hình thái để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp. Tình hình khác hẳn với các ngôn ngữ không biến hình như tiếng Việt, ở đó các dấu hiệu từ vựng được sử dụng hết sức linh hoạt và với tần số cao và sự phân biệt các phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ pháp không được đặt ra nghiêm ngặt. Các nhà nghiên cứu khi xem xét các phương tiện biểu thị tình thái đã có những quan điểm khác nhau nhằm xếp chúng vào lĩnh vực nhất định. Chẳng hạn Phạm Hùng Việt, Nguyễn Văn Hiệp, Đoàn Thị Thu Hà, Bùi Trọng Ngoãn, Nguyễn Phương Trà xem các động từ tình thái như muốn, cần, toan, định (nhóm 1) và các phó từ như đã, sẽ, đang, từng, vừa mới( nhóm 2), các tiểu từ tình thái à, ư, nhỉ, nhé, đi (nhóm 3) là phương tiện từ vựng. Nhưng Ngũ Thiện Hùng [2003, tr 33] lại xếp nhóm (1) và (2) là phương tiện ngữ pháp. Ngô Thị Minh [2001, tr 33] lại đưa nhóm 17 (1) vào các phương tiện từ vựng- ngữ pháp. Đinh Văn Đức [1986] gọi chung các đơn vị như vậy là các phương tiện nửa từ vựng. Sự chồng chéo lẫn nhau của các cách phân loại như trên là một thực tế tồn tại hiển nhiên trong tiếng Việt. Mỗi nhà nghiên cứu tuỳ theo mục đích của mình mà có thể xếp các phạm trù biểu thị tình thái vào những hệ thống riêng. Do vậy, luận văn không có tham vọng xác định tính hợp lí hay không của vấn đề và bao quát các cách phân loại mà chỉ xác lập các phương tiện từ vựng và ngữ pháp biểu thị tình thái nói chung, với tính chất là một sự xác lập để làm việc, từ đó tiến tới xác định hình thức biểu hiện tình thái phản thực hữu cụ thể. Theo Nguyễn Văn Hiệp [2006, tr 10] có thể kể đến các nhóm phương tiện thể hiện tình thái như sau: - Phương tiện từ vựng: (1) Các phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ: đã, sẽ, đang, từng, vừa, mới. (2) Các vị từ tình thái làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, cố, muốn, đành, được, bị, bỏ... (3) Các động từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những điều kiện về ngôi, thời): ra lệnh, van xin, đề nghị, yêu cầu... (4) Các thán từ: ôi, eo ơi, chao ôi, ồ... (5) Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp tương đương: à, ư, nhỉ, nhé,, thôi, chứ, đi, mất, thật, lại còn, thì chết... (6) Các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may (là), may một cái (là), đáng buồn (là), đáng mừng (là), đáng tiếc (là)... (7) Các động từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: tôi e rằng, tôi sợ rằng, tôi nghĩ rằng... (8) Các quán ngữ tình thái: nói gì thì nói, tội gì, kể ra, làm như thể... (9) Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngày, cả, chính, đích thị, mới, chỉ... 18 (10) Đại từ nghi vấn dùng trong những câu phủ định, bác bỏ: P làm gì, P thế nào được. - Phương tiện ngữ pháp: Kiểu câu điều kiện, giả định: Nếu...thì, giá...thì, cứ...thì... Nhìn một cách tổng thể, cách phân loại như trên về các phương tiện biểu thị tình thái nhận thức nói chung đã được trình bày khá bao quát và đầy đủ. Mặc dù vậy, đi sâu vào chi tiết, dựa trên kiểu ý nghĩa tình thái phản thực hữu là loại tình thái trong đó người nói cho rằng sự tình được nói đến là không chân thực, hay phi hiện thực, hoàn toàn giả dối, chúng tôi phân chia các phương tiện biểu hiện theo những tiêu chí tiện dụng nhất để mô tả như sau: - Phương tiện từ vựng: Những từ và tổ hợp từ chuyên dụng có chức năng của những tác tử1 tình thái biểu thị ý nghĩa nội dung sự tình là phi hiện thực, gồm 3 nhóm: các quán ngữ tình thái đầu câu: có mà P (mệnh đề), làm như thể P (Làm như thể anh ta mới học hết cấp 2 ấy- Thực tế anh ta đã học một cấp học cao hơn); các vị từ tình thái hàm hư: toan, suýt, định (Tôi toan đi thì anh ấy đến); Các tiểu từ tình thái cuối câu: đâu, nào...(Tôi có biết gì đâu- Tôi không biết việc đó) - Phương tiện ngữ pháp: Các kiểu câu có nội dung biểu thị sự tình phi hiện thực. Điều này có nghĩa là: các từ phủ định như không, chẳng hay động từ chỉ thái độ mệnh đề như tưởng, ngỡ không còn là phương tiện từ vựng thông thường mà trở thành phương tiện ngữ pháp vì chúng nằm trong những kết cấu câu biểu thị sự tình phi hiện thực (câu phủ định, câu chứa động từ chỉ thái độ mệnh đề). Câu điều kiện cũng được xếp vào nhóm này khi chúng chỉ tình thái phản thực. Vì vậy nhóm này gồm 3 loại: các phó từ phủ định không, chẳng, chưa, nào... (Tối qua nó không học bài); các kiểu câu biểu thị tình thái phản thực hữu (Nếu...thì đã...Nếu biết cậu ở nhà thì tôi đã gõ cửa rồi); Một số loại câu chỉ thái độ mệnh đề:( Tôi tưởng (P)...Cô ấy tưởng anh đã rõ rồi nên không nói gì). Việc xếp nghĩa phủ định vào tình thái phản 1 Chúng tôi hiểu tác tử (operator) tình thái như là bất kì loại phương tiện nào (từ, ngữ, thậm chí kết cấu C-V) tác động vào câu, mang đến cho câu một nội dung tình thái nào đó. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan