Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn...

Tài liệu Kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn

.DOC
32
776
75

Mô tả:

Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân LỜI MỞ ĐẦU Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hôn nhân là sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau suốt đời. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Sau đây nhóm chúng em sẽ đi sâu vào đề tài “Kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn”. Nhóm chúng em mong rằng bài làm này sẽ giúp ích được các bạn tìm hiểu rõ hơn về môn học và thực thi pháp luật hôn nhân gia đình. Nhóm chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cô và các bạn để bài làm này hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! 1 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Bài làm gồm: I. KHÁI NIỆM VỀ HÔN NHÂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HÔN NHÂN. 1.1 Khái niệm 1.2. Đặc điểm của hôn nhân gia đình Việt Nam. II. KHÁI NIỆM VỀ KẾT HÔN. III. CÁC ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN. 3.1. Điều kiện về tuổi kết hôn. 3.2. Kết hôn tự nguyện. 3.3 Kết hôn có yếu tố nước ngoài. IV. NHỮNG TRƯỜNG HỢP CẤM KẾT HÔN. 4.1 Khái niệm cấm kết hôn. 4.2 Các trường hợp cấm kết hôn. V. KẾT LUẬN. 2 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân NỘI DUNG I. KHÁI NIỆM VỀ HÔN NHÂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HÔN NHÂN. 1.1 Khái niệm Hôn nhân là cơ sở hình thành nên gia đình - tế bào của xã hội. Trong mỗi chế độ xã hội, gia đình đều thực hiện những chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của nó được coi như là một trong số những hạt nhân trung tâm và là một thiết chế cơ bản của xã hội. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là sinh sản nhằm tái sản xuất ra con người, là quá trình tiếp tục duy trì nòi giống. Đó là một quá trình cần thiết của cuộc sống trong một xã hội nhất định. Gia đình được ra đời tồn tại và phát triển trước hết là nhờ Nhà nước thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ cũng như quy định quyền và nghĩa vụ của họ. Chính vì vậy trong khoa hoc pháp lí nghiên cứu khái niệm về hôn nhân có ý nghĩa quan trọng bởi nó phản ánh quan điểm của nhà nước về hôn nhân, xác định bản chất pháp lý của quan hệ hôn nhân, đồng thời là cơ sở cho việc quy định các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, cụ thể là theo Khoản 6-Điều 8 của Luật HNGĐ thì: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” 1.2. Đặc điểm của hôn nhân gia đình Việt Nam. * Hôn nhân là sự liên kết giữa nam và nữ Gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết là nhờ nhà nước thừa nhận hôn nhân của đôi nam nữ, đồng thời quy định quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa họ. Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa nam và nữ, sự liên kết đó phải được 3 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân nhà nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý – đó là đăng kí kết hôn. Như vậy đăng kí kết hôn đã làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để hình thành gia đình. Việc kết hôn phải được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp hai người kết hôn là công dân Việt Nam cùng kết hôn với nhau thì đăng kí kết hôn tại ủy ban nhân dân cấp cơ sở nơi cư trú của hai bên nam nữ. Trong trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài thì cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thực hiện việc đăng ký kết hôn. *Chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh phúc phát triển. Hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng là điều kiện đảm bảo cho sự liên kết đó hạnh phúc, bền vững. Khi yêu nhau vợ chồng đều mong muốn được chung sống gắn bó bên nhau suốt đời hạnh phúc hòa thuận. *Hôn nhân bền vững Tính chất này của hôn nhân được xuất phát vì: - Tuy hôn nhân có tính chất bất biến, bền vững nhưng vẫn chấm dứt được bằng sự kiện li hôn tuy nhiên theo quan niệm của tôn giáo thì hôn nhân không thể chấm dứt bằng sự kiện li hôn. - Do xuất phát từ đạo đức lối sống văn hóa, truyền thống của người Phương Đông: Coi trọng tình nghĩa vợ chồng và yếu tố bền vững trong hôn nhân. - Do mục đích của hôn nhân . hôn nhân được hình thành từ tình cảm giữa hai bên nam nữ với mục đích cho việc hình thành một gia đình hạnh phúc, bền vững và đó cũng là nền tảng của một xã hội ổn định và phát triển. II. KHÁI NIỆM VỀ KẾT HÔN. 4 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình quy định nam nữ kết hôn phải đảm bảo hai yếu tố sau: *Phải thể hiện ý chí của nam và nữ muốn kết hôn với nhau. Yếu tố quan trọng đầu tiên là hai bên nam nữ phải tỏ rõ ý chí của mình là mong muốn được xác lập quan hệ vợ chồng. Sự bày tỏ ý chí phải thống nhất với ý chí trước cơ quan đăng kí kết hôn phải thể hiện rằng họ hoàn toàn mong muốn được kết hôn với nhau. Nam nữ kết hôn mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng và cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. *Phải được nhà nước thừa nhận. Hôn nhân chỉ được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn “không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn…hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người kêt hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân”. Như vậy có nghĩa là nam nữ khi kết hôn với nhau họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Thông qua việc kết hôn nhà nước đã công nhận hôn nhân của đôi nam nữ. Sự kiện kết hôn là cơ sở pháp lí ghi nhận rằng: Hai bên nam nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng. III. CÁC ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN. 3.1 Điều kiện về tuổi kết hôn. 5 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Căn cứ Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân Gia đình quy định độ tuổi kết hôn là: “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Theo hướng dẫn tại điểm a mục 1 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo quy định: “Điều kiện kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 9 là: "Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Theo quy định này thì không bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn. Do đó, nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn”. Việc đưa ra độ tuổi kết hôn là căn cứ trên sự phát triển về tâm sinh lý, sức khỏe và sự phát triển của nhận thức người đó, quy định về độ tuổi nhằm đảm bảo về mặt sức khỏe, nhận thức, xã hội cũng như khả năng kinh tế có thể gánh vác trách nhiệm gia đình, nuôi dạy con cho tốt... Trước đây, người ta cho rằng sự phát triển tâm sinh lý và nhận thức của nữ thường sớm hơn so với nam. Tuy bằng tuổi, nhưng con gái thường dậy thì trước và nhận thức cũng già dặn hơn bạn nam cùng tuổi. Vì vậy, tuổi kết hôn của nữ ít hơn nam 2 tuổi. Về độ tuổi kết hôn, pháp luật mỗi nước quy định có khác nhau. Nam và nữ phải đạt đến một độ tuổi nhất định thì mới được phép kết hôn. Ví dụ: Ở Thái Lan, cả nam và nữ từ 17 tuổi trở lên là đủ tuổi kết hôn. Ở Pháp: độ tuổi kết hôn là từ đủ 18 tuổi trở lên đối với nam và từ đủ 15 tuổi trở lên đối với nữ. Ở Ấn Độ: nam từ đủ 21 tuổi trở lên nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. *Điều kiện kết hôn của bộ luật Hồng Đức. Trong quan hệ kết hôn, luật quy định các điều kiện để có thể kết hôn là: có sự đồng ý của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ 6 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân hay chồng (điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa của thày (điều 324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339. Tuy nhiên, luật Hồng Đức không quy định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên Nam dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: "Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hôn", có lẽ là do đã tồn tại một văn bản khác cùng thời quy định về điều này. Luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và thành hôn (các điều 314, 315, 322). Lưu ý là luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn. Ví dụ điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng...Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn. Căn cứ và ý nghĩa khi quy định độ tuổi kết hôn: Khi đưa ra quy định về độ tuổi kết hôn các nhà làm luật đều căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người và đồng thời phải căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia. Theo kết quả nghiên cứu của nền y học hiện đại thì nam từ khoảng 16 tuổi trở lên, nữ từ khoảng 13 tuổi trở lên đã có khả năng sinh sản nhưng để đảm bảo cho con sinh ra được khỏe mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, bảo đảm sức khỏe cho người phụ nữ khi mang thai thì nam phải khoảng từ 18 tuổi trở lên, nữ phải khoảng từ 17 tuổi trở lên. Bên cạnh đó, phải đạt đến độ tuổi trưởng thành nhất định thì con người mới có những suy nghĩ chín chắn, nghiêm túc để lựa chọn và tự quyết định việc kết hôn của bản thân mình cũng như có thể tham gia vào quá trình lao động để tự tạo lập nguồn tài chính nhằm duy trì kinh tế gia đình. 7 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Do vậy khi luật hôn nhân gia đình quy định tuổi kết hôn đối với nam là 20 tuổi kết hôn đối với nữ là 18 tuổi, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, phù hợp với điều kiện văn hóa xã hội. Quy định này thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với sức khỏe đối với thế hệ tương lai của đất nước được sinh ra khỏe mạnh và phát triển một cách tốt nhất, bảo đảm cho họ có thể đảm đương, gánh vác trách nhiệm làm cha làm mẹ. Đồng thời, quy định này cũng góp phần bảo đảm cho việc duy trì quan hệ hôn nhân một cách bền vững, xây dựng nền tảng gia đình hanh phúc, ấm no. * Cách tính tuổi kết hôn: Theo Khoản 1- Điều 9 quy định tuổi kết hôn là: “Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên”. Theo quy định này thì “ không bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn, do đó nam đã bước sang tuổi 20, nữ đã bước sang tuổi 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện kết hôn về đọ tuổi” ( theo mục 1 Điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của hội đồng thẩm phán nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật hôn nhân gia đình năm 2000). Như vậy chỉ cần nam bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 là đã có thể kết hôn. Có nghĩa là nữ sau ngày sinh nhật lần thứ 17+ 1 ngày là đã có thể kết hôn. Nam sau ngày sinh nhật lần thứ 19+1 ngày là đã có thể kết hôn. Ví dụ: Chị Nguyễn Thị B sinh ngày 30/04/1990 thì đến ngày 30/04/2007 +1 ngày (tức ngày 01/05/2007) thì chị B đã đủ tuổi kết hôn. Tương tự đối với nam. 3.2. Kết hôn tự nguyện. Tự nguyện trong việc kết hôn là hai bên nam nữ tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi 8 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân bênnam nữ không bị tác động bởi bên kia hay bất kỳ người nào khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, chung sống với nhau suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện của các bên trong kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Pháp luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên là nhằm cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hôn. Do đó đối với những người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì pháp luật cấm họ kết hôn. Đối với những trường hợp nam nữ bị chấn động về thần kinh hoặc đang trong tình trạng say rượu, bia thì tạm thời họ không được đăng ký kết hôn cho đến khi phục hồi khả năng nhận biết và hoàn toàn tỉnh táo. Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện thì khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện UBND cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Vào ngày ủy ban nhân dân tiến hành đăng ký kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hôn thì đôi nam 9 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân nữ phải có mặt để một lần nữa hai người phải trả lời trước cán bộ hộ tịch và đại diện Ủy ban nhân dân rằng, đến lúc bấy giờ vẫn hoàn toàn tự nguyện kết hôn với nhau. Thông thường lễ đăng ký kết hôn được tiến hành tại Ủy ban nhân dân xã, phường nới đăng ký kết hôn. Tuy nhiên đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn thì lễ đăng ký kết hôn có thể diễn ra tại làng bản, nhưng dù ở đâu thì cũng phải có sự có mặt của hai bên. *Các quy định của pháp luật. Tại Khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình đã quy định: “Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”. - Điểm b mục 1 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP cũng quy định rõ: “Nếu nam và nữ kết hôn tuy có đủ các điều kiện quy định tại các điểm 1 và 3 Điều 9, nhưng họ không tự nguyện quyết định mà thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 2 Điều 9: một bên ép buộc nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn; một bên lừa dối nên bị lừa dối đã đồng ý kết hôn; một bên hoặc cả hai bên nam, nữ bị người khác cưỡng ép buộc người bị cưỡng ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ” Ví dụ 1: A ép buộc B kết hôn với mình nếu B không đồng ý Ví dụ 2: A bị bố mẹ cưỡng ép bắt phải kết hôn với B vì 2 bên gia đình đã có giao ước từ trước. Nếu A không nghe lời thì bố mẹ A sẽ từ A nên cô đành phải kết hôn với B theo nguyện vọng của bố mẹ mặc dù cô không yêu anh B. - Khoản 1 Điều 5 Nghị định 32/2002/NĐ-CP của Chính Phủ đã quy định cụ thể hơn: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; không bên nào được ép buộc, lừa dối 10 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân bên nào Ủy ban nhân dân cấp xã, Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và các tổ chức thành viên, các Già làng, Trưởng bản, các vị chức sắc tôn giáo vận động, thuyết phục các bậc cha mẹ hướng dẫn con xây dựng gia đình tiến bộ, không được ép buộc hoặc cản trở việc lấy vợ, lấy chồng của con; vận động mọi người xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu cản trở quyền tự do kết hôn của nam và nữ”. - Ngoài ra Điều 39 BLDS 2005 cũng có quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn. Việc tự do kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. => Luật hôn nhân gia đình quy định về sự tự nguyện trong kết hôn đã xóa bỏ hoàn toàn sự phụ thuộc vào cha mẹ và gia đình như tư tưởng phong kiến, hướng đến việc xây dựng hôn nhân tự nguyện tiến bộ, vợ chồng bình đẳng. 3.3Kết hôn có yếu tố nước ngoài. Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình: - Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; - Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; - Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó ở nước ngoài. - Ngoài ra tại K4 Điều 100 LHN và GĐ còn quy định các quan hệ giữa hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đối với 11 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. *Điều kiện kết hôn. Theo Điều 103 LHNGĐ và Điều 10 NĐ 68 trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam – Người nước ngoài mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn: áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch. Nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn (Điều 9 và Điều 10 về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn). Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn. Nếu người đó có hai hay nhiều quốc tịch quốc tịch nước ngoài thì giấy tờ xác định điều kiện kết hôn của họ sẽ theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch đồng thời vào thời điểm đăng ký kết hôn, nếu người đó không thường trú tại một trong nước mà người đó có quốc tịch thì giấy tờ đó do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó mang hộ chiếu cấp. Đối với người không quốc tịch muốn kết hôn với công dân Việt Nam và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì giấy tờ sử dụng trong giấy kết hôn là giấy là tờ do cơ quan có thẩm quyền nơi người đó thường trú cấp. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, giấy tờ sử dụng trong việc đăng ký kết hôn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó định cư hoặc cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam nước đó cấp. 12 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của LHNGĐVN về điều kiện kết hôn. Đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật quốc gia thì phải nộp giấy tờ xác nhận của cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành cấp trung ương hoặc cấp Tỉnh xác nhận nếu người đó kết hôn với người nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo vệ bí mật nhà nước hoặc không trái với quy định của ngành đó. Trong các hiệp định trương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết với người nước ngoài, nguyên tắc chung là áp dụng luật quốc tịch của các bên đương sự để điều chỉnh các vấn đề về điều kiện kết hôn. Tuy nhiên trong một số hiệp định cũng có những quy định bổ sung. K1 Điều 23 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên Bang Nga công dân các nước hữu quan muốn kết hôn ngoài việc tuân thủ pháp luật nước mình họ còn phải tuân theo các quy định của pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn về cấm kết hôn. IV. NHỮNG TRƯỜNG HỢP CẤM KẾT HÔN. 4.1 Khái niệm cấm kết hôn. Cấm kết hôn là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cho phép một số đối tượng được kết hôn với nhau. Việc cấm kết hôn dựa trên cơ sở nền tảng đạo đức, sự trong sáng, lành mạnh và tôn ti trật tự trong quan hệ gia đình mang bản sắc luân lý đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Việc cấm kết hôn ở Việt Nam được quy định trong: Luật Hôn nhân gia đình 2000 sửa đổi bổ sung 2010 Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn 13 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây: 1. Người đang có vợ hoặc có chồng; 2. Người mất năng lực hành vi dân sự; 3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; 4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; 5. Giữa những người cùng giới tính. Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP: Tại mục 1: c.1. Người đang có vợ hoặc có chồng là: - Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; - Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; - Người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003). c.2. Người mất năng lực hành vi dân sự là người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. c.3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ là giữa cha, mẹ với con; giữa ông, bà với cháu nội, cháu ngoại. Giữa những người có họ trong 14 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân phạm vi ba đời là giữa những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. c.4. Đối với trường hợp quy định tại điểm 4 Điều 10 cần hiểu là ngoài việc cấm kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi thì điều luật còn cấm kết hôn: - Giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; - Giữa người đã từng là bố chồng với con dâu; - Giữa người đã từng là mẹ vợ với con rể; - Giữa người đã từng là bố dượng với con riêng của vợ; - Giữa người đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng. Về các trường hợp cấm kết hôn thì ngoài việc làm rõ thêm các quy định đã có, trong điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn thể hiện một sự điều chỉnh và bổ sung rất đáng kể. Như tại khoản 4 Điều 10 nêu trên, trong khi cụ thể hóa trường hợp cấm kết hôn giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi thì đã bổ sung thêm việc cấm kết hôn giữa “bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”. Đây là bổ sung sáng suốt góp phần bảo vệ nền tảng đạo đức, sự trong sáng, lành mạnh và tôn ti trật tự trong quan hệ gia đình mang bản sắc luân lý đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Đối với một vấn đề gây tranh cãi và đang có những cách giải quyết khác nhau trên thế giới việc kết hôn của những người cùng giới tính thì thái độ của các nhà lập pháp Việt Nam thể hiện trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là dứt khoát: cấm kết hôn (khoản 5, Điều 10). Ở nước ta quan hệ đồng giới tính là một hiện tượng không mới nhưng hiện nay lại đang nổi lên khá công khai, nhất là trong cư dân đô thị. Về lâu dài, thiết tưởng cần có sự 15 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân tìm hiểu, thống kê và nghiên cứu đầy đủ với thái độ tôn trọng và cảm thông để áp dụng những giải pháp, pháp luật thỏa đáng hơn cho vấn đề hôn nhân đồng giới. Bên cạnh các bổ sung trên thì chúng ta không còn tìm thấy trong đạo luật mới quy định cấm người đang mắc bệnh hoa liễu, cấm anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha kết hôn với nhau như đã từng đặt ra trong Điều 9 và 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959; các điểm b và c Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Về trường hợp bỏ cấm đoán kết hôn đối với người đang mắc bệnh hoa liễu (và chúng ta liên tưởng đến cả người nhiễm HIV-AIDS) có lẽ mang nhiều ý nghĩa nhân đạo. Bởi lẽ, những căn bệnh trên không thể là lý do để tước bỏ quyền kết hôn của công dân khi họ có tình yêu thương và thật sự tự nguyện chấp nhận cuộc sống lứa đôi trong hoàn cảnh bệnh tật khó khăn đó. Mặt khác, đối với y học ngày nay thì việc ngăn ngừa sự lây lan và chữa trị bệnh hoa liễu không còn là nan giải nữa. Việc không có quy định trực tiếp cấm kết hôn giữa hai người là anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha cần được hiểu như thế nào? Những người này có liên hệ về huyết thống, do đó căn cứ đoạn 2, mục 3 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì họ thuộc diện có họ trong phạm vi ba đời, không được kết hôn với nhau. Hiểu như vậy là theo đúng lôgíc: giữa những người có họ trong phạm vi ba đời (bao gồm trực hệ và bàng hệ) đều bị cấm kết hôn, trong đó anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thuộc trường hợp không thể cho kết hôn với nhau được! Vấn đề kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình 16 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân chưa từng được dự liệu trong các đạo luật hôn nhân và gia đình của chúng ta nhưng là một thực tế cần quan tâm. Các chủ thể trên là anh chị em trong gia đình, nhưng giữa họ lại không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ họ hàng, vậy nếu phát sinh việc kết hôn với nhau thì giải quyết ra sao ? Về mặt đạo đức chúng ta không thể hoặc khó chấp nhận con riêng của vợ với con riêng của chồng, các người con nuôi của cùng cha mẹ nuôi hoặc con đẻ với con nuôi kết hôn với nhau, mặc dù về huyết thống không có ảnh hưởng tiêu cực cho nòi giống. Khi hai người kết hôn thuộc diện các đương sự trên yêu cầu chính quyền cho đăng ký kết hôn thì cán bộ hộ tịch không tìm ra quy định pháp luật để giải quyết. Còn đôi uyên ương lại lý sự: “Chúng tôi được làm những gì pháp luật không cấm!”. Có phải là khó xử không? Tóm lại, những quy định cấm đoán kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có sự hoàn chỉnh, công dân được tạo thuận lợi nhiều hơn để hưởng quyền kết hôn xây dựng mái ấm gia đình – một trong những quyền con người cơ bản nhất của mỗi cá nhân. 4.2 Các trường hợp cấm kết hôn. a) Người đang có vợ hoặc có chồng (Khoản 1 Điều 10 Luật HNVGĐ năm 2000). Điều 64 Hiến pháp 1992 nói rõ: “…Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…” Trên nguyên tắc Hiến định, khoản 1 Điều 38 Bộ luật dân sự và Điều 2 luật Hôn nhân gia đình năm 2000 khẳng định hôn nhân phải được khẳng 17 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân định xây dựng trên nguyên tắc một vợ một chồng: “ Hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ một chồng bình đẳng…” Trong xu thế tiến bộ xã hội (đặc biệt là sự bình quyền giữa nam và nữ), sự khẳng định cá nhân con người ngày càng lớn, đạo đức mới của con người không những phủ nhận kiểu hôn nhân một chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như trước mà đòi hỏi tình yêu nam nữ phải biểu hiện trong mối quan hệ thuỷ chung một vợ, một chồng. Vậy nên, hiện nay chế độ một vợ, một chồng đã được ghi nhận trong hầu hết pháp luật hôn nhân và gia đình của các nước (trừ một số nước ở Châu Phi, Trung cận đông, Trung á do ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo và phong tục, tập quán vẫn thừa nhận chế độ đa thê trong pháp luật). Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam coi một vợ, một chồng là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa và là một trong các điều kiện đẻ thừa nhận việc kết hôn hợp pháp (Điều 2 và Khoản 1 Điều 9 HNGĐ Việt Nam năm 2000). Hôn nhân phải dựa trên nguyên tắc một vợ một chồng bởi lẽ: Thứ nhất, hôn nhân xuất phát từ bản chất của tình yêu, là sự tự nguyện của nam nữ, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Hôn nhân một vợ một chồng lấy tình yêu giữa nam và nữ làm cơ sở xác lập hôn nhân và lấy tình yêu giữa vợ và chồng làm cơ sở duy trì quan hệ hôn nhân. Ăngghen đã chỉ rõ: “Vì bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng”. Thứ hai, bản chất của XHCN là hôn nhân một vợ một chồng. Chỉ có hôn nhân một vợ một chồng mới đảm bảo sự bền vững và hạnh phúc gia đình. Một xã hội ổn định khi có những gia đình hạnh phúc, yêu thương nhau. 18 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân Qui định này nhằm chống lại chế độ đa thê thời phong kiến và chống ảnh hưởng lối sống của xã hội tư sản trong hôn nhân. Theo đó thì chỉ có những người chưa kết hôn hoặc những người đã kết hôn nhưng vợ hoặc chồng họ đã chết, hoặc vợ, chồng họ đã li hôn thì mới có quyền kết hôn. Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác thì việc kết hôn của họ đã vi phạm điều cấm kết hôn và việc kết hôn đó là trái pháp luật. Điều 4 và khoản 1 Điều 10 luật HNGĐ Việt Nam năm 2000 đã qui định: Những người đang có vợ hoặc chồng mà chưa chính thức li hôn thì cấm chung sống như vợ chồng với người khác cũng như cấm người có vợ hoặc chồng mà kết hôn hay chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, chồng. Chung sống như vợ chồng là hành vi hai bên nam nữ tuy không phải là vợ chồng nhưng đã ăn ở với nhau và coi nhau là vợ chồng một cách trái pháp luật. Người đang có vợ hoặc người đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người vợ hoặc người chồng hợp pháp của họ. Đồng thời ảnh hưởng đến lối sống lành mạnh trong gia đình và trong xã hội, ảnh hưởng tiêu cực tới việc xây dựng chế độ mới XHCN. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ/CP về đăng kí hộ tịch trong đó ghi rõ khi tiến hành đăng kí kết hôn, UBND cơ sở phải xác minh về tình trạng hôn nhân của các bên nam nữ và chỉ tiến hành việc đăng kí kết hôn cho họ khi cả nam và nữ đều đang không có vợ, có chồng. Trước khi Luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực, nhà nước ta vẫn thừa nhận trường hợp nam nữ lấy nhau mà không đăng kí kết hôn chỉ chung sống như vợ chồng là hôn nhân thực tế. Vì thế, Nghị quyết 02/2000/NQ – HĐTP ngày 19 Nhóm 2 _ Đề tài: hôn nhân 23/12/2000 của HĐTP đã nói rõ người đang có vợ hay chồng là người đã kết hôn với người khác theo đúng qui định của pháp luật về hôn nhân và gia đình mà hôn nhân đó chưa bị chấm dứt. Hôn nhân một vợ một chồng đảm bảo bền vững và hạnh phúc của gia đình. Việc pháp luật qui định về vấn đề này không những quan tâm đến sự bền vững của tế bào xã hội mà còn thể hiện cả sự quan tâm đến hạnh phúc của những người đã kết hôn. Tạo cơ sở cho hôn nhân được duy trì. b) Người mất năng lực hành vi dân sự (Khoản2 Điều 10 Luật HNGĐ năm 2000). Luật HNGĐ cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Nếu vào thời điểm đăng ký kết hôn, quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự của toà án có hiệu lực pháp luật thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật. Trước hết cần phải hiểu rõ như thế nào là người mất năng lực hành vi dân sự. Theo Điều 24 Bộ luật Dân sự quy định: “Người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình nên toà án ra quyết định tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền”. Luật HNGĐ quy định những người mất năng lực hành vi dân sự thì không được phép kết hôn. Theo luật HNGĐ thì khi nam nữ kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên. Nhưng những người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất