Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khai thác những giá trị của văn hóa chăm nhằm phục vụ cho du lịch ở an giang...

Tài liệu Khai thác những giá trị của văn hóa chăm nhằm phục vụ cho du lịch ở an giang

.PDF
194
845
87

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN HOÀI NHÂN KHAI THÁC NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA CHĂM NHẰM PHỤC VỤ CHO DU LỊCH Ở AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH Hà Nội, 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN HOÀI NHÂN KHAI THÁC NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA CHĂM NHẰM PHỤC VỤ CHO DU LỊCH Ở AN GIANG Chuyên ngành: Du lịch (Chương trình đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRIỆU THẾ VIỆT Hà Nội, 2013 2 MỤC LỤC Trang DANH MỤC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ HÌNH ẢNH MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 7 2. Mục đích nghiên cứu đề tài 8 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 9 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 11 6. Đóng góp của đề tài 12 7. Bố cục của luận văn 13 Chƣơng 1. TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU DU LỊCH VĂN HÓA 14 CHĂM AN GIANG 1.1. Những vấn đề lý luận về văn hóa và du lịch văn hóa 1.1.1. Văn hóa, văn hóa dân tộc 14 1.1.2. Du lịch và du lịch văn hóa 18 1.1.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa 25 1.1.4. Vai trò của văn hóa trong phát triển du lịch 29 1.1.5. Điều kiện để phát triển du lịch văn hóa 30 1.1.6. Các nguyên tắc khai thác và phát triển du lịch văn hóa 1.2. 14 31 Những lĩnh vực nghiên cứu của du lịch văn hóa 1.2.1. 32 Vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa 32 1.2.2. Vấn đề thị trƣờng và khách du lịch văn hóa 3 33 1.2.3. Vấn đề tổ chức, quản lý du lịch văn hóa 34 1.2.4. Vấn đề nhân lực trong du lịch văn hóa 34 1.2.5. Vấn đề tuyên truyền, quảng bá du lịch văn hóa 35 1.2.6. Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch 36 1.2.7. Du lịch văn hóa và điểm đến du lịch 37 1.2.8. Du lịch văn hóa và vấn đề xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của địa phƣơng 1.3. 37 Những bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, phát triển du lịch văn hóa 38 1.3.1. Bài học kinh nghiệm trong nƣớc 39 1.3.2. Những bài học kinh nghiệm của nƣớc ngoài 41 Tiểu kết chƣơng 1 44 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC VĂN HÓA CHĂM PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG 2.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh An Giang và văn hóa của ngƣời Chăm An Giang 45 45 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 45 2.1.2. Đặc điểm lịch sử, xã hội 47 2.1.3. Ngƣời Chăm ở Việt Nam và ngƣời Chăm ở tỉnh An Giang 2.1.4. 49 Những giá trị văn hóa Chăm tiêu biểu ở An Giang 52 2.2. 2.1.4.1. Văn hóa vật thể 53 2.1.4.2. Văn hóa phi vật thể 61 Tìm hiểu thực trạng khai thác văn hóa Chăm trong du lịch 70 2.2.1. Số lƣợng khách du lịch 2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong hoạt động du lịch 4 71 văn hóa Chăm 75 2.2.3. Các sản phẩm du lịch văn hóa Chăm 80 2.2.4. Thị trƣờng và khách du lịch văn hóa Chăm An Giang 2.2.5. 101 Nhân lực trong du lịch văn hóa Chăm An Giang 105 2.2.6. Tuyên truyền, quảng bá du lịch văn hóa Chăm An Giang 2.2.7. Tổ chức quản lý du lịch văn hóa Chăm 108 2.2.8. Bảo tồn di sản văn hóa Chăm trong du lịch 110 Tiểu kết chƣơng 2. 116 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA CHĂM Ở AN GIANG 3.1. 3.2. 106 Những căn cứ đề xuất giải pháp 118 118 3.1.1. Căn cứ luận 118 3.1.2. Chủ trƣơng chính sách của tỉnh An Giang 118 3.1.3. Chiến lƣợc phát triển du lịch An Giang 121 3.1.4. Thực tiễn du lịch An Giang 122 Những giải pháp cụ thể phát triển du lịch văn hóa Chăm tỉnh An Giang 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. Giải pháp về phát triển cơ sở vật chất của du lịch văn hóa Chăm An Giang. Giải pháp về sản phẩm du lịch văn hóa Chăm An Giang Giải pháp về thị trƣờng và khách du lịch văn hóa Chăm An Giang 5 123 123 125 129 3.2.4. 3.2.5. 3.2.6. 3.2.7. Giải pháp về nhân lực du lịch văn hóa Chăm An Giang Giải pháp về tăng cƣờng, quảng bá xúc tiến du lịch văn hóa Chăm An Giang Giải pháp về bảo tồn di sản văn hóa Chăm trong du lịch An Giang Giải pháp về tổ chức, quản lý du lịch văn hóa Chăm An Giang Tiểu kết chƣơng 3 131 134 137 143 149 Kết luận 150 Tài liệu tham khảo 155 Phụ lục 163 6 DANH MỤC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT: ĐBSCL = Đồng bằng sông cửu long NĐ-CP = Nghị định- chính phủ NQ/TW = Nghị quyết/ trung ƣơng Nxb = Nhà xuất bản QĐ-TT-CP = Quyết định – Thủ tƣớng – Chính phủ TP = Thành phố TX = Thị xã TDTT = Thể dục thể thao TTLT-BVHTTDL-BNV = Thông tƣ liên tịch – Bộ văn hóa Thể thao du lịch – Bộ nội vụ TTXTDL = Trung tâm xúc tiến du lịch VHTT = Văn hóa thể thao VHTT&DL = Văn hóa thể thao và du lịch UNESCO = Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc UBND = Ủy ban Nhân dân 7 DANH MỤC BẢNG BIỂU 1. Bảng 2.1. Hiện trạng khách du lịch đến An Giang giai đoạn 2002 – 2012 2. 72 Bảng 2.2. Bảng thu nhập du lịch tỉnh An giang, giai đoạn 2002-2012 3. 74 Bảng 2.3. Lao động trong ngành du lịch An Giang giai đoạn 2008 – 2012 106 DANH MỤC BIỂU ĐỒ 1. Trang Trang Biểu đồ 2.1. Hiện trạng khách du lịch Quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1995 – 2011 8 102 MỞ ĐẦU 1. Lý do mục đích chọn đề tài Trong nền văn hóa đặc sắc, rực rỡ của ngƣời Chăm ở tỉnh An Giang, những nét truyền thống là một thiết chế văn hóa vô cùng quan trọng và nổi bật. Thiết chế này đƣợc xem nhƣ sự hội tụ, kết tinh và thăng hoa của nhiều giá trị bản sắc văn hóa, thể hiện đầy đủ, tổng hợp và thể hiện nhiều nhất đời sống sinh hoạt, văn hóa, tôn giáo, tín ngƣỡng, nghệ thuật… của cộng đồng ngƣời Chăm địa phƣơng. Đồng thời, đây cũng chính là những sinh hoạt văn hóa mang tính mở, sống động và tập trung nhất của cộng đồng này. Với những giá trị và đặc điểm nhƣ vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa ở Việt Nam, mà trực tiếp là ở tỉnh An Giang trong nhiều năm qua, các lễ hội truyền thống của ngƣời Chăm nơi đây đã trở thành một trong những yếu tố thu hút sự quan tâm đầu tiên của du khách và các đơn vị kinh doanh du lịch khi đến với vùng đất này cũng nhƣ đến với nền văn hóa Chăm. Điều đó một mặt tạo nên những nét mới trong hoạt động du lịch, đƣa hoạt động du lịch văn hóa Chăm trở thành một đặc trƣng rất quan trọng và mang tính tiêu biểu của địa phƣơng. Nhƣng mặt khác, quan trọng hơn, hoạt động du lịch cũng có những thúc đẩy và tác động trở lại đối với văn hóa truyền thống của ngƣời Chăm và đây là một vấn đề rất quan trọng cần sớm đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ. Có nhƣ vậy việc bảo tồn và phát huy giá trị của văn hóa Chăm nói trên mới có hiệu quả và đúng hƣớng. Ở nƣớc ta, ngành du lịch luôn đƣợc Nhà nƣớc quan tâm và văn hóa dân tộc phục vụ cho hoạt động du lịch cũng đã đƣợc các nhà chuyên môn khai thác. Các yếu tố văn hóa đặc sắc của từng dân tộc, từng vùng miền tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Ở Việt Nam hiện nay du lịch văn hóa đang trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lƣợc phát triển du lịch. Xu thế đó đƣợc thể hiện trong Nghị Quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII : “ Phát triển du lịch tƣơng xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nƣớc theo hƣớng du lịch văn hóa, sinh thái môi trƣờng xây dựng các chƣơng trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hóa, di tích lịch sử 9 và khu danh lam thắng cảnh”[30, tr.194] .Trong công cuộc xây dựng đất nƣớc, Đảng và nhà nƣớc ngay từ đầu đã xác định "Phát triển du lịch là một hƣớng chiến lƣợc quan trọng trong đƣờng lối phát triển kinh tế-xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc…" (chỉ thị 46/CT-TW Ban Bí Thư Trung ương Đảng khoá VII, ngày 10/1994) và "Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn …" ( Văn kiện Đại hội Đảng IX và X). An Giang là một vùng đất với sự sáng tạo của con ngƣời đã tự giữ lại trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Những giá trị văn hóa ấy đã tạo cho An Giang có một vẻ đẹp riêng, một phong cách riêng. Ở An Giang cũng có những tiềm năng để phát triển du lịch, đặc biệt là văn hóa dân tộc Chăm - một dân tộc có bề dày văn hóa lâu đời sống rải rác ở các tỉnh Miền Trung cho đến tận Miền Tây Nam Bộ nƣớc ta. Chính điểm đặc biệt của An Giang với những di sản văn hóa Chăm cùng với phong cảnh thiên nhiên hữu tình, tình cảm con ngƣời nồng hậu chất phát đã tạo ra sức hấp dẫn du lịch đặc biệt. Bản sắc văn hóa độc đáo đƣợc phản ánh trong các thánh đƣờng uy nghi cổ kính trong sắc cảnh thiên nhiên hùng vĩ, những trƣờng ca (Ariya) bia ký, trong các lễ hội truyền thống dân gian, trong những làng điệu dân ca đằm thắm chứa chan và vũ điệu Chăm rừng rực bốc lửa đắm say quyến rũ lòng ngƣời, hay trong cả đời sống dân dã bình dị của một làng nghề truyền thống của dân tộc. An Giang chính là điểm dừng chân hấp dẫn, gợi mở đối với du khách. Do vậy, các giá trị văn hóa Chăm An Giang cần đƣợc xem xét một cách đầy đủ và khai thác một cách tốt hơn để phục vụ cho du lịch. Xuất phát từ yêu cầu trên, cùng với thực tế cho đến hiện nay đây vẫn là một vấn đề còn đang bỏ ngỏ và chƣa đƣợc quan tâm đúng mức mặc dù tiềm năng du lịch văn hóa còn rất lớn. Từ những suy nghĩ và đánh giá trên, là một ngƣời làm công tác văn hóa nhìn nhận du lịch ở góc nhìn văn hóa, tác giả luận văn mạnh dạn chọn đề tài “Khai thác những giá trị của văn hóa Chăm nhằm phục vụ cho du lịch ở An giang” làm luận văn tốt nghiệp Cao học du lịch. Mong muốn của tác giả là cần quan tâm hơn nữa trong việc phát triển du lịch văn hóa ở An Giang và phản ánh đƣợc tính cấp thiết của việc bảo tồn, phát huy những giá trị của văn hóa Chăm gắn với việc phát triển du lịch ở An Giang hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài 10 Mục đích chung Mục đích của luận văn là tập hợp và hệ thống hóa tƣ liệu một cách khái quát về văn hóa Chăm An Giang. Phân tích và chỉ ra những yếu tố mà văn hóa Chăm góp phần vào thúc đẩy và phát huy các giá trị văn hóa Chăm trong hoạt động du lịch của tỉnh An Giang hiện nay. Mục đích cụ thể Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Trình bày những lý luận cơ bản về văn hóa, du lịch, về mối quan hệ văn hóa và du lịch. - Tìm hiểu thực trạng khai thác các giá trị văn hóa Chăm trong hoạt động du lịch tại tỉnh An Giang hiện nay. - Phân tích, đánh giá những mặc tích cực cũng nhƣ những tác động tiêu cực, hạn chế mà hoạt động du lịch mang lại hoặc gây ra cho những giá trị văn hóa Chăm, từ đó đƣa ra những kiến nghị và đề xuất giải pháp nhằm phục vụ tốt hơn cho việc bảo tồn và phát huy những giá trị của văn hóa Chăm trong hoạt động du lịch theo hƣớng bền vững tại tỉnh An Giang. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng Đề tài hƣớng tới việc tìm hiểu các đặc trƣng, tính chất, giá trị của văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc Chăm ở An Giang đối với ngành du lịch; thông qua các hoạt động tham quan, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội... Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu những giá trị của văn hóa nhằm phục vụ cho phát triển du lịch ở An Giang. Nhƣng đề tài giới hạn vào việc xem xét, đánh giá về chất lƣợng của hoạt động du lịch văn hóa Chăm tại An Giang. 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ trƣớc đến nay văn hóa Chăm luôn là đối tƣợng nghiên cứu hấp dẫn của các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm đa phần tập trung đi sâu vào các công trình lịch sử, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, 11 múa và một số nghi lễ tôn giáo… nhƣng việc kết hợp bảo tồn, phát triển văn hóa Chăm trong khai thác và hoạt động du lịch tại An Giang chƣa đƣợc tác giả nào nghiên cứu một cách toàn diện. Các công trình nghiên cứu về lễ hội dân tộc Chăm đƣợc ghi chép rải rác ở nhiều nguồn tƣ liệu. Từ thƣ tịch cổ của Trung Quốc, Việt Nam nhƣ Hán thư, Lương thư, Cựu đường thư, Nam Sử, Thuỷ kinh chú, Phủ biên tạp lục…đến những nhà thám hiểm nhƣ Marco Polo, Linh mục Odiric de Pordenone ( Chuyến đi công du châu Á từ năm 13181330) cũng có ghi chép về một số lễ hội Chăm. Các nhà nghiên cứu Việt Nam nhƣ Phan Xuân Biên (Văn hóa Chăm, 1991), Ngô Văn Doanh (Văn hóa Chăm, 1994; Khi viết về văn hóa Chăm, các tác giả đều đề cập đến lễ hội song đó chỉ là những ghi chép chung, chƣa phải công trình chuyên khảo về lễ hội. Về các tháp Chăm, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân tộc Chăm có các tác phẩm : Truyền thuyết về các tháp Chăm ( Bố Xuân Hổ, 1995), Tháp Chăm sự thật và huyền thoại ( Ngô Văn Doanh, 1994)…, các tác giả đã ghi chép lại lịch sử ra đời và hiện trạng của một số di tích tháp Chăm, phù điêu, bia ký cổ của ngƣời Chăm. Về tôn giáo tín ngƣỡng ngƣời Chăm, mảng đề tài này đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tâm đắc. Bản dịch của Đào Trọng Luỹ từ nghiên cứu của Aymonier M.E (1891)- Người Chàm và những tín ngưỡng của họ, Mah Mod (1975) với bài Bước đầu tìm hiểu về tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm, Tôn giáo của người Chăm Việt Nam của tác giả Phan Văn Dốp (1992), Tất cả các nghiên cứu đều đƣợc ghi chép tỉ mỉ đời sống hiện thực của dân tộc Chăm gắn chặt với tôn giáo, tín ngƣỡng của họ. Về âm nhạc và múa Chăm có các tác phẩm : Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm của Tô Ngọc Canh, Lê Đông Hải (1995), Vai trò âm nhạc trong lễ hội dân gian Chăm An Giang ( 1999), Ý nghĩa dân gian hai điệu múa Chăm : múa quạt Pi diền ( múa con công) và múa Juak apui ( múa đạp lửa) – Bố Xuân Hổ (2003), Nghiên cứu của Nghệ sỹ nhân dân Đặng Hùng (1993) - Duy trì và phát triển nghệ thuật múa truyền thống một số dân tộc Miền Nam Việt Nam có đề cập đến múa dân gian Chăm. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên là nguồn tƣ liệu quý giá, những nét chấm phá, gợi mở một cách nhìn khái quát về văn hóa Chăm. Nhƣ vậy, có thể thấy 12 rằng, trong các giá trị văn hóa: Tôn giáo, tín ngƣỡng, lễ hội, văn học, nghệ thuật, kiến trúc của ngƣời Chăm nói chung và của ngƣời Chăm ở tỉnh An Giang nói riêng, trong những năm qua, đã đƣợc quan tâm nghiên cứu dƣới nhiều phạm vi và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc tiếp cận một cách trực tiếp, tổng thể các giá trị văn hóa của cộng đồng ngƣời Chăm ở tỉnh An Giang khai thác trong hoạt động du lịch thì vẫn là vấn đề còn đang bỏ ngõ và chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Luận văn “Khai thác những giá trị của văn hóa Chăm nhằm phục vụ cho du lịch ở An giang ” tác giả luận không đi sâu vào vấn đề lý luận của văn hóa Chăm mà chỉ kế thừa những thành tựu khoa học của những nhà nghiên cứu đi trƣớc để quan sát từng loại hình trong văn hóa Chăm, thu thập những tƣ liệu trong thực tế, từ đó định hƣớng việc khai thác, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa Chăm trong hoạt động du lịch. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Phương pháp luận Vận dụng những hiểu biết về văn hóa, du lịch và phát triển bền vững bên cạnh những kiến thức về văn hóa dân tôc, tộc ngƣời và phát triển dân tộc, để nghiên cứu trình bày đề tài. Đề tài luận văn nhìn nhận đối tƣợng nghiên cứu là các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong tổng thể các giá trị văn hóa Chăm tại tỉnh An Giang. Phương pháp cụ thể Vận dụng những kiến thức đƣợc trang bị, tiếp thu qua quá trình học tập, qua tìm hiểu thực tế tại địa phƣơng, đồng thời dựa vào nguồn tài liệu kinh điển, các văn kiện Đại hội Đảng, Nhà nƣớc, các Chỉ thị, Nghị quyết, các báo cáo tổng kết chuyên ngành và các công trình nghiên cứu có liên quan để thực hiện luận văn qua các phƣơng pháp chính: - Phương pháp thu thập tài liệu (văn bản học): tìm tài liệu từ tạp chí, sách báo thƣ viện, các nguồn tài liệu từ các ban ngành của tỉnh : Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm, Ban quản lý di tích, Tạp chí dân tộc học và một số tài liệu nghiên cứu của đồng nghiệp...có liên quan về văn hóa Chăm và hoạt động du lịch An Giang. 13 - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phƣơng pháp quan trọng luôn sử dụng, nhằm phân tích tổng hợp tài liệu, thông tin có liên quan nhằm tìm ra tính chất đặc thù, đặc trƣng của địa bàn nghiên cứu, khái quát hóa, mô hình hóa các yếu tố nghiên cứu trên quan điểm phát triển bền vững. - Phương pháp miêu thuật: Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả và thuật lại những gì quan sát đƣợc hay nói cách khác là sự tái hiện lại những sự vật, hiện tƣợng, trạng thái tâm lý con ngƣời một cách chi tiết trong quá trình nghiên cứu đã chứng kiến và trải nghiệm tại địa phƣơng. - Phương pháp thử nghiệm: Luận văn có sử dụng phƣơng pháp thử nghiệm xây dựng các sản phẩm du lịch, chƣơng trình du lịch văn hóa Chăm trong việc tổ chức hoạt động du lịch từ đó đề xuất giải pháp áp dụng vào thực tế nhằm kiểm chứng hiệu quả đạt đƣợc của vấn đề đƣợc đƣa ra có tính khả thi hay không. - Phương pháp xã hội học: Thống kê, điều tra, so sánh, hỏi ý kiến những nhà nghiên cứu, những trí thức Chăm, cùng với sự quan sát cá nhân, nghiên cứu tài liệu. - Riêng phương pháp khảo sát thực địa, điều tra bảng hỏi, tác giả thực hiện khảo sát trên mẫu có chủ định. Chọn mẫu có chủ định là cách lựa chọn dựa trên cảm quan của tác giả. Tuy nhiên vẫn phải đảm bảo rằng nó bao hàm đƣợc tất cả các trƣờng hợp. Tác giả tiến hành khảo sát trên 100 phiếu, trong đó: ngƣời dân địa phƣơng là 45, khách du lịch là 55 ngƣời. - Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: Tác giả sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành du lịch học để khai thác và làm rõ nội dung về tổ chức du lịch, tƣ vấn, hỗ trợ tổ chức, hƣớng dẫn các chƣơng trình du lịch tới du khách tham quan. Bên cạnh các phƣơng pháp nêu trên tác giả còn sử dụng một số phƣơng pháp khoa học khác nhằm hỗ trợ thực hiện đề tài một cách hiệu quả nhất. 6. Đóng góp của đề tài - Phân tích, đánh giá những giá trị của văn hóa Chăm – nguồn lực cho phát triển du lịch tại tỉnh An Giang. 14 - Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp khả thi nhằm làm căn cứ cho việc hoạch định các chủ trƣơng, chính sách của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa Chăm đối với sự phát triển du lịch tại tỉnh An Giang hiện nay. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn đƣợc trình bày theo bố cục gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Tổng quan những vấn đề lý luận về du lịch văn hóa và việc nghiên cứu du lịch văn hóa Chăm An Giang. Chƣơng 2. Thực trạng khai thác văn hóa Chăm phục vụ phát triển du lịch tỉnh An Giang. Chƣơng 3. Một số giải pháp góp phần phát triển du lịch văn hóa Chăm ở An Giang 15 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1. TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU DU LỊCH VĂN HÓA CHĂM AN GIANG 1.1. Những vấn đề lý luận về văn hóa và du lịch 1.1.1. Văn hóa, văn hóa dân tộc 1.1.1.1. Khái niệm văn hóa Từ xa xƣa, hai chữ “văn hóa” đã sớm xuất hiện trong ngôn ngữ loài ngƣời, đặc biệt ở những quốc gia đƣợc coi là cái nôi của văn minh nhân loại. Ở phƣơng Đông, từ “văn hóa” xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ Trung Quốc. Ngay từ trƣớc Công nguyên, ở đời Tây Hán, trong bài “ Chi Vũ” sách “Thuyết Uyển”, Lƣu Hƣơng đã viết : “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trƣớc dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực”. Phàm dùng vũ lực với ngƣời bất phục tùng, dùng văn hóa không thay đổi đƣợc thì sau đó sẽ “trừng phạt”. Nhƣ vậy văn hóa đƣợc dùng để đối lập với vũ lực. Ở phƣơng Tây, trong nền văn minh cổ đại Hy Lạp, từ văn hóa (cultus) có nghĩa là trồng trọt. Từ nghĩa trồng trọt dần dần biến thành gieo trồng trí tuệ, tinh thần. Nhƣ vậy, trong quan niệm của ngƣời cổ đại, dù phƣơng Đông hay phƣơng Tây, văn hóa đã mang ý nghĩa giáo hóa con ngƣời. Nhƣ vậy, nói văn hóa là nói tới con ngƣời, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của con ngƣời, nhằm hoàn thiện con ngƣời, hoàn thiện xã hội . Do đó, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng vƣơn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Có thể coi là 3 trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Chừng nào, cái chân, cái thiện, cái mỹ bị lãng quên, chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc. Cũng nhƣ mọi sinh thể khác trong vũ trụ, con ngƣời cũng là bộ phận của giới tự nhiên, chịu sự quy định chặt chẽ của giới tự nhiên. Nhƣng khác với những sinh vật khác, con ngƣời còn có một “ khoảng trời riêng”, một phần tự nhiên thứ hai do con ngƣời tạo ra bằng lao động và tri thức của mình. Phần tự nhiên đó chính là văn hóa. Nếu giới tự nhiên 16 là cái nôi đầu tiên nuôi sống con ngƣời, thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con ngƣời đƣợc hình thành, đƣợc nuôi dƣỡng và phát triển. Con ngƣời không thể tồn tại nếu tách rời giới tự nhiên, cũng nhƣ con ngƣời không thể trở thành con ngƣời nếu tách rời môi trƣờng văn hóa. Vì văn hóa là phát huy những năng lực bản chất của con ngƣời, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất ngƣời, nên văn hóa có mặt ở bất cứ họat động nào của con ngƣời, dù đó là hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội hay cách cƣ xử, giao tiếp…cho đến cả những suy tƣ thầm kín nhất. Các khái niệm nhƣ nhân cách văn hóa, văn hóa lao động, văn hóa chính trị,…đang ngày càng đƣợc sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ xã hội. Tuy nhiên, điều đó không loại trừ sự tồn tại những lĩnh vực riêng của văn hóa, nghĩa là những hoạt động không thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị hay xã hội. Những lĩnh vực riêng của văn hóa mà ngƣời ta nói ở đây cũng không phải chỉ là những hoạt động đang thuộc sự quản lý hành chính của nhà nƣớc thông qua ngành văn hóa. Hoạt động của ngành văn hóa là hoạt động sản xuất ra các giá trị tinh thần nhằm giáo dục con ngƣời có khát vọng hƣớng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và khả năng sáng tạo ra chân, thiện, mỹ trong đời sống. Với ý nghĩa đó, văn hóa bao gồm hoạt động về giáo dục, khoa học, văn học nghệ thuật, đạo đức, lối sống v.v. Trong bản thảo NHẬT KÝ TRONG TÙ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" . [51, Tập 3, tr.431]. Ở khái niệm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số những sản phẩm do con ngƣời sáng tạo ra, trong đó có văn hóa vật thể (những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở…); có văn hóa phi vật thể (ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật). Chữ “giá trị” đƣợc ẩn dƣới câu “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống…nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Những sản phẩm do con 17 ngƣời phát minh ra mà Chủ tịch Hồ Chí Minh liệt kê nêu trên phải là những sản phẩm nhằm phục vụ cho con ngƣời, có nghĩa là chứa đựng những giá trị. Nhƣ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣa ra một khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng. Trong Hội nghị liên Chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise, ông Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO đƣa ra khái niệm: "Đối với một số ngƣời, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tƣ duy và sáng tạo; đối với những ngƣời khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngƣỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” [87, tr.19 - 22] “ Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo ( của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc thù riêng của mỗi dân tộc”.[66, tr.14] Đây là khái niệm đƣợc đƣa ra trong bối cảnh thế giới còn có sự phân biệt văn hóa dân tộc lớn, dân tộc nhỏ, văn hóa dân tộc này cao, dân tộc kia thấp, văn hóa dân tộc này văn minh, văn hóa dân tộc kia lạc hậu. Khái niệm nêu trên có ý nghĩa chính trị rất lớn về việc khẳng định mỗi dân tộc có bản sắc riêng. Quan điểm này càng đƣợc khẳng định tại tại Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêxicô để bắt đầu thập kỷ văn hoá UNESCO. Hội nghị này có hơn một nghìn đại biểu đại diện cho hơn một trăm quốc gia tham gia từ ngày 26/7 đến 6/8 năm 1982, ngƣời ta đã đƣa ra trên 200 định nghĩa, nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng rãi hơn, coi văn hóa nhƣ một phức thể, tổng thể các đặc trƣng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm... khắc họa lên một cộng đồng gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia, xã hội... Cuối cùng Hội nghị chấp nhận một định nghĩa nhƣ sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngƣỡng”. [101, tr.24] 18 Khái niệm trên vừa nói đến văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, vừa nói đến hệ giá trị và đặc biệt là nêu lên “những nét riêng biệt về văn hóa của một xã hội hay một nhóm ngƣời trong xã hội”. Nhƣ vậy, khái niệm trên cũng là khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng, kèm theo đó là quan điểm công nhận mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có bản sắc văn hóa riêng biệt. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con ngƣời, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên. Theo PGS,TSKH Trần Ngọc Thêm trong “Cơ sở văn hóa Việt Nam” đã đƣa ra một định nghĩa về văn hóa nhƣ sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình.” [75, tr. 13] Từ những định nghĩa đã nêu, xét thấy văn hóa có phạm vi nội hàm rất rộng, nó chỉ toàn bộ những hoạt động, sáng tạo của con ngƣời về vật chất, tinh thần và ứng xử. Đó là những hoạt động và sáng tạo có ích cho đời sống của con ngƣời, cho xã hội loài ngƣời và cho thế giới xung quanh. Theo phân loại của UNESCO, văn hóa có các thành tố: - Văn hóa vật thể: chỉ khía cạnh vật chất kỹ thuật của những sản phẩm do con ngƣời sáng tạo ra, nó mang dấu ấn của một cộng đồng dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Các thể loại văn hóa vật thể: di vật, cổ vật, kiến trúc cổ (chùa, đình, lăng mộ, nhà truyền thống, cung điện…). - Văn hóa phi vật thể: là những sáng tạo của con ngƣời nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt xã hội của con ngƣời nhƣ: tôn giáo, triết học, nghệ thuật… Các lĩnh vực: tín ngƣỡng tôn giáo, lễ hội (gồm phần lễ và phần hội), dân ca – nghệ thuật biểu diễn… 1.1.1.2. Văn hóa dân tộc Văn hóa dân tộc đƣợc hiểu và trình bày dƣới các quan niệm khác nhau: Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa dân tộc với văn hóa của dân tộc đó, trình bày lịch sử văn hóa dân tộc chỉ nhƣ là lịch sử văn minh của riêng một dân tộc. 19 Quan niệm thứ hai: văn hóa dân tộc là toàn bộ văn hóa của một đất nƣớc, cƣ trú trên mảnh đất quốc gia, chỉ có văn hóa từng tộc ngƣời, không có văn hóa dân tộc/quốc gia. Quan niệm thứ ba: văn hóa dân tộc là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc ngƣời. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ một quốc gia có chủ quyền, trong đó phần lớn công dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc. Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa dân tộc. Vì vậy, nội dung về văn hóa dân tộc sẽ đƣợc trình bày theo quan niệm thứ ba. 1.1.2. Du lịch và du lịch văn hóa 1.1.2.1. Khái niệm về du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại hóa đất nƣớc và nó cũng trở thành một nhu cầu thiết yếu của xã hội. Về lợi ích kinh tế, du lịch đã trở thành một sự bùng nổ, một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nƣớc trên thế giới và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Vậy nghĩa từ của du lịch đƣợc hiểu nhƣ thế nào trong quá trình đẩy mạnh tổ chức hoạt động này trong xã hội. Hầu hết các nhà nghiên cứu và các nhà du lịch học đều trả lời du lịch có từ thời tiền sơ –sử, thời cổ đại, trung đại cận đại: Đi tìm kiếm ăn, đi chơi, đi thăm bạn bè, đi công chuyện, đi ngắm cảnh lạ, ngắm sông núi, non nƣớc, biển cả,... hoặc đi xem hội... Về nguồn gốc chữ nghĩa, từ du lịch là một từ gốc Hán. Theo „„hán tự tố nguyên”, thì du lịch có ý nghĩa là đi chơi và trải nghiệm đời sống „„du = đi chơi; lịch = trải nghiệm”. Nhƣ vậy, từ nghĩa gốc từ du lịch đã nói lên mục đích của du lịch không chỉ đi chơi mà còn để học hỏi và trải nghiệm. Ngƣời Trung Quốc gọi tourism là du lãm với ý nghĩa là đi chơi để nhận thức. Câu nói tục ngữ dân gian của Việt Nam nhƣ cũng đã đề cập đến vấn đề này từ xƣa : „„Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” cũng mang ý nghĩa về du lịch. Vậy mục đích của du lịch là để trải nghiệm, để khám phá, để tìm hiểm văn hóa, tìm biết đến cái mới hơn. Để đáp ứng nhu cầu đó của du lịch ngƣời làm công tác du 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan