Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản đọc văn tiết 2hạnh phúc của 1 tang gia tríc...

Tài liệu Hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản đọc văn tiết 2hạnh phúc của 1 tang gia trích số đỏ vũ trọng phụng từ gọc nhìn văn hóa và bài học ứng xử

.DOC
21
62
115

Mô tả:

MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 2 1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................2 2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................3 3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................3 4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................3 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.............................................................4 1. Cơ sở lí luận:..........................................................................................................4 1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn:.............................................4 1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT:.....................................................5 1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học:.......................................................5 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề......................................................7 3.1. Khái niệm, giá trị và tiêu chí xác định Văn hóa ứng xử, đạo đức con người trong cách nhìn khoa học.......................................................................................8 3.2 Rèn luyện và xây dựng ý thức ứng xử văn hóa và đạo đức cho người học trong một bài đọc văn cụ thể: Hạnh phúc của một tang gia- trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng..........................................................................................................8 3.3 . Kết quả chung của hình thức tổ chức tiếp cận bài học “Hạnh phúc của một tang gia” từ góc nhìn văn hóa ứng xử và đạo đức con người theo phương pháp thảo luận. ................................................................................................................................. 14 3. 4. Bồi dưỡng nhận thức về những giá trị văn hóa, lối sống văn hóa, cách ứng xử văn hóa và giữ vững những giá trị đạo đức tốt đẹp..................................................15 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường......................................................................................15 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.....................................................................................17 I. Kết luận:..............................................................................................................17 2. Kiến nghị:...........................................................................................................18 2.1. Với giáo viên:...............................................................................................18 2.2. Với các cấp quản lí giáo dục:............................................................................18 1 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đem đến tri thức, bồi đắp tâm hồn, đó là sứ mệnh, là vinh dự, là khả năng đặc biệt của văn chương, nhưng đem đến hứng thú, sức hấp dẫn để thu hút ánh nhìn, cảm xúc, nhận thức của học sinh với văn chương trong thời buổi mà vật chất lên ngôi, niềm tin vào cái đẹp, cái tốt, vào giá trị văn hoá ít nhiều lung lay lại là trách nhiệm và tài năng của người thầy. Dạy văn là làm khoa học và nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, đòi hỏi tâm huyết và nỗ lực không ngừng của người thầy. Nhưng trong thời đại mới, với xu hướng phát triển và hội nhập, tư tưởng, khát vọng, niềm tin, quan niệm, tình yêu và việc tôn vinh những giá trị của đời sống có khác đi so với trước đây, việc người thầy làm cho môn văn hấp dẫn, thu hút trong giờ học văn là chưa đủ, mà phải tiếp cận với nhu cầu, xu hướng, của học trò, của con người trong thế kỉ mới, để dạy làm người và dạy cách sống tốt nhất cho người học, đó cũng là cách phát triển ý nghĩa của việc dạy học môn ngữ văn trong nhà trường. Thời đại mà công nghệ bùng nổ, con người khát khao vượt thoát những giới hạn của bản thân, tìm kiếm cái mới, nỗ lực trong hành động sẽ đòi hỏi mỗi người trong hành trình sống phải có những cuộc dấn thân mới, con người phải chủ động, phải tích cực, phải sáng tạo. Bên cạnh đó, nếu không giữ lấy nền tảng đạo đức, không giữ lấy những giá trị căn cốt, con người sẽ không còn là con người. Một bài học ngữ văn không chỉ đem đến cho các em tri thức, nhận thức về thiên nhiên, xã hội, con người mà chức năng cơ bản của nó là bồi đắp cho học sinh những vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng và cảm xúc. Chúng ta có thể đem đến cho các em không chỉ niềm vui và hứng thú ở việc cảm nhận, mà còn có thể khám phá và giúp các em khám phá con người bên trong của chính mình, đáp ứng nhu cầu thời đại mới. Thực tế cuộc sống cho tôi nhận thấy một vấn đề cũng khá nhức nhối: Con người hiện đại hình như không ít chạy theo lối sống thực dụng và xem nhẹ phần con người bên trong. Những giá trị chuẩn mực của cái đẹp truyền thống có nguy cơ bị bào mòn, thay đổi. Con người hiện đại cũng dễ hoài nghi hơn về cuộc sống, về con người. Giới trẻ có xu hướng kiếm tìm những cái mới mẻ, bề nổi, xu hướng đám đông… Thực tế này cần được nhìn nhận và điều chỉnh ngay từ khi các công dân tương lai còn ngồi trên ghế nhà trường. Qua thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy một thực tế, ở nhà trường, môn ngữ văn vẫn được xem như môn học mà người dạy phải mang đến cho các em hệ thống kiến thức hàn lâm, các thầy cô về cơ bản vẫn yêu cầu các em phải bắt buộc thuộc những kiến thức cơ bản, hiểu theo ý nghĩa sao cho chung nhất, để khi thi cử, không đi lệch với đáp án. Nghĩa là học để thi. Tất nhiên, đề thi những năm gần đây đã là dạng đề mở, có sự thay đổi linh hoạt, hướng đến sự phát triển năng lực của người học, nhưng tôi vẫn thấy, học sinh vẫn rơi vào tình trạng học công thức. Đối với việc thi cử, và nhất là với đối tượng học sinh ít có sự tìm tòi, sáng tạo, việc dạy như thế, học như thế là “an toàn”. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn, bên cạnh việc đảm bảo cho các em về vấn đề học – thi – lấy điểm, chúng ta, mỗi 2 thầy cô giáo phải biết khai thác tối đa những ưu thế của môn mình, để không chỉ đáp ứng nhu cầu mang tính chất “thời vụ”, mà còn “trồng người” bằng cách khơi dậy những vẻ đẹp đáp ứng với nhu cầu của tương lai, vực dậy những giá trị có thể mai một đi trong cuộc sống hiện đại. Từ thực trạng cuộc sống hiện đại với những giá trị đạo đức có nguy cơ bị đảo lộn hoặc rơi vào tình trạng bị bào mòn, mai một, tôi mạnh dạn đề xuất một khía cạnh liên quan tới việc giáo dục đạo đức và tư duy tích cực từ người học từ một tiết giảng văn cụ thể, tôi nghĩ, đây là một việc làm cần thiết. Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài, tôi xin trình bày quan điểm của mình về việc HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP CẬN VĂN BẢN ĐỌC VĂN (TIẾT 2) HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA – TRÍCH SỐ ĐỎ - VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VÀ BÀI HỌC ỨNG XỬ 2. Mục đích nghiên cứu Học văn, muốn đem đến bất cứ một điều gì, đầu tiên cũng là giải mã văn bản. Phải tìm con đường giải mã văn bản đơn giản, khoa học, hiệu quả, để đem lại hứng thú, rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn thơ trữ tình, văn xuôi, kịch, văn bản nghị luận, chính luận… Khi đọc văn, các em không chỉ chiếm lĩnh tri thức, mà còn tự bồi đắp tâm hồn, có thể vận dụng tri thức, đem các bài học nhân sinh rút ra từ văn bản để làm giàu cho cuộc sống. Mục đích của bài đọc này là đem đến cho học sinh những cái nhìn và tư duy về cách ứng xử, cách sống có văn hóa, bảo tồn cái đẹp trong con người từ những biểu hiện “lệch chuẩn” người trong bài học cụ thể: “Hạnh phúc của một tang gia.” 3. Đối tượng nghiên cứu Từ một bài đọc văn cụ thể, từ kinh nghiệm trong quá trình giáo dục, đề tài này nghiên cứu và tổng kết về việc cần thiết biết vận dụng những hiểu biết về văn chương để sống đẹp – sống có đạo đức và văn hóa trong đời thực. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp chính: Nghiên cứu, thực nghiệm: + Sưu tầm, tập hợp các tư liệu về mục tiêu giáo dục, các bài viết về thực trạng lối sống thực dụng của con người, về nhu cầu đổi mới con người hiện đại, các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; Tổng hợp các tài liệu sau khi đọc, vận dụng vào việc xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài. + Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin sau khi đã vận dụng vào bài đọc văn các cách thức để khơi dậy nhận thức về lối sống và biểu hiện văn hóa ở các lớp đề án, lớp đại trà…tại trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn – Thanh Hóa. + Thống kê, xử lý số liệu: tổng hợp và đưa ra kết luận trên cơ sở các thông tin và số liệu đã có. - Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn dịch; Quy nạp. 3 Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau: Bước 1: Tiến hành khảo sát niệm về lẽ sống, lí tưởng, cách ứng xử của học sinh qua các tình huống thực tế tại trường học. Bước 2: Dạy thể nghiệm theo bài học theo góc nhìn văn hóa ở một số lớp. Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học. Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn: Dạy học văn phải bắm sát đặc trưng thể loại văn bản. Nghiên cứu đặc trưng thể loại văn học là một trong những cách tiếp cận tác phẩm văn học của thi pháp học.Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( PGS. Lê Bá Hán, GS. TS Trần Đình Sử, GS Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên): “ Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ, của nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy” Là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học, thể loại văn học chính là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản, một phương thức chiếm lĩnh đời sống. Đây là một trong những phạm trù cơ bản nhất của sáng tác, nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Người sáng tác muốn thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình trước đời sống phải lựa chọn, một cách thức tổ chức nào đó phù hợp. Người tiếp nhận muốn giải mã được tầng hàm nghĩa, thông điệp tư tưởng của nhà văn cũng không thể không xuất phát từ đặc trưng của thể loại. Môn Văn là môn học đặc biệt và đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật (nghệ thuật ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có những vấn đề ngày trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Nhiều vấn đề có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí. Vì vậy trong học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học sinh là những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn cho vấn đề. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc và phải có nền tảng đạo đức và văn hóa vững chắc thì việc khơi dậy những thức nhận và ứng xử văn hóa cho học sinh là vô cùng cần thiết. 4 1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT: Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông nêu rõ: - Mục tiêu của bậc THPT là “giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới”. - Hướng tới hình thành 5 phẩm chất, 10 năng lực chủ yếu của người học: + Những phẩm chất chủ yếu : yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. + Những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung, được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; 1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học: - Phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, cách thức dạy học là những yếu tố căn bản quyết định đến chất lượng giờ dạy, đến hiệu quả tác động với học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, năng lực giao tiếp… Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. - Phương tiện cần thiết và phù hợp: SGK, TLTK, SGV, máy chiếu, giáo án điện tử, bảng… - “Phương pháp – theo giáo sư Trần Đình Sử - nói chung là cách thức tác động vào một đối tượng nào đó để đạt đến mục đích. Phương pháp dạy học là một yếu tố trong quá trình dạy học phụ thuộc vào bản chất của hoạt động dạy học. Phương pháp được (…) hình dung như một hệ thống các nguyên tắc, cách thức, biện pháp được sử dụng trong quá trình dạy học. Trong quan niệm dạy học hiện đại theo mô hình lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể, nhóm hoạt động thực hành có vị trí chủ đạo, nhóm lời nói và trực quan là phụ trợ”. Việc tổ chức các bước lên lớp, vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học phải sáng tạo, phù hợp với yêu cầu của bài học, không thể máy móc áp dụng theo một thứ tiêu chuẩn cứng nhắc, hướng học sinh tới mục tiêu giáo dục hiện đại: Phẩm chất và năng lực của con người. 1.4. Xuất phát từ nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay: Nhu cầu bộc lộ bản thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát huy tiềm năng học tập, khả năng phản biện vấn đề. Học sinh ngày nay luôn có nhu cầu tự bộc lộ mình, nhất là trong những tình huống được động viên, khích lệ, có hứng thú. Các em không thích lối tư duy thụ động, phụ thuộc vào người khác. Cũng không muốn bị áp đặt bởi cách hiểu của người khác. Các em thích 5 tìm lí lẽ của riêng mình, có cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách cảm, cách nghĩ táo bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Nhưng do quan niệm truyền thống, lạc hậu nên nhiều khi vô tình chúng ta đã cản bước tiến của các em. Cũng có thể, lối suy nghĩ của các em chịu ảnh hưởng và tác động của thực tế cuộc sống hiện đại, nhiều khi rất thực dụng. Nhiệm vụ của người dạy văn là dẫn dắt, định hướng, thuyết phục để học sinh hiểu, chấp nhận và tự tìm giải pháp đúng đắn, hành động đúng đắn Với đặc thù của bộ môn ngữ văn, với yêu cầu của thực tiễn khách quan, yêu cầu về con người, yêu cầu về mục tiếu giáo dục…mỗi thầy cô giáo cần phải phát huy những điểm mạnh của bộ môn mình và hướng tới mục đích giáo dục toàn diện. 2. Thực trạng vấn đề - Từ quá trình khảo sát tài liệu sách giáo khoa, từ quá trình giảng dạy các ở cả ba khối, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy: + Trong chương trình ngữ văn THPT, các bài đọc văn thuộc đủ thể loại và các kiểu dạng: văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi, kịch); văn bản chính luận, văn bản nhật dụng, văn bản phê bình…Khi dạy học các bài đọc văn, các thầy cô giáo chủ yếu hướng học sinh đi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, từ đó mà hướng tới mục tiêu giáo dục nhận thức, ý thức ở người học là chính. + Nhiều thầy cô giáo chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức, hướng học sinh đến việc hiểu văn bản, thể hiện việc học tập, vận dụng kiến thức đã học để viết bài kiểm tra, thể hiện lại việc nắm kiến thức, hiểu bài…chứ chưa có mấy thầy cô chú ý đặc biệt tới việc rèn luyện các kĩ năng khác như đọc, giao tiếp, làm việc nhóm, thể hiện suy nghĩ cá nhân khác với những gì quen nhìn, quen hiểu, thành ra, tính sáng tạo ở người học, sự phát hiện riêng ở mỗi cá nhân chưa được khai thác đầy đủ, các em bị nghĩ theo một lối tư duy, ép phải “thấy” như “người ta thấy”, mà thực sự không thoải mái, không hài lòng, vì các em chưa được đi tìm, chỉ là công nhận kết quả. Cái này một phần ở hệ thống kiến thức phải tiếp nhận còn nặng nề, tâm lí học để thi cử, một phần do lối mòn dạy học tạo nên. + Việc dạy học ngữ văn còn vấp phải những rào cản lớn không thể không kể đến, đó là thói quen thụ động trong học tập và chiếm lĩnh kiến thức của học sinh, đặc biệt, sự lép vế của các môn xã hội trong xu hướng chọn ngành nghề dấn đến không có nhiều học sinh thật sự yêu thích, đam mê môn Văn. + Trong khi đó, tư duy độc lập, góc nhìn con người cá nhân, ý kiến riêng của người viết lại vô cùng cần thiết, trước hết là ở ngay trong chính những bài thi, đề thi, đáp ứng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá. Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT yêu cầu toàn ngành phải có những đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh. Theo đó, hướng kiểm tra, đánh giá, ra đề thi của môn Ngữ văn có mấy điểm tích cực sau đây : * Đề thi mở : đây là hướng ra đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong suy nghĩ, luận giải của học sinh. Không có một đáp án duy nhất, chỉ cần học sinh trình bày, lập luận vấn đề, thuyết phục được người đọc theo cách nghĩ của mình một cách hợp lí, đều được chấp nhận và đánh giá cao. 6 * Đề thi yêu cầu tính phản biện : đây là dạng đề thi mới, với yêu cầu chống việc học vẹt, học tủ, ghi nhớ kiến thức máy móc. Học sinh có kiến thức cũng chưa chắc đã làm tốt được mà đòi hỏi phải có khả năng vận dụng kiến thức một cách linh hoạt sáng tạo. + Thực tế cuộc sống cũng cho chúng ta thấy một điều, học sinh dám nghĩ, dám nói những điều mà các em thấy, các em hiểu, thậm chí có thể thấy và hiểu sai lệch, vẫn dám thẳng thắn ra ý kiến, lập luận cho bằng thuyết phục điều mà các em cho là đúng. Nhiều khi, nó đi ngược lai với những giá trị truyền thống. Nhiệm vụ của chúng ta là phát huy suy nghĩ độc lập của các em, nhưng dẫn dắt và định hướng để các em nghĩ theo chiều hướng tích cực nhất, bảo vệ những giá trị cơ bản của cuộc sống được phản ánh trong văn chương và cũng từ những hiểu biết trong tác phẩm, các em bước ra ngoài cuộc sống tốt hơn, tích cực hơn. - Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn trăn trở, kiếm tìm những giải pháp cho mỗi giờ học, nhằm kéo học sinh trở về với niềm yêu thích môn văn, truyền cho các em hứng thú tìm hiểu các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của một văn bản văn học, gắn văn chương với đời sống, không chỉ học để thi, không biến giờ học chỉ để “tải đạo”, “ngôn chí” mà để sống trong đời thực sao cho vừa hiện đại, vừa gìn giữ được những tiêu chí căn cốt của con người trên cơ sở những giá trị đạo đức tốt đẹp. Ở phạm vi của đề tài, tôi cố gắng chuyển hoá ý tưởng bằng việc lồng ghép mục tiêu dạy học, hình thành cho học sinh những năng lực tư duy độc lập bồi đắp ở học sinh những quan điểm, tư tưởng tích cực, góp phần hình thành phẩm chất người học hiện đại trong một thiết kế giờ dạy đọc văn. Tôi vận dụng kết hợp các phương pháp, phương tiện, kĩ thuật, kiến thức liên môn trong từng phần của thiết kế. Tôi chú trọng khai thác tư duy độc lập của học sinh và hướng các em tới những giá trị văn hóa ứng xử trong một vài điểm nhấn của bài đọc văn. Bước đầu, tôi đã thu nhận được những kết quả đáng ghi nhận từ đối tương là học sinh của trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề - Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình huống phản biện, Tạo không khí đối thoại tự do, dân chủ. - Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện: Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong tiết đọc văn cụ, hướng tới các mục tiêu khác nhau, trong đó có mục tiêu rèn luyện tư duy phản biện, khả năng phản biện của học sinh. Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: nêu vấn đề, nêu câu hỏi, kĩ thuật mảnh ghép, khăn phủ bàn, động não (hay công não), bể cá, hay tia chớp… Trong giới hạn của đề tài này, tôi muốn đi sâu vào khai thác bài học Hạnh phúc của một tang gia nhìn từ góc nhìn văn hóa ứng xử và đạo đức con người. - Bồi dưỡng ý thức học văn là học đời sống, học cách ứng xử văn hóa, học đạo đức làm người hiện đại bên cạnh những năng lực khác mà con người hướng tới. - Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển con người văn hóa, con người đạo đức phẩm chất tốt đẹp trong mỗi học sinh. 7 3.1. Khái niệm, giá trị và tiêu chí xác định Văn hóa ứng xử, đạo đức con người trong cách nhìn khoa học - Văn hóa ứng xử là hành vi ứng xử, cách ứng xử của con người đạt giá trị chuẩn mực văn hóa chân - thiện - mỹ của một cộng đồng xã hội, tức là ứng xử có văn hóa. - Đối với mỗi cá nhân con người, văn hóa giao tiếp, ứng xử không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường hàng ngày, mà còn quyết định đến hiệu quả làm việc ở cơ quan và xã hội cũng như mức độ thành công trong sự nghiệp của người đó. Kỹ năng giao tiếp - văn hóa ứng xử thể hiện rõ rệt về năng lực trí tuệ, khả năng tư duy và ứng xử văn hóa của con người, bộc lộ khả năng của người đó trong thực tiễn cuộc sống công tác ở cơ quan, công sở cũng như trong gia đình, ngoài xã hội. - Qua cách ứng xử của một con người, ta hiểu được bản chất của con người đó. Đây chính là mối quan hệ giữa nội dung (bên trong) và hình thức (bên ngoài) của một người. - Ngày nay, con người Việt Nam giao tiếp trong môi trường giao lưu hội nhập quốc tế, cần phải phát triển văn hóa ngoại giao, văn hóa đối ngoại, ứng xử văn hóa trong các quan hệ quốc tế, phát triển sức mạnh mềm của văn hóa dân tộc. - Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù họp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”Ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức dần biến đổi. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị đạo đức mới. Các giá trị đạo đức ở Việt Nam hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù, sáng tạo, yêu lao động; tình yêu quê hương, đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống văn minh, lành mạnh; có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. => Hướng đến xây dựng con người mới nhất thiết không thể không chú trọng giá trị văn hóa và đạo đức con người. 3.2 Rèn luyện và xây dựng ý thức ứng xử văn hóa và đạo đức cho người học trong một bài đọc văn cụ thể: Hạnh phúc của một tang gia- trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. - Tiến hành bài học theo giáo án đã soạn với các bước của một giáo án hướng tới sự phát triển năng lực của người học ( Phụ lục đính kèm) - Tiến hành thảo luận Socratic trong tình huống sau: 3.2.1 Phân tích mâu thuẫn trào phúng trong tác phẩm: Tình huống ông cụ già chết và cách thức tổ chức cũng như tâm trạng của đám con cháu. 8 Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm đọc và tự tìm lời giải đáp cho câu hỏi tình huống của mình. Mỗi câu hỏi đặt ra, đều có những gợi ý trong quá trình học sinh trình bày. GV đặt câu hỏi: Nhóm 1: Phân tích và bình luận câu văn mở đầu đoạn trích “ Ba hôm sau ông cụ già chết thật”. Em nhận thấy thái độ và giọng điệu của nhà văn như thế nào? Em hình dung điều gì về đạo đức của “tang gia” ấy? HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi. GV khơi gợi vấn đề phản biện: ? Có bạn nào nhận thấy ở câu mở đoạn có điều gì bất thường không? sao lại chết thật, thế là có giả đúng không? Hiểu câu văn đó là lời của ai? + Với câu gợi ý này, học sinh có thể nhìn nhận ra ngay vấn đề: Hẳn là người ta mong đợi cái chết này lâu rồi, mãi đến nay “ ông cụ già” mới chịu chết cho. Học sinh cũng có thể nhìn ra, nhà văn đã thấy rõ sự “hiếu thảo” của đám con cháu nên câu văn bật thốt như một tiếng thở phào nhẹ nhõm, vui mừng khôn xiết. + Với câu hỏi này, học sinh đã phát hiện được câu văn viết ra là của nhà văn, nhưng lại mô phỏng giọng điệu và thái độ của người thân ông cụ già.Giọng điệu khách quan bên ngoài, lạnh lùng ghi chép, nhưng thực chất là một câu mai mỉa, chua chát, cay đắng khi nhận ra bộ mặt thật của lũ con cháu bất hiếu. Các em đã có một cuộc thảo luận sôi nổi về cách đối xử với người thân đã mất, thái độ nên có, cần có khi có tang gia, cách ứng xử của bản thân với hình thức thái độ của chính mình, cách biểu hiện tình cảm với người quá cố…Trong cuộc thảo luận, các em đã sôi nổi bàn về cái các em thấy ở một đám tang người cao tuổi đã ốm bệnh lâu rồi, đám tang của người trung tuổi mất đột ngột…để thấy cuộc sống cũng lắm kiểu người, và biểu hiện cũng muôn vàn cách biểu hiện. (Khi các em thảo luận, cắt nghĩa, giáo viên gợi ý cách ứng xử và thái độ cần có của mỗi chúng ta khi gia đình hoặc xung quanh có việc hệ trọng. Đám tang dù người quá cố văn số hay thọ trường, thái độ cần thiết là trang nghiêm, thành kính hoặc ít nhất là sự nghiêm túc trong nét mặt, cử chỉ, lời nói.) Mỗi học sinh trong nhóm đều tích cực đưa ra các kiến giải của mình, lắng nghe bạn học trình bày ý kiến, ghi chép phân tích và đi đến kết luận về thái độ của đám con cháu, chân dung đạo đức của đám con cháu nhà có người quá cố. GV củng cố lại bằng cách hỏi một vài học sinh những kết luận cơ bản về Đây là kết quả của một phiếu học tập của học sinh sau quá trình thảo luận 9 Nhóm 2 - Truy tìm lí do tại sao cái chết của ông cụ già lại được mong chờ đến thế? Em suy nghĩ gì về những “giá trị” đích thực trong cuộc sống? Lí do ông cụ già chết cho em những suy ngẫm gì về nền tảng văn hóa phải tạo dựng ở con người? + Khai thác hai câu sau: HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi. GV khơi gợi vấn đề phản biện: * Nguyên do của niềm mong chờ là tiền tài, gia sản mà ông cụ để lại * Có bạn học sinh đã nghĩ rằng đó là biểu hiện không lạ, vì tiền ai chẳng thích, ông cụ thì đã già rồi. Ý kiến của em như thế nào? - Các em học sinh lí trả lời câu hỏi của cô giáo, các học sinh khác bày tỏ băn khoăn bằng câu hỏi, tìm cách lí giải. Vấn đề dần được làm sáng tỏ. - Sau khi thảo luận, học sinh rút ra kết luận và tập trung đến cách hiểu câu hỏi tình huống. - Kết quả thảo luận mà học trò tự rút ra trên phiếu học tập 10 Nhóm 3: Tìm những từ ngữ miêu tả thái độ của đám con cháu và nhận xét về thái độ đó. Cách ứng xử của những con người đó nói gì về đạo đức và lối sống thực của một bộ phận người? GV khơi gợi vấn đề phản biện: - Có ý kiến cho rằng, người chết thì cũng đã chết rồi, buồn cũng không sống lại, vậy thì phải chấp nhận sự thật? Ý kiến của anh chị? Hs đã thảo luận bày tỏ quan điểm, đi tìm chân lí bằng cách lắng nghe, sàng lọc, phân tích và rút ra kết luận chung GV gọi học sinh trình bày kết luận. Kết quả trên phếu học tập của một học sinh: Nhóm 4: Nhận xét về ý nghĩa của việc giới thiệu tình huống cái chết của ông cụ già? Việc giới thiệu một tình huống như thế cho thấy có phản ánh cái nhìn tiêu cực bi quan về cuộc sống hay không? GV khơi gợi vấn đề phản biện: - Có bạn cho rằng, Vũ Trọng Phụng là nhà văn có cái nhìn tiêu cực, nhìn như thế dễ khiến cho người đọc bi quan về con người. Ý kiến của anh chị. 11 thế nào trong thời đại hôm nay? - Với bài kiểm tra nhỏ này, các em có thể trình bày lập luận phản biện, trình bày quan điểm, ý kiến riêng, có thể đồng tình với khía cạnh nào đó, có thể bổ sung cho ý tưởng thêm rõ ràng, có thể phát triển thêm những khía cạnh mới. - Kết quả bài tập của học sinh => GV sơ đồ hóa tình huống đầy kịch tính trong chương trích để học sinh rút ra những nhận xét quan trọng và ghi vào vở mục thứ nhất của bài học. 3.2.1 Phân tích Hạnh phúc của tang gia - Những chân dung trào phúng theo hệ thống câu hỏi thảo luận sau đây 12 Với hệ thống câu hỏi cho các nhóm như trên, giáo viên cho các em thực hiện vào phiếu bài tập, sau đó gọi một hai học sinh của mỗi nhóm trình bày, gọi học sinh nhóm khác nhận xét, cùng các nhóm khác thảo luận, rút ra những kết luận cơ bản. Nhóm 1, kết quả của một phiếu học tập như sau: Nhóm 2, kết quả của một phiếu học tập như sau: 13 GV cho học sinh nhóm 3, nhóm 4 trình bày những phát hiện về chân dung của các nhân vật theo bài tập đã giao. Sau khi hs trình bày xong, gv đặt câu hỏi cho cả lớp: Nhận xét chung về điểm giống nhau của các nhân vật trong và ngoài tang quyến? Hs sẽ trử lời và gv hướng đến kết luận sau. GV Tổng hợp kết luận của Nhóm 3, nhóm 4 ở nửa sau của bài tập đã giao chung: Câu hỏi chung cho nhóm 3, 4: Đám đông cho em bài học gì về văn hóa ứng xử nơi công cộng trước những việc đau buồn? Các em trình bày riêng, gv lắng nghe và thực hiện thao tác tóm tắt ý ngay trên máy tính, dùng bảng chiếu trình chiếu PowerPoint cho học sinh thảo luận, bổ sung. 3.3 . Kết quả chung của hình thức tổ chức tiếp cận bài học “Hạnh phúc của một tang gia” từ góc nhìn văn hóa ứng xử và đạo đức con người theo phương pháp thảo luận. - Học sinh làm việc sôi nổi, tích cực, giờ học sinh động, thoải mái, cởi mở. - Mỗi học sinh đều cố gắng đưa quan điểm của cá nhân, chất vấn, đối thoại, lí giải, phân tích để cùng tìm kiếm những giá trị của văn bản 14 - Những học sinh nhút nhát, ít bộc lộ cũng tích cực tham gia. Việc bày tỏ quan điểm riêng, nhìn nhận lại vấn đề trở thành nhiệm vụ của người học. - Các em nhận ra mình có quyền được nhìn nhận khác biệt và quan trọng là dám đưa ra những suy ngẫm của bản thân, chia sẻ để được lắng nghe và rút ra kết luận trên cơ sở tôn trọng và khai thác ý kiến của những người xung quanh. 3. 4. Bồi dưỡng nhận thức về những giá trị văn hóa, lối sống văn hóa, cách ứng xử văn hóa và giữ vững những giá trị đạo đức tốt đẹp. - Khi kết thúc tiết học, ngoài hướng dẫn củng cố, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh hiểu, việc nhận thức văn bản, đọc hiểu văn bản rất cần tư duy, vốn sống, năng lực của cá nhân. Cần phải đặt văn bản vào những tình huống có vấn đề, đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy. Quá trình chất vấn, lập luận, phân tích sẽ giúp mỗi chúng ta tự ngộ ra chân lí và không có cảm giác phải hiểu văn bản một cách khiên cưỡng, ép buộc. Có cái nhìn khác biệt, biết cách đặt ngược lại vấn đề chính là nhìn đối tượng đa chiều, điều này vừa giúp các em chính xác trong nhận thức, vừa giúp các em rèn luyên các năng lực giao tiếp, năng lực làm việc nhóm, năng lực tổ chức…Khi tiếp cận với các văn bản, các em cần phải nhìn ra được những bài học đạo đức, những giá trị tốt đẹp để phát huy, rèn rũa, biết dùng tiếng nói cá nhân của mình để mạnh mẽ lên án cái xấu, cái ác, cái bất công tàn nhẫn. - Khi kết thúc tiết đọc văn, cũng không nên quên hỏi học trò những câu hỏi bên lề như: giờ học hôm nay các em có thấy thoải mái không? Có còn điều gì, chỗ nào khiến em băn khoăn và cần phải làm sáng tỏ hơn nữa? Cần nghĩ thêm để vào thời điểm khác chúng ta sẽ cùng quay lại? Đặc biệt nhấn mạnh để các em quan tâm đến cánh ứng xử có văn hóa từ những cái “hỏng” cái “ thủng”của các nhân vật được đề cập đến trong Hạnh Phúc của một tang gia. - Khi dạy học các giờ đọc văn khác, có thể gợi ý và tổ chức để các em quay lại những tình huống có vấn đề liên quan đến bài học mới để so sánh, liên hệ, cắt nghĩa làm sáng tỏ. - Trong các giờ làm văn,cần đưa ra tình huống có vấn đề, để các em được quyền bày tỏ cái nhìn và nhận thức riêng, chú ý hướng dẫn các em cách tổ chức lập luận để trình bày góc nhìn khác biệt, thậm chí đối lập với cái nhìn “phổ thông” của số đông, số nhiều. Luôn nhớ đến việc hướng học sinh đến những mục tiêu giáo dục nhân cách và quan tâm đặc biệt đến lối sống, lối ứng xử văn hóa được gợi ra trong bài học này. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường - Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát với học sinh 3 lớp 11 B2, 11 B3, 11B4, năm học 2019 - 2020 sau khi các em học chương trích Hạnh Phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng. Lớp 11 B4 dạy học thông thường; lớp 11 B2, B3 dạy học tiếp cận văn bản nhìn từ góc độ văn hóa và đạo đức. 15 + Với lớp 11 B4, lớp đại trà, khối C, sĩ số 37 khi học văn bản, các em tiếp nhận với thái độ dò xét, rất chăm chú lắng nghe, ghi chép, học tốt nội dung kiến thức nhưng ít sôi nổi vì tạp trung vào tiếp nhận và phân tích kiến thức trọng tâm cơ bản. + Với lớp 11 B2, 11B3 học sinh được tạo một không khí cởi mở, giờ học mang tính trao đổi, tranh biện, các em rất hứng thú lắng nghe, hứng thú bày tỏ, hứng thú phân tích và tổng hợp từ các ý kiến để rút ra kết luận. Kết quả: Lớp Lắng nghe Hỏi, tranh luận. Thống nhất và hài lòng với kết quả 11B2(24 hs) 100% 11B (36 học sinh) 100% 11B4 (37 học sinh) 96% (73%) (67,6%) (11%) 100% 78% 71% Trên đây là những việc tôi áp dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình trong một tiết học văn. Qua thực tế thao giảng lớp 11 B2, giờ dạy lớp 11 B3, 11 B4 cũng trong năm học 2018 -2019, tôi nhận thấy kết quả giờ học đã đổi thay rõ rệt. Cụ thể, những câu hỏi tôi đặt ra khi chưa thực hiện đề tài và khi thực hiện đề tài (như thống kê ở phần đầu SKKN) đã có kết quả là câu trả lời khác biệt. Sự thay đổi thể hiện rõ trong quá trình theo dõi giờ học khi thực hiện giáo án thử nghiệm: - Về tâm lí, thái độ: Học sinh từ ít hứng thú với giờ văn ... sang háo hức, thích thú - Về nhận thức: Từ chưa thấy được giá trị của việc học giờ văn, chỉ quan tâm đến điểm số, chỉ chú ý các bài học để kiểm tra... sang quan tâm đến những giá trị khác ngoài văn bản, thấy được cái hay cái đẹp trong thế giới của sự sống. Học sinh thấy rõ việc học một tác phẩm không chỉ học để biết, mà học để sống, để rèn luyện. - Hành vi: Từ ngần ngại chờ đợi thầy cô giảng giải, phân tích, không vận dụng kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp sang tích cực tham gia các hoạt động xây dựng giờ học, chủ động thể hiện năng lực cá nhân qua việc bàn luận, nhận xét, đánh giá, sáng tạo, các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức, viết bài. Kết quả kiểm tra bài văn được tổ chức dạy học tích cực cũng thay đổi rõ rệt. Có thể so sánh kết quả của 11 B3, 11 B4 - các lớp khối C với chất lượng mặt bằng tương đối đồng đều ( khi chưa thực hiện giáo án thử nghiệm) - với lớp 11 B2 (khi thực hiện giờ dạy với giáo án thử nghiệm – tiết thao giảng) Lớp Sĩ số Kết quả bài kiểm tra bài những bài học văn hóa ứng 16 xử mà anh chị rút ra từ học chương trích Hạnh Phúc 11 B4 Đối chứng 11 B3 Đối chứng 11 B22 36 của một tang gia trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng Điểm giỏi Điểm khá Điểm tr.b Điểm yếu, kém 2 14 16 4 37 ( 5,5%) 1 (38,8%) 17 (44,5%) 10 24 (2,7%) 5 (45,9%) 14 (27%) 5 (20,1%) (58,8%) (20,1%) Thực (11%) 9 (24,3%) 0 nghiệm III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. Kết luận: Với những suy nghĩ và định hướng về cách dạy học từ một bài đọc cụ thể như đã trình bày ở trên, tôi nhận thấy việc học văn với các em không quá khó, quá nhọc nhằn. Việc dạy văn, “học văn trở thành niềm vui chiếm lĩnh sự sống chứ không phải gánh nặng trau dồi tri thức”.Tiếp cận văn bản từ các góc nhìn văn hóa, đạo đức để dạy cho học trò không chỉ hiểu biết mà còn nuôi dưỡng trưởng thành, vận dụng trong cuộc sống là nhiệm vụ rất đặc biệt của dạy học văn. Tất nhiên, phải biết vận dụng tốt các phương pháp dạy học. Ở bài học này, tôi đã vận dụng tốt các phương pháp dạy học, các thiết bị cần thiết, các kiến thức liên môn vừa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới, đảm bảo nguyên lí học đi đôi với hành, vừa phát triển được năng lực cá nhân theo hướng bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc và rèn kĩ năng nói, viết, giao tiếp một cách linh hoạt. Dạy đọc – hiểu một văn bản theo đặc trưng thể loại, vận dụng tích hợp các kiến thức, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đặc biệt là hình thức tổ chức thảo luận Socratic phát huy tư duy phản biện đem lại hứng thú khám phá cho người học là nỗi niềm trăn trở của đại đa số những ai đã sống với nghiệp văn chương, không chỉ là tôi. Tôi tin, các thầy cô giáo đứng trước mỗi bài học đều có cách thức, phương pháp để đem đến sức hấp dẫn và hiệu quả cao nhất cho bài dạy mà mục đích là đem đến cho học sinh những giá trị tích cực nhất để sống, để làm người đúng nghĩa. Đề tài của tôi không phải là bước đột phá hay độc đáo, nhưng nó là kinh nghiệm dạy học mà tôi rút ra cho chính mình, với mong muốn đem đến những thay đổi trong cảm xúc và nhận thức của học sinh ở giờ học văn trong bối cảnh hiện nay. 2. Kiến nghị: 2.1. Với giáo viên: Với mỗi văn bản, giáo viên có thể linh hoạt trong cách tổ chức giờ đọc hiểu và sáng tạo trong thiết kế giáo án, không nên áp dụng máy móc, cứng nhắc 17 các phương pháp tránh gây ra sự phản cảm cho việc tiếp nhận tri thức thẩm mĩ ở học sinh. Giáo viên cần khuyến khích, đồng hành để học sinh tự tin hơn, biết phản biện các vấn đề học tập và trong cuộc sống. Để cách làm này được thành công, giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn cần có một lộ trình cụ thể và kiên trì thực hiện. Có làm được như thế thì học sinh mới có đủ tự tin và mạnh dạn phản biện để bộ môn Ngữ văn ngày càng thu hút hơn, thực sự là phương tiện ngôn ngữ để học sinh tự tin và biết phản biện cho tất cả các môn học khác. 2.2. Với các cấp quản lí giáo dục: - Trường học nên mua thêm các sách tham khảo về đổi mới phương pháp dạy học, các tài liệu chuyên ngành chuyên sâu để phục vụ tốt công tác dạy và học - Cần sớm thay đổi chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn theo hướng thiết thực, hiệu quả hơn, hướng đến phát triển năng lực người học và phẩm chất người học - Nhà trường cần quan tâm hơn đến công tác này. Trên đây là một số đề xuất của chúng tôi. Đề tài còn nhiều hạn chế, mong nhận được sự góp ý, xây dựng của đồng nghiệp để được phát triển khoa học hơn, có tính khả thi cao hơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 26 tháng 6 năm 2020 TÔI XIN CAM KẾT KHÔNG COPY Nguyễn Thị Hằng 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất bản Giáo dục 2. Sách giáo viên Ngữ văn 11 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất bản Giáo dục 3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 11, Nxb Giáo dục. 4. Tài liệu Skkn phát huy khả năng phản biện của học sinh thpt trong dạy học văn ( Nguồn Internet) 5. Phan Trọng Luận ( chủ biên), Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo Dục Việt Nam. 6. Trần Đình Sử, Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn, 7. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục. 8. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Quốc gia Hà Nội 9. Phát triển tư duy phản biện trong dạy học văn qua hình thức thảo luận Socratic ( Nguồn Internet) 10. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn THPT Nguyễn Thúy Hồng Nguyễn Quang Ninh, Nhà xuất bản Giáo Dục 2008 11. Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường Nguyễn Huy Quát - Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo Dục- 2001. 12. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa- Lê Nguyên Cẩn – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Phụ lục đính kèm Giáo án điện tử Hạnh Phúc của một tang gia 19 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hằng Chức vụ và đơn vị công tác: TPCM, giáo viên giảng dạy. SÁNG KIẾN NGHIỆM Trường THPTKINH Lê Hồng Phong. TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại (Ngành GD cấp huyện/tỉnh; Tỉnh...) Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C) Năm học đánh giá xếp loại 1. Ứng dụng CNTT, tích hợp Ngành GD Tỉnh C 2014-2015 TÊN ĐỀ TÀI KTLM vào dạy đọc hiểu một HƯỚNG HỌC văn bảnDẪN văn học nước SINH ngoài: TIẾP CẬN VĂN BẢN ĐỌC VĂN Tại lầu Hoàng Hạc tiến CỦA MỘT TANG GIA – TRÍCH SỐ TIẾT 2 HẠNH PHÚC Nhiên đi Quảng ĐỎMnahj - VŨHạo TRỌNG PHỤNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VÀ Lăng. BÀI HỌC ỨNG XỬ 2. Rèn luyện một số kĩ năng Ngành GD Tỉnh C 2016-2017 thực hành về biện pháp tu từ Tiếng Việt: Thực hành một số phép tu từ ngữ âm 3. 4. Tích hợp kiên thức Địa lí Lịch Ngành GD Tỉnh B sử Công dân và văn hóa địa phương vào đọc hiểu văn bản Tuyên Ngôn Độc Người lập. số thực hiện: Nguyễn Thi Hằng 1112QĐ/ SGD&ĐT Chức vụ: TPCM, Giáo viên giảng dạy Vận dụng kĩ thuật dạy học Ngành GD Tỉnh C SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn tích cực để khai thác và rèn luyện tư duy, kĩ năng phản biện của người học trong một bài đọc văn: “ Tỏ lòng” Phạm Ngũ lão 2016-2017 2018-2019 THANH HOÁ NĂM 2019 -2020 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất