0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRỊNH HOÀNG QUYÊN
KÕT HîP PH¦¥NG PH¸P TRùC QUAN
Vµ PH¦¥NG PH¸P TH¶O LUËN TRONG
D¹Y HäC
M¤N CHÝNH TRÞ ë TR¦êNG TRUNG
CÊP NGHÒ
THñY S¶N THANH HãA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
1
VINH - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRỊNH HOÀNG QUYÊN
KÕT HîP PH¦¥NG PH¸P TRùC QUAN
Vµ PH¦¥NG PH¸P TH¶O LUËN TRONG
D¹Y HäC
M¤N CHÝNH TRÞ ë TR¦êNG TRUNG
CÊP NGHÒ
THñY S¶N THANH HãA
CHUY£N NGµNH: Lý LUËN Vµ PPDH Bé M¤N GI¸O
DôC CHÝNH TRÞ
M· Sè: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG BẰNG
1
VINH - 2011
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KẾT HỢP PHƯƠNG
PHÁP TRỰC QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN
TRONG DẠY HỌC MÔN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG
TRUNG CẤP THỦY SẢN THANH HÓA...................................7
1.1. Cơ sở lý luận của sự kết hợp phương pháp trực quan và phương
pháp thảo luận...........................................................................................7
1.2. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp phương pháp trực quan và phương
pháp thảo luận trong dạy học môn chính trị ở trường Trung cấp
Thuỷ sản Thanh Hoá...............................................................................26
Kết luận chương 1............................................................................................41
Chương 2. THỰC NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP TRỰC QUAN VÀ
PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN TRONG DẠY HỌC
CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP THỦY SẢN
THANH HÓA.............................................................................42
2.1. Thực nghiệm sử dụng kết hợp phương pháp trực quan và phương
pháp thảo luận trong dạy học môn Chính trị ở Trường trung cấp
Thủy sản Thanh Hóa...............................................................................42
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp trực quan kết
hợp phương pháp thảo luận trong dạy học môn Chính trị ở Trường
Trung cấp Thủy sản Thanh Hóa.............................................................66
Kết luận chương 2............................................................................................76
C. KẾT LUẬN................................................................................................77
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................80
E. PHỤ LỤC....................................................................83
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
QTDH
Quá trình dạy học
PPTL
Phương pháp thảo luận
TL
Thảo luận
TQ
Trực quan
PPTQ
Phương pháp trực quan
PPDH
Phương pháp dạy học
TC
Trung cấp
SLTK
Số liệu thống kê
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu của đất nước đang trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi ngành giáo dục phải kịp thời đổi mới nhằm
đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đảng và Nhà nước ta đã xác
định để có được nguồn nhân lực chất lượng cao thì đầu tư cho giáo dục là
quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao là yếu tố quan trọng. Ngành giáo dục đã tiến hành cải cách ở
nhiều khâu trong quy trình đào tạo, trong đó có đổi mới về PPDH. Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp
dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học,
coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi
nhét, học vẹt, học chay”.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng, ngành Giáo dục đã triển khai
việc đổi mới phương pháp một cách đồng bộ và có hệ thống trong tất cả các
môn học. Môn Chính trị không nằm ngoài sự đổi mới này. Bởi trong thực tế
dạy học bộ môn này cũng còn rất nhiều bất cập không thể không đổi mới.
Thứ nhất, việc truyền thụ tri thức theo phương pháp truyền thống, thầy
nói trò nghe, thầy đọc trò chép vẫn rất phổ biến. Dạy theo phương pháp này,
những nội dung bài dạy của các tiết học cụ thể có thể giúp người dạy hoàn
thành được việc truyền thụ kiến thức và giờ lên lớp song học sinh hoàn toàn
thụ động tiếp thu kiến thức, khả năng phát huy năng lực tư duy khoa học, rèn
luyên các kĩ năng cho học sinh rất hạn chế.
Thứ hai, hiện nay, những thành tựu của khoa học - công được ứng dụng
một cách rộng rãi trong tất cả các ngành nghề. Ngành giáo dục đã đầu tư
nhiều phương tiện trang thiết bị của khoa học - công nghệ để hỗ trợ cho việc
2
dạy và học. Tuy nhiên, do khả năng ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào dạy học, do trình độ và sự hiểu biết của giáo viên về phương
pháp dạy học hạn chế.v.v… khiến không ít giáo viên ngại hoặc chưa áp dụng
nhiều vào giảng dạy một cách tự giác. Chủ yếu vẫn là dạy chay.
Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình, thậm chí là một
quá trình lâu dài. Thay đổi từ phương pháp này sang phương pháp khác không
thể một sớm một chiều có thể đổi mới được ngay, không thể như sự thay đổi
món ăn hàng ngày. Thay đổi một phương pháp, một kĩ thuật dạy học đã khó,
thay đổi nhiều phương pháp, nhiều kĩ thuật dạy học lại càng khó hơn. Phương
pháp nào là chủ đạo, phương pháp nào mang tính chất bổ trợ, việc kết hợp các
phương pháp ra sao để nâng cao chất lượng giờ lên lớp quả là một bài toán
khá nan giải. Sự đổi mới phương pháp của người dạy sẽ kéo theo sự đổi mới
phương pháp học của học sinh. Đây là vấn đề thuộc phạm trù phương pháp
nên cũng cần phải có lượng thời gian nhất định.
Trước thực tế trên, với mong muốn góp phần thực hiện nhiệm vụ đổi
mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao tính chủ động, tích cực của học
sinh trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức khoa học, tôi chọn vấn đề: “Kết hợp
phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận trong dạy học môn
chính trị ở Trường Trung cấp Thủy sản Thanh Hóa” làm đề tài tốt nghiệp cao
học thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp dạy học hiện nay có một số khuynh hướng:
- Thứ nhất, các nhà nghiên cứu chủ yếu đi vào nghiên cứu về mặt lý
luận của việc thực hiện đổi mới phương pháp nói chung. Có thể kể đến như:
GS.TS Trần Bá Hoành với “Lý luận cơ bản về dạy và học tích cực",
Hà Nội, 2003;
3
Nguyễn Kỳ, Dương Xuân Nghiên dịch tác phẩm: “Lịch sử và thời sự
về phương pháp giáo dục”;
Phan Trọng Ngọ, Dạy học và PPDH trong nhà trường (Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005);
Nguyễn Văn Cường Lý luận dạy học đại học, NXB Hà Nội năm 2005 ;
Nguyễn Ngọc Quang Lý luận dạy học đại cương, Trường cán bộ quán
lý giáo dục Trung ương năm 1989 ;
- Thứ hai, nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các phương pháp, đổi mới
phương pháp ở các môn học cụ thể như:
Tiến sĩ Nguyễn Đăng Bằng, Góp phần dạy tốt, học tốt môn giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002;
Lương Gia Ban chủ biên (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002) với
cuốn: “Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung
chương trình các môn học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”;
PTS. Vương Tất Đạt (chủ biên) với cuốn “Phương pháp giảng dạy giáo
dục công dân”.
- Thứ ba, nghiên cứu về sự kết hợp giữa các phương pháp. Ở khuynh
hướng này có thể thấy các nhà nghiên cũng đã rất quan tâm như:
Trong Tạp chí Lý luận chính trị, số 7-2002, TS. Nguyễn Lương Bằng
trong bài viết "Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các
trường đại học hiện nay", đã cho rằng: "Mỗi phương pháp giảng dạy đều có
giới hạn của mình, ngoài giới hạn ấy phải áp dụng phương pháp khác, phải
tìm cách sử dụng mọi phương pháp cho đúng chỗ. Các phương pháp có tính
độc lập tương đối, chúng liên hệ với nhau, bổ sung cho nhau và chỉ trong sự
thống nhất với nhau chúng mới tìm thấy "sức mạnh" của mình...” [2; tr.87],
Nguyễn Ngọc Quý: “kết hợp phương pháp truyền thống với phương
pháp tích cực trong giảng dạy “phần thứ nhất” môn học những nguyên lý cơ
4
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin ở trường cao đẳng sư phạm Nghệ An” luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Vinh, năm 2010.
Lê Thị Nhung Tuyết, Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy phần triết học trong chương trình chính trị ở trường cao đẳng
nghề, luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh năm 2009
Như vậy, từ những góc độ khác nhau các tác giả đã đề cập, đã phân tích
thực trạng dạy học, sự cần thiết phải đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa
ở các cấp học, bậc học khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi
sâu nghiên cứu: Kết hợp phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận
trong dạy học chính trị ở Trường trung cấp Thủy sản Thanh Hóa. Vì vậy,
chúng tôi chọn nội dung này làm đề tài nghiên cứu với mong muốn góp phần
nhỏ bé vào quá trình đổi mới PPDH hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của sự kết hợp giữa
phương pháp dạy học trực quan và phương pháp thảo luận, mục đích của luận
văn là hoàn thiện và nâng cao hiệu quả PPDH kết hợp trực quan và thảo luận
nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy học môn Chính trị ở
trường Trung cấp Thủy sản Thanh Hóa nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu Luận văn đề ra một số nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của sự kết hợp
phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận.
Hai là, khảo sát thực trạng và tiến hành thực nghiệm việc giảng dạy
chính trị ở Trường Trung cấp Thuỷ sản Thanh Hoá.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học
chính trị ở Trường Trung cấp Thuỷ sản Thanh Hoá.
5
4. Phạm vi nghiên cứu
Để định hướng cho quá trình nghiên cứu, luận văn xác định phạm vi
nghiên cứu:
- Phương pháp dạy học kết hợp phương pháp trực quan và phương pháp
thảo luận đối với môn chính trị.
- Chọn đối tượng nghiên cứu là Trường Trung cấp Thủy sản Thanh Hóa.
- Đối tượng khảo sát là giáo viên trong tổ bộ môn chính trị và học sinh
năm thứ nhất khoá 41 của Trường Trung cấp Thuỷ sản Thanh Hoá.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn lấy quan điểm của CNDVBC và CNDVLS của chủ nghĩa
Mác- Lê nin làm cơ sở phương pháp luận chung của việc nghiên cứu.
- Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
+ Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích và tổng hợp tài
liệu, phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết, phương pháp logic và lịch
sử.
+ Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát, thực
nghiệm sư phạm, trao đổi kinh nghiệm.
+ Phương pháp toán học được dùng để xử lý và phân tích số liệu
thống kê.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu kết hợp PPTQ và PPTL vào giảng dạy môn học Chính trị ở Trường
Trung cấp Thủy sản thì sẽ phát huy được tính tích cực cho HS và nâng cao
hiệu quả dạy học Chính trị ở Trường Trung cấp Thủy sản Thanh Hóa trong
điều kiện hiện nay.
7. Đóng góp của luận văn
6
- Về mặt lý luận, khẳng định vai trò vị trí và sự cần thiết sử dụng kết
hợp phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận. Từ đó, luận văn định
ra hướng kết hợp hai phương pháp trên.
- Về mặt thực tiễn, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận trong môn
chính trị, góp phần vào đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn kết hợp phương pháp trực quan
và phương pháp thảo luận trong dạy học môn chính trị ở trường Trung cấp
Thuỷ sản Thanh Hoá.
Chương 2: Thực nghiệm và giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp
phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận trong dạy học chính trị ở
trường Trung cấp Thủy sản Thanh Hóa.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP
TRỰC QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN TRONG DẠY HỌC
MÔN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP THỦY SẢN
THANH HÓA
1.1. Cơ sở lý luận của sự kết hợp phương pháp trực quan và phương
pháp thảo luận
1.1.1. Phương pháp trực quan
1.1.1.1. Khái niệm
Từ trước tới nay nhiều ngành khoa học như Triết học, Tâm lý học, Sinh
học, Giáo dục học đã xem trực quan là đối tượng nghiên cứu của mình. Trong
triết học, trực quan là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức
được đề cập đến trong các tư tưởng triết học phương Đông và phương Tây.
Vậy trực quan là gì?
Một thời gian dài người ta cho rằng: trực quan phải là những gì quan
sát trực tiếp bằng các giác quan con người, chỉ có sự vật và hiện tượng nào
quan sát được mới chân thực và đáng tin. Do vậy khi nói đến trực quan một
sự vật hay hiện tượng nào đó có nghĩa là phải hình dung nó trong một không
gian và về nguyên tắc có thể tạo được mô hình cơ học về nó để tri giác bằng
các cơ quan cảm giác. Thí dụ: Niu tơn xây dựng định luật vạn vật hấp dẫn từ
quan sát ban đầu “quả táo rơi” đến việc nhận thấy tất cả mọi vật đều bị rơi về
phía trái đất; còn các hành tinh chuyển động trên những quỹ đạo do chúng bị
hút về phía mặt trời. Các định luật Kêple được thiết lập trên cơ sở các quan
sát thiên văn. Hàng loạt các định luật thực nghiệm được rút ra từ quan sát
thực nghiệm hiện tượng khách quan như chuyển động Braonơ, định luật
Gayluytxăc, Bôi - Mariot, Saclơ...Cho thấy trực quan có tầm quan trọng thế
nào đối với con người trong nhận thức về thế giới.
8
Theo quan điểm triết học Mác- Lênin, trực quan sinh động là giai đoạn
đầu của nhận thức. Thông qua các giác quan, con người nhận thức hình ảnh
của các sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp từ thực tiễn. Chính vì vậy mà
giai đoạn nhận thức cảm tính rất sinh động và mang lại những tài liệu đáng tin
cậy trong quá trình nhận thức.
Phương pháp trực quan:
Về khái niệm phương pháp trực quan, tác giả Thái Duy Tuyên cho
rằng: phương pháp trực quan “là một loại PPDH có đặc điểm là học sinh tiếp
thu kiến thức nhờ các giác quan tri giác trực tiếp các sự vật và hiện tượng
trong thực tiễn” [27; 41].
Theo tác giả Phùng Văn Bộ (chủ biên) trong cuốn “Một số vấn đề về
phương pháp giảng dạy và nghiên cứu triết học” thì phương pháp trực quan
thực chất cũng là một loại phương pháp dạy học, trong đó “giáo viên sử dụng
các đồ dùng dạy học, các phương tiện nhằm mục đích minh họa bổ sung thêm
cho kiến thức bài giảng.
Phương pháp trực quan phù hợp với tâm lý nhận thức của người học,
làm cho bài giảng sinh động, phong phú và hấp dẫn người học” [4; 109] hoạt
động một cách tích cực.
Như vậy, mặc dù có nhiều khái niệm về phương pháp trực quan trong
dạy học, nhưng nhìn chung phương pháp trực quan có thể được hiểu là một
phương pháp dạy học, trong đó giáo viên sử dụng các đồ dùng dạy học, các
phương tiện dạy học tác động trực tiếp đến cơ quan cảm giác của HS nhằm
đạt hiệu quả và chất lượng dạy học cao.
Phương pháp trực quan được xây dựng trên cơ sở con đường nhận thức
của triết học Mác - Lê nin. Lê nin viết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là quá trình của sự nhận
thức chân lý khách quan” [21; 189].
9
1.1.1.2. Các hình thức dạy học bằng phương pháp trực quan
- Sơ đồ, bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, số liệu thống kê
+ Sơ đồ là một công cụ có nhiều tác dụng trong việc thể hiện các mối
liên hệ một cách trực quan và hệ thống, có tác dụng lớn trong việc hình thành,
phát triển, củng cố tri thức và tư duy của học sinh. Sơ đồ, giáo viên có thể
chuẩn bị trước, có thể giảng bài đến đâu lập đến đó hoặc có thể đưa ra sau khi
học sinh đã học xong một bài. Khi sử dụng sơ đồ biểu thị quan hệ giữa các
phạm trù, khái niệm cần lưu ý tới cách mô hình hóa, không chú ý điều này sẽ
dễ dàng phạm sai lầm.
+ Bản đồ là hình ảnh thu nhỏ của các hiện vật trên mặt đất lên trên giấy.
Trong giảng dạy chính trị bản đồ thế giới cũng được sử dụng khá nhiều. Nếu
sử dụng tốt, bản đồ có tác dụng không nhỏ trong việc thu nhận tri thức của
học sinh. Trong khi sử dụng bản đồ cần phân biệt từng loại bản đồ và tìm ra
những khía cạnh cần sử dụng, phù hợp với bài giảng.
+ Biểu đồ là những dạng hình học khác nhau biểu hiện một cách trực
quan, định lượng những đặc tính chất lượng của các đối tượng hiện tượng,
quá trình. Biểu đồ là phương tiện trình bày về các phân tích các tài liệu thống
kê bằng cấu trúc đồ họa, nhằm mục đích hình tượng hóa sự phát triển của hiện
tượng theo thời gian, kết cấu và sự biến động, kết quả, mối quan hệ giữa các
hiện tượng. Ngoài ra biểu đồ còn trình bày các số liệu thống kê một cách khái
quát, sinh động và có tính mỹ thuật giúp người xem dễ hiểu, dễ nhớ. Nhưng
quan trọng hơn, biểu đồ còn là bức tranh sống động, vì nó biểu thị được mối
quan hệ giữa các sự vật hiện tượng theo thời gian và không gian.
Hiện nay, trong dạy học chính trị thường sử dụng nhiều số liệu thống kê
và biểu đồ để chứng minh hay minh họa về quá trình phát triển, về cơ cấu,
động lực và mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng tự nhiên và kinh tế xã
hội, là phương tiện trực quan giúp cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và khái quát
10
hóa được các kiến thức cơ bản về quá trình phát triển động lực, cơ cấu, mối
quan hệ về thời gian và không gian của các sự vật hiện tượng.
+ Số liệu thống kê (SLTK) là một nguồn thông tin dưới dạng trừu
tượng nhằm thống kê và phản ánh mặt định lượng của hiện thực khách quan.
SLTK thể hiện dưới dạng tương đối và tuyệt đối, hoặc kết hợp cả 2 hình thức
này. SLTK phản ánh một cách định lượng các đặc tính của hiện tượng, đối
tượng khách quan về khối lượng, cơ cấu, quá trình phát triển… SLTK là
nguồn kiến thức độc lập mà học sinh có thể khai thác và thông qua đó rèn
luyện kĩ năng cho HS. SLTK là cơ sở để rút ra kết luận khái quát, để minh
họa, cụ thể hóa kiến thức lí thuyết.
+ Tranh ảnh là những hình ảnh trực quan gây ấn tượng sâu sắc, tạo ra
sự tiếp thu tri thức nhẹ nhàng, xây dựng tình cảm tốt đẹp đối với con người và
đất nước cho học sinh. Tranh ảnh rất đa dạng, có nhiều loại khác nhau. Song
điều cần thiết là phải lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung môn học, nội
dung bài giảng, biết đưa ra đúng lúc, đúng chỗ trong khi giảng bài. Đây là
một nghệ thuật giảng dạy. Nếu không sử dụng tốt sẽ làm hạn chế việc tiếp thu
tri thức khoa học của học sinh, có khi học sinh chỉ chú ý tới tranh ảnh mà
không chú ý tới bài giảng của giáo viên. Sử dụng tốt tranh ảnh trong giảng
dạy bộ môn chính trị vừa đảm bảo cho học sinh tiếp thu tốt bài học, vừa giáo
dục thẩm mĩ cho học sinh, thông qua thẩm mĩ để truyền thụ tri thức là điều
hết sức cần thiết.
- Sử dụng các phương tiện nghe nhìn trong giảng dạy
Các phương tiện nghe nhìn phục vụ cho việc giảng dạy hiện nay rất đa
dạng như máy chiếu qua đầu (overhead), video, máy thu thanh (cassette
player), phần mềm powerpoint và các phần mềm trình diễn, hệ thống nghe
nhìn, phòng lab, đĩa CD (laser disks), băng video (video tapes), máy vi tính
(desktop computer) và máy vi tính xách tay (laptop).… Các phương tiện này
11
đã góp phần làm cho bài giảng sinh động, tạo nên sự hứng thú và tập trung
theo dõi của người học, giảm nhẹ sức lao động của giảng viên trong quá trình
giảng dạy. Lý giải cho vấn đề trên, các chuyên gia của Hiệp hội Nghe nhìn
Quốc tế cho biết: Khi nghe, con người sẽ tiếp nhận và chỉ lưu giữ được 1030% nội dung thông tin; hoặc 20-40% khi chỉ nhìn, nhưng hiệu quả sẽ đạt tới
60 - 80% nếu kết hợp cả hai chức năng trên. Ngoài ra, nếu vừa nghe, vừa nhìn
lại vừa thảo luận, trao đổi thì hiệu quả lưu giữ thông tin còn cao hơn rất nhiều.
Giảng dạy bằng phương tiện máy chiếu, giáo viên dễ dàng làm cho bài
giảng trở nên sinh động, thú vị hơn bằng việc đưa vào đó những âm thanh,
hình ảnh, màu sắc... Thậm chí, giáo viên có thể chạy cả một đoạn video liên
quan đến bài giảng hay hiển thị các vật mẫu bằng một camera chiếu vật thể
kết nối với máy chiếu đa năng. Trong các phương tiện nghe nhìn hiện đại thì
máy Projector (máy chiếu đa năng) và máy chiếu hắt (Overhead) được xem là
các phương tiện quan trọng được sử dụng phổ biến để phục vụ cho công tác
giảng dạy.
- Tham quan
Tham quan có nhiều loại hình khác nhau. Đối với học sinh có thể tổ
chức tham quan các cơ sở nghiên cứu khoa học, các di tích lịch sử, các viện
bảo tàng, các điển hình tiên tiến về một mặt của đời sống xã hội, các danh lam
thắng cảnh…
Yêu cầu thực tế phải gắn với nội dung bài giảng. Từ yêu cầu bài giảng
để chọn địa điểm tham quan. Ví dụ khi dạy công nghiệp hóa cần nghiên cứu
các nhà máy, khu công nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu thực tế, giảng viên
kết hợp giảng dạy ngay tại đó cho học sinh.
Trong điều kiện hiện nay, khi cơ sở vật chất cho giảng dạy bộ môn hầu
như không có thì việc tổ chức tham quan nhằm nâng cao nhận thức về bộ
môn, củng cố tri thức học sinh đã thu nhận được, phát triển năng lực tư duy,
khả năng vận dụng tri thức, giáo dục tính tích cực xã hội, đạo đức, tình cảm,
12
thẩm mĩ cho học sinh là rất cần thiết và có thể thực hiện được. Tùy theo điều
kiện và khả năng của từng trường có thể tổ chức những buổi tham quan theo
chủ đề nhất định, hoặc kết hợp nhiều chủ đề trong một buổi tham quan.
Để tham quan đạt kết quả tốt, cần phải có sự chuẩn bị chu đáo. Trước khi
tổ chức cho học sinh tham quan cần vạch ra kế hoạch chuẩn bị và tiến hành,
trong đó nêu lên thời gian, địa điểm, mục đích yêu cầu, nội dung, kế hoạch tiến
hành… Trong khi chuẩn bị cần nêu rõ những việc cần phải làm trước, trong và
sau khi tham quan. Giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh những nội dung cần
ghi nhớ, ghi chép. Tốt nhất sau khi tham quan cần tổ chức cho học sinh thảo
luận để đánh giá kết quả thu nhận được, những tài liệu, tri thức học sinh lĩnh
hội được, kể cả rút kinh nghiệm về tổ chức tham quan.
Tham quan phụ thuộc vào công việc chuẩn bị rất nhiều. Chuẩn bị càng
tỉ mỉ, chu đáo, kĩ càng sẽ càng thu được kết quả tốt.
1.1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp trực quan trong dạy học
* Ưu điểm
Trong dạy học chính trị, phương pháp trực quan có vai trò rất quan
trọng và có nhiều ưu điểm như:
Phương pháp trực quan dễ nhớ, dễ hiểu, phù hợp tâm sinh lý nhận thức
của học sinh.
Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học giúp học sinh dễ dàng
hình dung, tiếp thu tri thức, nhất là đối với môn học có tính khái quát hoá,
trừu tượng hoá cao như môn chính trị.
Trong khi sử dụng phương tiện trực quan, giáo viên sẽ có điều kiện
hướng dẫn học sinh biết cách tổng hợp, khái quát những tư liệu thực tế thành
lý luận. Tức là hình thành, củng cố con đường nhận thức biện chứng cho học
sinh, giúp các em phát triển tư duy, nhận thức khoa học, nhờ đó để biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
13
* Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp trực quan vẫn còn có một
số hạn chế:
Phương pháp trực quan nếu không được nâng lên thành lý luận thì kiến
thức thu được chỉ ở dạng vụn vặt, tư duy cụ thể, máy móc và thiếu sự liên kết
các mối quan hệ của sự vật, hiện tượng.
Khi sử dụng những tài liệu trực quan và thiết bị nhiều lúc học sinh chỉ
chú ý đến đồ dùng trực quan không chú ý đến nội dung bài giảng. Ngoài ra
trong quá trình học tập khi tổ chức tham quan thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn
về mặt tài chính do nhiều trường không có khả năng thực hiện.
Mặt khác, trong quá trình giảng dạy nếu giáo viên không khái quát
được cái chung, cái bản chất, tất yếu của sự vật, hiện tượng từ những cái cụ
thể thì vô hình chung giáo viên đã góp phần hạn chế sự phát triển tư duy lý
luận của học sinh.
1.1.2. Phương pháp thảo luận
1.1.2.1. Khái niệm
"Thảo luận" có nghĩa là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý
lẽ. Mục đích của thảo luận là khuyến khích sự phân tích một vấn đề của các ý
kiến khác nhau và trong những trường hợp nhất định nó mang lại sự thay đổi
thái độ của những người tham gia.
Phương pháp thảo luận là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức đối
thoại giữa học sinh và học sinh nhằm huy động trí tuệ của tập thể để giải
quyết một vấn đề do môn học đặt ra hoặc một vấn đề do thực tế cuộc sống đòi
hỏi nhằm tìm hiểu hoặc đưa ra những giải pháp, những kiến nghị, những quan
niệm mới.
Phương pháp thảo luận là phương pháp thích hợp với học sinh lớn tuổi
trong các trường trung cấp. Thảo luận là một hoạt động không chỉ diễn ra ở
14
ngoài lớp mà cả trong lớp, ở đó HS có thể đưa ra các ý kiến khác nhau hoặc
cân nhắc các ý kiến đã trình bày. Các em có thể chấp nhận hay phân tích các ý
kiến của người khác nêu ra, điều này phụ thuộc vào vấn đề có liên quan như
thế nào đến ý kiến cá nhân.
Kết quả của bất kì buổi thảo luận nào cũng phải dẫn đến một kết
luận hay một giải pháp hoặc một sự kiện khái quát trên cơ sở các ý kiến
đã trình bày.
Như vậy, phương pháp thảo luận là hình thức củng cố, bổ sung và nâng
cao kiến thức cho học sinh. Nó giúp học sinh rèn luyện kỹ năng phân tích lý
luận, vận dụng lý luận, tập khả năng diễn đạt ý kiến, chứng minh và bác bỏ,
tức là rèn luyện tư duy logic cho học sinh.
1.1.2.2. Các hình thức thảo luận
- Thảo luận cả lớp
Hình thức thảo luận lớp được tiến hành để tăng số lượng học sinh tham
gia lắng nghe và tham gia trình bày, tranh luận ; tăng giá trị nhận thức, thúc
đẩy việc suy nghĩ có phê phán. Áp dụng hình thức này, giáo viên phải bao
quát được toàn bộ lớp học, phải huy động được nhiều học sinh tham gia, tránh
tình trạng một số em ngồi chơi, gây mất trật tự trong lớp.
- Thảo luận theo tổ, nhóm học tập
Lớp học được chia thành từng tổ, nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục
đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các tổ, nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay
có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học,
được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu tổ nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong tổ, nhóm có thể phân
công mỗi người một phần việc. Trong tổ nhóm, mỗi thành viên đều phải làm
việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết, mạnh dạn và năng
động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong
- Xem thêm -