LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kháng nghị phúc thẩm là một trong những chế định quan trọng trong tố tụng hình
sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, Viện kiểm sát có quyền kháng
nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý cho
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, qua đó kịp thời phát hiện và khắc phục những
sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới cả về nội dung cũng như hình thức tố tụng, đảm
bảo sự công bằng của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
Bản án, quyết định của Tòa án không chỉ có ảnh hưởng đến những người tham
gia tố tụng mà còn ảnh hưởng tới sự công bằng của xã hội. Chính vì vậy, bản án,
quyết định của Tòa án được tuyên ra phải đảm bảo chính xác, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Nhưng không phải trong mọi trường hợp Tòa án, đặc biệt là Tòa án
cấp sơ thẩm đều đáp ứng được yêu cầu này. Cũng chính vì điều đó mà pháp luật quy
định nguyên tắc hai cấp xét xử. Kháng nghị của Viện kiểm sát là một trong những cơ
sở làm phát sinh thủ tục phúc thẩm và hiện thực hoá nguyên tắc hai cấp xét xử. Kháng
nghị phúc thẩm là biện pháp quan trọng để thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm không làm oan sai và bỏ lọt tội phạm,
khắc phục các vi phạm trong hoạt động xét xử; bảo đảm pháp chế thống nhất, góp
phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, kháng nghị phúc
thẩm hình sự không chỉ là quyền hạn mà còn là trách nhiệm của Viện kiểm sát.
Nhằm khắc phục những thiếu xót trong hoạt động tố tụng, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ra đời, cùng với đó là chuyên môn, nghiệp vụ của những người thực hiện tố
tụng ngày càng được nâng cao đáp ứng cho công tác xét xử, định tội. Tuy nhiên, trên
thực tế, vẫn chưa thể khắc phục được những hạn chế kể trên dẫn đến việc kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát vẫn chưa đạt được kết quả tối ưu nhất,
những sai phạm của Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chưa được khắc phục kịp thời, từ đó gây
1
ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng, làm cho mục đích xét xử không đạt được.
Năm 2013, ngành Kiểm sát nhân dân xác định là năm hoạt động: “Đổi mới, Chất
lượng, Kỷ cương, Hướng về cơ sở”. Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về cải
cách tư pháp trong Ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020 theo Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính
trị. Chính vì vậy, nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thực tiễn thi hành, từ đó cho thấy kiến nghị
hoàn thiện những quy định này là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những vấn đề có nội dung rộng
và phức tạp của khoa học luật tố tụng hình sự. Vấn đề này đã được một số nhà khoa
học pháp lý nghiên cứu. Trong các sách báo pháp lý của nước ta đã có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ và phạm vi khác nhau.
Chúng ta có thể kể tên một số công trình nghiên cứu như sau: “Thủ tục phúc
thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” (1998), Nxb. Chính trị quốc gia của Đinh
Văn Quế; Chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Trần Xuân Quang (2009), Luận văn thạc sỹ luật
học; “Kháng cáo, kháng nghị trong phúc thẩm hình sự”, Luận văn thạc sỹ luật học
của Ngô Thanh Xuyên (2011), “Vì sao tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm được chấp nhận
còn thấp” của Trịnh Khắc Triệu, Tạp chí kiểm sát, số 8 năm 2007; “Căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự” của Nguyễn Thúy Vân, Tạp chí kiểm sát số 8
năm 2007; “Chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn” của Nguyễn Huy Tiến, Tạp chí Kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Số 16/2010; “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm” của Ngô Thanh Xuyên, Tạp chí Luật học.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 4/2012…
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
2
Với những lý do trên, cùng với mong muốn nghiên cứu của bản thân nên em đã
chọn đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm khóa
luận tốt nghiệp.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
kháng nghị phúc thẩm hình sự. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một vấn đề
rộng, nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về chủ thể của quyền kháng nghị, thời hạn, thủ tục kháng nghị, việc thay
đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu về thực trạng kháng nghị
phúc thẩm hình sự, từ đó đề xuất những kiến nghị thích hợp để nâng cao chất lượng
kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền trong tiến trình cải cách và hoàn thiện hệ thống
tư pháp.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể khác như: nghiên cứu lý luận; thống kê; phân tích, tổng hợp; so sánh;
phương pháp lý luận kết hợp thực tiễn; phương pháp lịch sử.
5. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn, khóa luận đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Cụ thể, khóa luận giải quyết một số vấn đề sau:
- Phân tích làm rõ khái niệm và ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
cũng như lịch sử hình thành và phát triển những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm.
3
- Phân tích, đánh giá thực tiễn về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ đó làm
rõ những vướng mắc trong quy định của pháp luật, những tồn tại trong thực tiễn áp
dụng. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng
nghị phúc thẩm
Chương 3: Thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự và những kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự.
4
Chương 1
Một số vấn đề lí luận về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự
1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lí đặc biệt mà nhà nước chỉ
giao cho ngành kiểm sát. Theo Điều 19, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 thì: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện
kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, kháng nghị là một trong những hoạt động quan trọng thể hiện chức năng của
Viện kiểm sát.
Trong lịch sử tố tụng thì hoạt động kháng nghị đã xuất hiện rất lâu ở Việt Nam
cũng như trên thế giới. Hiện nay có khá nhiều quan điểm và khái niệm khac nhau về
hoạt động kháng nghị nói chung và kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng. Về khái
niệm “kháng nghị”, trong từ điển luật học có định nghĩa như sau: “Kháng nghị là hành
vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện sự phản đối một phần hoặc toàn bộ nội
dung của bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được
chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của
Tòa án”. Cách định nghĩa này rất khái quát, đã nêu được chủ thể, đối tượng, thủ tục
nhưng c còn thiếu sót. Như trong thời gian kháng nghị phúc thẩm, bản án hoặc quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, kháng nghị không thể làm “ngưng”
hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm (Điều 240 BLTTHS năm 2003). Ngoài ra,
khái niệm chưa nêu được chủ thể của quyền kháng nghị là Viện kiểm sát.
Theo “Từ điển giải thích Luật học” của Trường đại học Luật Hà Nội thì kháng
nghị là việc “người có thẩm quyền yêu cầu Ṭòa án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm” [11, tr.183]. Khái niệm trên đã
nêu được đối tượng, chủ thể nhưng chưa nêu ra chủ thể nào có quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, chủ thể nào có quyền xét kháng nghị.
5
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một văn
bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Ṭòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Ṭòa
án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử nhưng xét thấy không
đúng pháp luật” [7, tr.40]. Định nghĩa đã nêu được hình thức, thẩm quyền, chủ thể của
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nhưng tác giả chỉ mới đi sâu vào hình thức, mà
chưa nêu được bản chất của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là nhằm sửa chữa
những sai lầm của Ṭòa án cấp sơ thẩm sao cho đúng. Mặt khác, Viện kiểm sát có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cả trong trường hợp bản án hoặc quyết định
của Ṭòa án cấp sơ thẩm thiếu căn cứ, không phản ánh đúng sự thật khách quan chứ
không chỉ có quyền kháng nghị duy nhất đối với bản án, quyết định “không đúng
pháp luật”.
Ccòn có rất nhiều tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau về kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, nhưng theo tôi cách định nghĩa theo Giáo trình Công tác kiểm sát
là hợp lí và khoa học “kháng nghị phúc thẩm là một trong những quyền của Viện kiểm
sát được thể hiện bằng một văn bản pháp lí thể hiện quan điểm không thống nhất với
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Ṭòa án cấp sơ thẩm vì xét xử thiếu
căn cứ, không hợp pháp và yêu cầu Ṭòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án đó đúng
pháp luật” [12, tr.88]. Định nghĩa trên đã nêu được một cách cơ bản các nội dung của
kháng nghị như chủ thể, thẩm quyền, đối tượng, hình thức. Tuy không phải là khái
niệm pháp lí được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nhưng đây là một khái niệm
khá chính xác và khoa học.
Từ những khái niệm đã nêu ra ở trên có thể hiểu thêm về kháng nghị phúc thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam. Song để có thể đưa ra một khái niệm chính xác về
kháng nghị phúc thẩm hình sự thì cần làm rõ những vấn đề sau:
Một là, chủ thể của quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là Viện kiểm sát
cùng cấp với Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp của Viện kiểm sát đó. Chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm khác với
quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm. Còn kháng nghị giám đốc thẩm
6
và tái thẩm chỉ dành cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (từ cấp tỉnh trở lên) và một
số chủ thể khác.
Hai là, đối tượng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm c chính là bản án quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định khi đã có hiệu lực pháp luật thì
không phải là đối tượng kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mà là đối
tượng của kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Ba là, pháp luật quy định cho Viện kiểm sát quyền đồng thời là nhiệm vụ kháng
nghị phúc thẩm nhằm mục đích để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc
xét xử và thực hành quyền công tố, đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, khách
quan và công bằng. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đảm bảo cho hoạt
động tố tụng hợp pháp, khách quan, đầy đủ, tương hỗ cho chức năng thực hành quyền
công tố làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Quy định quyền kháng cáo, kháng nghị theo phúc thẩm còn nhằm mục đích
sửa chữa và khắc phục những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm. Đây là điều mà những
người thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị và chính
Tòa án các cấp hướng tới.
Bốn là, thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được quy định khác nhau
cho hai chủ thể có quyền kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị giám đốc thẩm và
tái thẩm, thời hạn được quy định giống nhau cho tất cả các chủ thể thực hiện quyền
kháng nghị. Thời hạn kháng nghị cũng được quy định khác với thời hạn kháng cáo,
thời hạn kháng cáo được quy định chung cho tất cả các chủ thể có quyền kháng cáo.
Năm là, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải được thể hiện theo hh nh thức
luật định, Viện kiểm sát khi ban hành kháng nghị phải thể hiện dưới dạng văn bản.
Điều này khác với kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, người có quyền kháng cáo có
thể kháng cáo thông qua văn bản (đơn kháng cáo) hoặc tŕnh bày trực tiếp bằng miệng.
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng khái niệm kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm cần phải bao hàm các nội dung sau: “Kháng nghị phúc thẩm
7
là quyền của Viện kiểm sát nhân dân được thể hiện bằng một văn bản pháp lý, yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm do xét xử thiếu căn cứ, không hợp pháp nhằm
đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, khách quan và công bằng ”.
Nói tóm lại, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là thể hiện sự bất đồng quan
điểm của các chủ thể theo quy định của pháp luật với bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm. Chỉ khi có kháng nghị Tòa án cấp trên trực tiếp mới xét xử lại vụ án theo
thủ tục phúc thẩm. Khi có kháng nghị thì việc xét xử là bắt buộc để kiểm tra lại tính
hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật,
đồng thời cũng xét xử lại nội dung vụ án. Vì vậy, việc kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm là phù hợp với “nguyên tắc hai cấp xét xử” và đảm bảo cho nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
1.2. Ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
1.2.1. Ý nghĩa chính trị
Việc quy định và thực hiện chế định kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình
sự (TTHS) có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Kháng nghị phúc thẩm là một hình thức pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát
thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử và thực hành quyền công tố. Khi bản án
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án phúc thẩm sẽ tiến hành
nhiều biện pháp nhằm làm sáng tỏ nội dung kháng nghị, xem xét những vấn đề khác
có liên quan, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác để đưa vụ án ra xét xử.
Trong toàn bộ quá tŕnh này, Viện kiểm sát (VKS) có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với tất cả các hoạt động tố tụng của hội đồng xét xử (HĐXX) và những
người tham gia tố tụng khác tại phiên Tòa phúc thẩm. Hoạt động này của VKS cũng là
một nhân tố bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại
phiên Tòa (như tham gia xét hỏi, phát biểu quan điểm của VKS, tranh luận, đối đáp,
8
đề nghị HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị) đạt hiệu quả
cao. Kiểm sát viên theo dõi chặt chẽ diễn biến phiên tòa, kịp thời phát hiện những sai
lầm thiếu sót của HĐXX trong quá trình giải quyết vụ án để yêu cầu khắc phục ngay,
đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, khách quan, công bằng và đúng pháp luật,
đảm bảo nguyên tắc pháp chế và đảm bảo tính tối thượng của pháp luật.
Khi VKS thực hiện quyền kháng nghị của mình đồng nghĩa với việc họ đã giúp
Tòa án cấp trên biết những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới để có sự chỉ đạo,
hướng dẫn, kịp thời khắc phục những sai phạm và rút kinh nghiệm cho công tác xét
xử, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật thống nhất của Tòa án các cấp. Từ nội dung
kháng cáo, kháng nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ thấy những vướng mắc trong
quy định của pháp luật, từ đó có kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống
pháp luật.
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là cơ sở
pháp lý làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Khi có kháng nghị phúc thẩm Tòa án cấp
trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm xét
xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp của bản án. Tòa án cấp phúc
thẩm khi xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị và trong quá tŕnh xét xử lại vụ án có khả năng phát hiện những sai lầm,
thiếu sót trong việc xét xử sơ thẩm và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp. Qua đó, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Mặt khác, thông qua việc sửa chữa sai lầm
của Tòa án cấp dưới, Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn Tòa án cấp dưới giải thích và
vận dụng đúng pháp luật.
Chế định kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm còn có ý nghĩa quan trọng đảm bảo
thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như nguyên tắc “thực hiện chế độ
hai cấp xét xử”, nguyên tắc “thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTHS”… đây là những nguyên tắc thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước
9
trong việc đưa ra phán xét về số phận pháp lư, sinh mạng và quyền lợi của người đă
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự . Đồng thời, thể hiện rõ ràng nhất bản
chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn
tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân.
1.2.3. Ý nghĩa xã hội
Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của nhà nước, trong phạm vi xét
xử của mình phải đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì thế, khi
nhận được một bản kháng nghị của VKS thì cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm đều phải có trách nhiệm kiểm tra lại bản án, quyết định đã tuyên. Bản án,
quyết định nếu có sai sót thì sửa chữa, khắc phục, nếu đúng pháp luật thì bác đơn
kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật sẽ nâng cao uy tín của Tòa án, tạo lòng tin cho người bị hại,
người có quyền và lợi ích liên quan, thậm chí cả bị cáo khi nhận được một bản án
đúng với hành vi của mình, đồng thời tạo lòng tin cho cả xã hội.
Kháng nghị của VKS đối với các bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật
vừa thể hiện kết quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, vừa thể hiện trách
nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm không để xảy ra các trường hợp xét xử oan,
sai hoặc bỏ lọt tội phạm, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Kháng nghị khi phát hiện thiếu sót trong bản án, quyết định
của Tòa án không chỉ là quyền hạn mà còn là nhiệm vụ của VKS.
Chế định kháng cáo phúc thẩm được quy định trong BLTTHS thể hiện sự tôn
trọng và đảm bảo thực hiện có hiệu quả các quyền của con người trong lĩnh vực tư
pháp. Quy định này tạo điều kiện để các chủ thể tham gia tố tụng có thể trực tiếp bảo
vệ quyền lợi của mình ở cấp xét xử cao hơn.
Như vậy, việc quy định và thực hiện kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố
tụng hình sự góp phần rất lớn vào việc đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả
giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm, góp phần củng cố lòng tin của của
10
nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của Tòa án nói riêng và
các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Bởi vì, mục đích cao nhất của hoạt động xét
xử là đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bảo đảm
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
Kết luận chương 1: Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra ở phần mở
đầu, trong phạm vi chương 1, khóa luận đã làm rõ được một số vấn đề lí luận về
kháng nghị phúc thẩm hình sự. Trên cơ sở tìm hiểu, nhận xét và đánh giá một số quan
điểm mang tính khoa học, đưa ra một số vấn đề lí luận liên quan đến khái niệm kháng
nghị, từ đó nêu ra khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Khóa luận đã cũng nêu được ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm hình sự trên các
phương diện: chính trị, pháp lý, xã hội.
11
Chương 2
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc
thẩm trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Ngày 2/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau khi ra đời, bộ máy Nhà nước đã nhanh
chóng được thành lập để kịp thời lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ Nhà nước; để
kịp thời trừng trị những phần tử phản cách mạng phá hoại, hệ thống Tòa án được hình
thành. Theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, Tòa án
quân sự đã được thành lập tại Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn. Cùng với sự ra đời
của Tòa án, việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cũng hình thành và phát triển qua
nhiều giai đoạn của lịch sử.
Giai đoạn thứ nhất: Từ tháng 8/1945 đến năm 1959 (trước khi có Luật tổ chức
Toà án nhân dân năm 1960).
Điều 2 Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 đã quy định Tòa án quân sự có chức
năng: “Xét xử tất cả những người nào phạm một việc gì có phương hại đến nền độc lập
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Như vậy, sắc lệnh này đã quy định quyết định
của Tòa án quân sự là chung thẩm, án được thi hành ngay, các đương sự không có
quyền chống án. Việc quy định này hoàn toàn phù hợp với tình hình đất nước ở thời
điểm đó làcần phải nhanh chóng trừng trị, trấn áp bọn phản cách mạng phá hoại Nhà
nước. Tại Điều 3 Sắc lệnh như sau: “Những quyết định của Tòa án quân sự sẽ được thi
hành ngay không có quyền chống án, trừ các bản án xử tử”, quy định này đồng nghĩa
với việc những người bị kết án tử hình vẫn có quyền chống án. Chúng ta có thể nhận
thấy các quy định về kháng nghị bắt đầu hình thành từ Điều 3 của Sắc lệnh số 33/SL
ngày 13/9/1945. Các Sắc lệnh sau đó như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ
chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, sắc lệnh
số 112/SL ngày 28/6/1946 đã có các quy định cụ thể khác về kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
12
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã
quy định về việc tổ chức Tòa án theo hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đảm bảo được
quyền chống án của các đương sự. Sau khi Hiến pháp 1946 ra đời thì các văn bản
pháp luật cũng dần được ban hành để cụ thể hóa nguyên tắc hai cấp xét xử cũng như
quyền kháng cáo của các đương sự. Như Sắc lệnh số 22/5/1950 quy định: “Công tố
viên có quyền kháng cáo cả việc Hình và việc Hộ” (Điều 15). Ngoài ra, tại Thông tư
số 1828/VHC ngày 18/10/1955 của Bộ tư pháp có quy định về quyền chống án và thời
hạn chống án, quy định rõ những người những người có quyền chống án, kháng án,
khuyết tịch và thời hạn thực hiện các quyền đó.
Tóm lại, ở giai đoạn này cùng với việc kháng chiến giành độc lập thì hệ thống
Tòa án ngày càng hoàn thiện, các nguyên tắc đặc biệt là nguyên tắc hai cấp xét xử
ngày càng được coi trọng, đi sâu vào thực tế, đảm bảo được quyền dân chủ của các
đương sự. Cùng với quá trình đó, các quy định về việc chống án cũng hình thành,
hoàn thiện và phát triển hơn đồng thời được quy định trong nhiều văn bản. Việc quy
định quyền kháng án và thực hiện tốt việc xét xử những bản án bị kháng án đã làm
cho nhân dân ngày càng tin tưởng vào chế độ và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Giai đoạn thứ hai: Từ năm 1960 đến năm 1988 (trước khi ban hành BLTTHS
năm 1988).
Trong hoàn cảnh mới của đất nước, bản Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp
nên được thay thế bằng Hiến pháp năm 1959. Cùng với đó thì các văn bản mới cũng
được ban hành, sửa đổi để phù hợp với văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.
Ngày 14/7/1960 Luật tổ chức Toà án nhân dân được ban hành đánh dấu một bước
ngoặt trong quá trình phát triển của ngành Tòa án. Nguyên tắc hai cấp xét xử đã được
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 luật định hoá. Cùng với nguyên tắc này, vấn
đề về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cũng được quy định cụ thể trong các văn bản
khác nhau như: Công văn số 570/TC ngày 2/4/1963 về thủ tục gửi hồ sơ án bị kháng
án hoặc bị kháng nghị; Công văn số 1932/NCPL ngày 4/9/1963 giải đáp về thủ tục
kháng cáo, kháng án… Như vậy, các vấn đề về kháng nghị trong giai đoạn này đã
được làm rõ và quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật khác nhau và còn được
13
thể hiện ngay ở Thông tư số 03/NCPL ngày 19/5/1967 của TANDTC.
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất năm 1975 thì việc áp dụng thống
nhất pháp luật được coi là yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, Quốc hội khóa VI kỳ họp thứ
nhất đã ra Nghị quyết: “Ở miền Nam chưa có sẽ áp dụng những văn bản miền Bắc đã
có”. Theo tinh thần của Nghị quyết này thì cả nước sẽ áp dụng thống nhất các quy
định pháp luật, hay các quy định về kháng nghị và thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự
cũng sẽ được áp dụng thống nhất trong cả nước.
Hiến pháp năm 1980 đã ra đời thay thế cho Hiến pháp năm 1959. Cùng với bản
Hiến pháp mới Luật tổ chức Toà án nhân năm 1981 được ban hành ngày 4/7/1981,
trong đó mặc dù nguyên tắc hai cấp xét xử không được luật định hóa nhưng các quy
định về quyền của Tòa án cấp phúc thẩm vẫn được quy định cụ thể. Như vậy, trong
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 thì vấn đề kháng cáo, kháng nghị vẫn tiếp tục
được chú trọng.
Tóm lại, trong giai đoạn này các vấn đề về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã
được luật hóa cụ thể hơn và được áp dụng thống nhất trong cả nước.
Giai đoạn thứ ba: từ năm 1988 đến năm 2003 (trước khi ban hành BLTTHS năm
2003).
Năm 1988 BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành và có hiệu lực pháp luật
từ ngày 1/1/1989, đây là một bước tiến mới của luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trong
bộ luật này, các quy định về kháng nghị phúc thẩm được quy định khá cụ thể tại
chương XXII phần thứ tư của BLTTHS. Các quy định về thẩm quyền, thủ tục, thời
hạn và các quy định về thông báo về việc kháng nghị; hậu quả của việc kháng nghị…
cũng được quy định chi tiết từ Điều 205 đến Điều 213 của BLTTHS.
Có thể nói BLTTHS ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn của hoạt động tố
tụng hình sự nói chung và hoạt động kháng nghị theo thủ tục tố tụng hình sự nói riêng.
Với sự ra đời của BLTTHS, các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được bảo đảm
thực hiện, đồng thời giúp hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm trong các bản án,
quyết định của Tòa án trước khi có hiệu lực pháp luật. BLTTHS năm 1988 đã được
sửa đổi, bổ sung 3 lần vào các năm 1990, 1992, và năm 2003 để phù hợp với tình hình
14
mới của đất nước và ba lần sửa đổi, bổ sung này đã làm cho BLTTHS dần được hoàn
thiện hơn. Như vậy sau khi có BLTTHS năm 1988 các quy định về kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự đã được quy định một cách chi tiết và cụ thể
tại một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất của luật tố tụng hình sự.
2.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về kháng nghị
phúc thẩm
BLTTHS năm 2003 vào ngày 26/11/2003 được Quốc hội khóa XI tại kì họp thứ tư
thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004. BLTTHS năm 2003 được ban hành
để đáp ứng yêu cầu về đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp.
BLTTHS 2003 đã kế thừa và phát triển các quy định của BLTTHS năm 1988.
Trong Bộ luật mới này, các quy định về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được quy
định tại chương XXIII thuộc phần thứ tư của BLTTHS. Hội đồng thẩm phán
TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ tư"Xét sử phúc thẩm" của bộ luật tố tụng hình sự, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, trong đó có những hướng dẫn về kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm.
2.2.1. Đối tượng kháng nghị phúc thẩm hình sự
Thông qua quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm có thể thấy rõ đối tượng
của kháng nghị phúc thẩm hình sự. BLTTHS năm 2003 không quy định về đối tượng
của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong một điều luật cụ thể mà được thể hiện
qua nội dung của nhiều điều luật khác nhau. Cụ thể, các điều 232, 239 và điều 240 của
BLTTHS năm 2003 cho thấy: Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự phải là
một bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Điều này hoàn toàn phù
hợp với quy định tại điều 230 của BLTTHS.
Quy định tại Điều 230 BLTTHS năm 2003 về tính chất của xét xử phúc thẩm chỉ
rõ: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực
15
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Như vậy, đây chính là điều đã gián tiếp quy
định đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là bản án, quyết định của Tòa
án chưa có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm cũng được gián tiếp quy định tại Điều 232 BLTTHS: “Viện kiểm sát cùng cấp
và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết
định sơ thẩm”. Tại Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân: “Khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật …”. Như vậy, có thể suy ra đối
tượng của kháng nghị phúc thẩm đó là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp sơ thẩm.
Trong Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội, các tác giả viết về đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như sau:
“Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là những bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật” [24, tr. 407]. Tuy nhiên, giáo trình cũng chưa chỉ rõ
đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự là gì.
Hơn nữa, pháp luật tố tụng Việt Nam cũng không hạn chế đối tượng của kháng
nghị phúc thẩm. Nghiên cứu pháp luật của Pháp cho thấy có sự quy định khác so với
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Ví dụ: Điều 546, luật TTHS Pháp quy định nhưng
người có quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm “ nếu hình phạt đã tuyên là hình
phạt tiền quy định cho tội vi cảnh bậc năm, nếu Tòa án đã tuyên hình phạt quy định tại
khoản 1 Điều 131 – 16 Bộ luật hình sự, hoặc nếu mức tiền phạt mà Tòa đã tuyên vượt
quá mức tối đa quy định cho tội vi cảnh bậc hai” [21, tr.234]. Quy định này được giải
thích rõ hơn trong cuốn “tố tụng hình sự và vai trò của tố tụng hình sự”: “Đối với các
tội vi cảnh, chỉ có những án vi cảnh quan trọng đến mức nào đó mới bị kháng cáo,
kháng nghị. Ngày nay chỉ những án vi cảnh bị phạt tiền từ 5.000 phê – răng trở lên
mới bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm” [5, tr42]. Như vậy, luật TTHS Pháp quy
định một số vụ án có thể xét xử chung thẩm, chỉ những vụ án vi án vi cảnh quan trọng
hoặc án vi cảnh bị phạt tiền từ 5.000 phê – răng trở lên mới được kháng nghị phúc
16
thẩm.
Đối với các quyết định sơ thẩm hình sự thì Điều 239 BLTTHS năm 2003 quy
định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị. Các quyết định của toà án cấp sơ thẩm là đối
tượng của kháng nghị phúc thẩm gồm quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án (khoản 2
Điều 239 BLTTHS, mục 2.1 phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP); quyết định về
việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (khoản 2 Điều 316 BLTTHS, mục 2.2
phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ); quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ
(khoản 5 Điều 40 Luật tương trợ tư pháp); quyết định về việc miễn, giảm thời hạn chấp
hành hình phạt hoặc rút ngắn thời gian thử thách của án treo (Mục 13 phần IV Nghị
quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết
định của toà án” của BLTTHS).
Có một số quyết định của toà án cấp sơ thẩm bị kháng nghị nhưng không mang
đầy đủ đặc điểm của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vì thẩm quyền giải quyết
kháng nghị không thuộc về toà án cấp phúc thẩm mà thuộc về chính toà án cấp sơ
thẩm [2, tr. 216].
Các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không phải là đối tượng của kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm gồm: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, quyết định về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo, quyết định
hoãn phiên tòa, quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng.
2.2.2. Chủ thể có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự
Nhằm mục đích bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tính hợp pháp
và có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án, Điều 232 BLTTHS năm 2003 có quy
định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng
nghị những bản án và quyết định sơ thẩm”. Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002 cũng quy định: “khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm…”.
Quy định như vậy nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp
trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình để đảm bảo xét xử đúng người,
17
đúng tội, đúng pháp luật. Nếu phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có dấu hiệu sai
lầm, thiếu xót trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật thì Viện kiểm sát
có quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại. Việc quy định cả Viện
kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đều có quyền kháng nghị là
nhằm khắc phục kịp thời thiếu xót trong xét xử của Tòa án sơ thẩm.
Điều 36 BLTTHS năm 2003 quy định người có thẩm quyền quyết định việc
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các
cấp. Điều 32 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện
trưởng VKSNDTC hướng dẫn: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
huyện có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện.
Viện trưởng VKSNDTC uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành
công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh.
2.2.3. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự
Khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm thì VKS phải kháng nghị yêu
cầu tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên trong
BLTTHS hiện hành lại chưa quy định cụ thể về các căn cứ kháng nghị phúc thẩm (vi
phạm như thế nào, mức độ đến đâu thì sẽ bị kháng nghị). Vì vậy, để nhận thức và áp
dụng thống nhất trong toàn ngành kiểm sát, tại Điều 33 Quy chế VKSNDTC có quy
định về các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm, cụ thể là:
1) Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ;
2) Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án;
3) Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS;
18
4) Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm
trọng khác về thủ tục tố tụng.
Như vậy, căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm gồm:
Một là, việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện, hoặc không đầy
đủ.
Điều tra, xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng
khác tiến hành việc nghiên cứu và kiểm tra các chứng cứ một cách công khai về
những tình tiết của vụ án. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện là việc điều
tra, xét hỏi tại phiên tòa không khách quan, không toàn diện, mọi tình tiết của vụ án
chưa được làm sáng tỏ một cách đầy đủ, khách quan. Biểu hiện của sự phiến diện là
chỉ chú ý đến việc xét hỏi những chứng cứ buộc tội, không chú ý đến những tình tiết
gỡ tội của bị cáo; chỉ tập trung vào thẩm vấn những tình tiết tăng nặng hoặc ngược lại
chỉ chú ý đến việc điều tra, xét hỏi những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa không đầy đủ là hoạt động điều tra tại phiên tòa
còn thiếu những tình tiết mà theo quy định của pháp luật thì chưa đủ căn cứ để xác định
bị cáo có phạm tội hay không, hoặc có thể phạm tội này mà không phạm tội khác, dấu
hiệu tội phạm chưa được làm rõ. Ví dụ: một người bị xét xử về tội giết người do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 96, BLHS nhưng Hội đồng xét xử
chỉ hỏi về hành vi giết người được thực hiện như thế nào mà không hỏi nguyên nhân
dẫn đến hành vi đó. Việc điều tra, xét hỏi không đầy đủ còn biểu hiện là trường hợp
không triệu tập người làm chứng, người bị hại… hoặc mặc dù có triệu tập họ nhưng
lại không hỏi; không tiến hành hoạt động đối chất khi có những lời khai mâu thuẫn
nhau; không hỏi người làm chứng vì sao ho biết được những tình tiết đó [25, tr. 15] .
Hai là, kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với
các tình tiết khách quan của vụ án.
Kết luận trong bản án hoặc quyết định bị coi là không phù hợp với các tình tiết
khách quan của vụ án là kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với các
chứng cứ, tài liệu đã được điều tra, xác minh tại phiên tòa. Ngoài ra, việc kết luận
19
trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án còn có
thể là trường hợp bị cáo trong quá trình điều tra, xét hỏi trước đó và tại phiên tòa đã
không chịu khai báo, không có thái đội hợp tác nhưng Hội đồng xét xử lại áp dụng tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” theo điểm p khoản 1 Điều
46 BLHS đối với bị cáo.
Ba là, áp dụng điều khoản của BLHS không đúng
Sai lầm trong việc áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự không chỉ bao gồm
việc xác định sai điều khoản của điều luật quy định đối với tội tương ứng mà con bao
gồm cả việc áp dụng không đúng các quy định khác của Bộ luật hình sự có liên quan
đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, các quy định này chủ
yếu nằm ở phần chung Bộ luật hình sự.
Ngoài việc áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự không đúng dẫn đến việc
quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ đối với người phạm tội, thì còn có cả sai
lầm trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự khi quyết định các biện pháp
tư pháp như: Tịch thu vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm hoặc bồi thường
thiệt hại. Riêng đối với việc bồi thường thiệt hại còn bao gồm cả việc áp dụng điều
khoản của Bộ luật dân sự và các quy định khác không đúng cũng là căn cứ để kháng
nghị phúc thẩm.
Những sai lầm trong việc áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự tới mức bị
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải là những sai lầm làm thay đổi đáng kể tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như: Quá nặng, quá nhẹ, bồi thường
thiệt hại không có căn cứ, tịch thu vật hoặc tiền bạc không đúng với quy định của
pháp luật.
Bốn là, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi
phạm nghịêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Về căn cứ này, Điều 33 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày
17/9/2007 của Viện trưởng VKSNDTC đã có thay đổi so với Quy chế tạm thời ban
hành theo Quyết định số 121 ngày 16/9/2004 của Viện trưởng VKSNDTC thể hiện ở
20
- Xem thêm -