Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hương ước và luật tục ở nông thôn việt nam...

Tài liệu Hương ước và luật tục ở nông thôn việt nam

.PDF
20
59
116

Mô tả:

Xã hội học nông thôn Hương ước và luật tục ở nông thôn Việt Nam Giảng viên : Tống Văn Chung Nhóm 10- K52 Xã hội học I. Hương ước • Khái niệm • Nội dung • Lịch sử hình thành và những chính sách của Nhà Nước • Hiện trạng 1.1 Khái niệm - Hương ước ra đời là sản phẩm của văn hóa làng và việc dùng hương ước để quản lý xã hội từng có tiền lệ trong lịch sử, không riêng ở Việt Nam mà cả ở các nước khác như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, hương ước cũng rất được chú trọng. - Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã hội, cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết. ( Đinh Gia Khánh- Văn hóa dân gian Việt Nam- NXB Chính trị quốc gia HN, 1995, trang 62) - Hương ước là một hệ thống các lệ làng, luật tục, là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng làng xã . Gọi nôm na thì đó chính là pháp luật của một làng. Những điều khác biệt giữa hương ước và pháp luật ngày xưa: - Nội dung của hương ước đơn giản và gọn nhẹ hơn so với pháp luật. - Trong văn bản pháp luật chỉ quy định các hình thức xử phạt, mà không có hình thức khen thưởng như hương ước. Khung hình phạt của hương ước thường đơn giản và ít mang tính nghiêm khắc hơn so với pháp luật. - Trong hương ước không có hình thức giảm tội cho bất kỳ ai có hành vi vi phạm, cho dù người đó thuộc thành phần xuất thân và có địa vị xã hội như thế nào trong làng. Trong khi đó, pháp luật phong kiến có quy định bát nghị, cho phép một số giai tầng trong xã hội (chủ yếu là thân thích của hoàng tộc, các công thần) được giảm mức hình phạt khi phạm tội Tính bình đẳng của hương ước rõ nét hơn so với pháp luật. - Hương ước có tính bảo lưu lâu dài, ít thay đổi, trở thành một thói quen, một nếp sống. Trong khi đó, pháp luật được hình thành do ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, mang tính cưỡng chế và dễ thay đổi khi thể chế thay đổi. 1. 2 Nội dung Xét tổng thể, hương ước phản ánh những nội dung chính sau: Những quy ước về tổ chức xã hội và các quan hệ xã hội trong làng Những quy ước về chế độ ruộng đất Những quy ước về văn hóa tinh thần, đảm bảo đời sống tâm linh của cộng đồng dân làng Những quy ước về đảm bảo an ninh làng xã Những quy ước về bảo vệ sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên 1.3 Lịch sử hình thành và những chính sách của Nhà Nước 1.3.1 Lịch sử hình thành hương ước. - Vấn đề kết hợp giữa lệ làng và phép nước là một kinh nghiệm của cha ông ta khi lần đầu tiên, vào cuối thế kỉ XV, vua Lê Thánh Tông (1460- 1497) trong điều luật 260 của “Hồng Đức thiện chính thủ” đã,ra sắc chỉ cho phép các làng xã lập hương ước riêng và hướng dẫn cách thức soạn thảo. - Thời Pháp thuộc: khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, Thực dân Pháp thực thi chính sách cải cách hương thôn, soạn thảo những hương ước cải lương để quản lý và cai trị nông thôn nước ta. - Từ sau 1945, cơ cấu tổ chức làng xã phong kiến bị bãi bỏ, hương ước không có cơ sở tồn tại. - Vào thập kỉ 80, hiện tượng tái lập hương ước xuất hiện và ngày càng có chiều hướng rõ nét. 1.3.2 Những chính sách của Nhà Nước. - Tại Hội nghị lần V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) họp tháng 6.1993, Đảng chủ trương khuyến khích xây dựng và thực hiện hương ước, các quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn xã. - Năm 1996, trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ cần phải phát huy và kế thừa hương ước cổ truyền trong việc quản lý nông thôn hiện nay. - Chủ trương này sau đó đã được luật pháp hóa bằng Nghị định 24CT/TTg ngày 19/6/1998 của Chính phủ chỉ thị cho các địa phương việc kế thừa hương ước cổ truyền trong việc soạn thảo quy ước nông thôn mới. Năm 1999, Bộ Tư pháp cũng có những công văn, chỉ thị hướng dẫn các địa phương thực hiện nghị định này của Chính phủ. 1.4 Hiện trạng - Những hương ước sớm nhất tập hợp được hiện nay là hương ước Quỳnh Đôi- Nghệ An (1638-1645), hương ước xã Mộ Trạch- Hải Dương (1665), khoán ước xã Phú Cốc (1689). - Theo thống kê của GS. Cao Văn Biên: ở Hà Đông, Nam Định, Thái Nguyên, Nghệ An có 258 hương ước Hán Nôm, trong đó chủ yếu là được lập vào thế kỉ XIX (56,2%). - Tỉnh Gia Lai, cho đến nay đã hướng dẫn cho 191 thôn làng xây dựng hương ước, trong đó có 168 hương ước được UBND huyện, thành phố phê duyệt và thực thi. - Tỉnh Đắc Lắc từ năm 1997 tới nay đã có 400 làng triển khai xây dựng hương ước, trong đó có 246 buôn làng đã có bản quy ước được UBND huyện phê duyệt và đưa vào thực thi. Giá trị xã hội của hương ước - Các hương ước với nhiều điều, khoản với nội dung khác nhau có ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ an ninh làng xã, phát triển sản xuất, giữ gìn thuần phong mỹ tục, phát triển văn hóa giáo dục. - Hương ước không chỉ đề ra các hình thức trừng phạt với các việc làm sai trái mà còn đề ra những hình thức khen thưởng việc tốt, có ích cho làng. Như vậy, Hương ước có vai trò quan trọng đối với việc ổn định nếp sống trong làng, bổ sung cho luật pháp khi cần xử lý những vấn đề rất cụ thể nảy sinh từ nếp sống đặc thù của làng. - Hương ước không chỉ có ý nghĩa như là một thứ luật pháp còn có ý nghĩa như là một hệ thống tiêu chuẩn đạo đức. Vì vậy, nó chứa đựng những giá trị văn hoá dân gian, hàm chứa nhiều yếu tố tích cực. * Những nét hạn chế trong việc xây dựng và thực thi hương ước của nông thôn nước ta hiện nay: - Hiện tại, ở nước ta vẫn chưa thống nhất tên gọi là quy ước hay hương ước. Trong lịch sử, tên gọi này cũng không thống nhất như: hương ước, khoán ước, hương khoán, lệ làng, khoán lệ.. Tùy từng làng, từng tộc người có cách gọi khác nhau. - Những hương ước hiện nay đã xây dựng đều chưa thể hiện được sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại trong từng bản hương ước, nhiều địa phương còn chưa lồng ghép nội dung hương ước với xây dựng làng văn hóa. - Trong quá trình xây dựng và thực thi hương ước chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các nghành, mang nặng tính một chiều từ trên xuống, chưa phát huy đầy đủ tính dân chủ, năng đông của làng xã nên dễ rơi vào khuynh hướng rập khuôn. Khái niệm 2 1 Nội dung II. Luật tục Hiện trạng 4 34 Đặc điểm 2.1. Khái niệm: Luật tục là toàn bộ những nguyên tắc ứng xử không thành văn được hình thành trong xã hội, chứa đựng những tiêu chí về đạo đức, luân lý, cách ứng xử, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo sau một thời gian dài áp dụng đã trở thành truyền thống và được mọi người tuân thủ. (Theo nghiên cứu của PGS.TS. Ngô Đức ThịnhBuôn làng, luật tục và vấn đề quản lý cộng đồng của các tộc người Tây Nguyên hiện nay) 2.2 Nội dung của luật tục. Nội dung luật tục có tính tổng hợp bao hàm những chuẩn mực xã hội và hàng loạt các khía cạnh cụ thể, đáp ứng yêu cầu duy trì, củng cố tính thống nhất và quan hệ cộng đồng của dân làng; nó có tác dụng chuẩn mực trong khuôn mẫu ứng xử và lề lối sinh hoạt xã hội, xác lập hệ thống tôn ti trật tự chung, chế định các mối liên hệ của con người trong quan hệ xã hội. Quan hệ với cộng đồng (các vi phạm lợi ích cộng đồng, về trật tự an ninh xã hội, không tôn trọng phong tục tập quán…) Những quy định chung về luật tục (các quy định mở đấu, về các tội và việc xét xử, các điều tổng quát, kết thúc một vụ việc…) Về xâm phạm đến tính mạng (xâm phạm thân thể, tính mạng người khác, về các trọng tội, các tội giết người…) Quan hệ gia đình (hôn nhân, quan hệ nam nữ, cha mẹ với con cái, đính hôn, ly hôn, tội ngoại tình…) Về tài sản và sở hữu (quan hệ sở hữu, khai hoang đất và quyền sở hữu ruộng đất, về của cải tài sản, tranh chấp tài sản, giải quyết nợ nần, về gia súc, đất đai…) Những tội phạm về tình dục (tội giam dâm, loạn luân, những điều cấm kỵ…) Về vai trò của người đứng đầu làng (các tội xúc phạm đến già làng, trưởng thôn, về quan hệ với thủ lĩnh, các tội chống chủ làng…) Tuy nhiên, nội dung của luật tục ngày nay cũng có những sự khác biệt mới. Hiện nay, luật tục thường được sử dụng trong trường hợp quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên, hòa giải các mối quan hệ cộng đồng, quan hệ hôn nhân và gia đình, giữ gìn thuần phong mĩ tục, thực hành các tín ngưỡng, nghi lễ… Luật tục cổ truyền vốn đã là một quy ước mang tính cộng đồng, phát huy vai trò điều hòa các mối quan hệ xã hội, quản lý cộng đồng, xây dựng đời sống văn hóa buôn làng thì nay, trong điều kiện xã hội mới vẫn mang những giá trị tích cực có thể kế thừa, lựa chọn và phát huy, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế hiện nay. Luật tục là hình thức phát triển cao nhất của phong tục tập quán, có tính bắt buộc thực hiện thông qua sự tự giác, tự nguyện của mỗi thành viên trong cộng đồng. 2.3 Đặc điểm của luật tục Luật tục chứa đựng những bản sắc văn hoá độc đáo của mỗi tộc người. Luật tục ra đời, biến đổi và quy định những hành vi của từng cá nhân trong cộng đồng phù hợp hoàn cảnh xã hội. Luật tục có phương pháp xử lý rất linh hoạt. Đôi khi, trong một trường hợp nhưng có nhiều cách xử sự khác nhau 3. Hiện trạng - Đảng và Nhà nước ta xác định "Nhà nước quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật". Nhưng hiện tại, ở các tộc người Tây Nguyên, đã và đang diễn ra thực tế kết hợp giữa luật tục và luật pháp trong quản lý cộng đồng. Ví dụ: Ở tỉnh Kon Tum, việc quản lý xã hội buôn làng lại chủ yếu là sử dụng luật tục. Với diện tích tự nhiên khoảng 9.614.000 km2 nhưng dân số chỉ có khoảng gần 400.000 người thuộc nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Kinh, Ja Rai, Jẻ Triêng, Xê Đăng, Ba Na, Brâu, Rơ Mâm... và một số dân tộc khác thuộc các tỉnh phía Bắc mới di cư vào như: Mường, Thái, Tày, Nùng... trong đó các dân tộc thiểu số bản địa chiếm khoảng 54% dân số tự nhiên của tỉnh nên việc sử dụng luật tục trong đời sống xã hội có nhiều nét đặc sắc, phong phú và riêng biệt. Giá trị xã hội của luật tục - Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của pháp luật càng lớn. Luật tục, ở một phạm vi nhất định cũng có vai trò, giá trị xã hội quan trọng như pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, duy trì và đảm bảo trật tự cộng đồng củng cố, gắn kết các thành viên trong cộng đồng. - Ngoài luật của nhà nước, cá nhân trong một cộng đồng còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm xã hội khác như đạo đức, tín ngưỡng. Luật tục vừa chịu ảnh hưởng của pháp luật vừa tác động ngược lại đến pháp luật. - Luật tục ra đời trước pháp luật như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống và được thực hiện một cách tự nguyện. Nó còn là cơ sở để các quy ước, tiêu chuẩn xây dựng nếp sống văn hoá được tiếp cận, vươn tới tận gốc rễ của cuộc sống buôn làng. Kể cả khi pháp luật mất đi thì nó vẫn tồn tại. Các thói quen xã hội do luật tục tạo nên có ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức pháp luật, thực hiện pháp luật. Nắm vững luật tục để thực thi hiệu quả pháp luật là mục tiêu hướng tới của các nhà lập pháp, quản lý, tư pháp và toàn thể xã hội. Những điểm hạn chế của luật tục Nhiều luật tục thể hiện sự lạc hậu, cổ hủ trong nhận thức đối với tự nhiên và xã hội của người đồng bào dân tộc thiểu số, thậm chí là phản khoa học, trái với luật pháp hiện hành của Nhà nước, gây tâm lý cục bộ, địa phương, hình thành tư tưởng “phép vua thua lệ làng”… Ví dụ: nạn tảo hôn, kết hôn không có giấy giá thú, tục nối dây; để người chết lâu trong nhà, ăn uống trong ma chay mất vệ sinh, tổ chức lễ hội tốn kém; những quy định về phạt vạ thiếu thống nhất dẫn đến không công bằng, thậm chí mâu thuẫn với pháp luật, cách xét xử bằng đức tin vào thần linh làm oan sai người vô tội, quá tin vào thần thánh, mê tín dị đoan ảnh hưởng đến sản xuất. Kết luận - Tiếp thu những yếu tố tích cực của hương ước, luật tục cũ để xây dựng hương ước, luật tục mới, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu ở các làng xã, buôn làng hiện nay là việc làm cần thiết để góp phần xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá ở các xóm làng, được nhà nước ta quan tâm và ủng hộ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan