Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hướng dẫn học sinh thpt rút ra bài học nhận thức trong giờ học nghị luận về một ...

Tài liệu Hướng dẫn học sinh thpt rút ra bài học nhận thức trong giờ học nghị luận về một hiện tượng đời sống (2016)

.PDF
82
179
50

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THÀNH LĂNG HƯỚNG DẪN HỌC SINH THPT RÚT RA BÀI HỌC NHẬN THỨC TRONG GIỜ HỌC NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn Người hướng dẫn khoa học TS. PHẠM KIỀU ANH HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, TS. Phạm Kiều Anh - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn của mình tới các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và các bạn sinh viên trong nhóm khóa luận đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2016 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thành Lăng LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo Phạm Kiều Anh. Tôi xin cam đoan: - Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi. - Các tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. - Kết quả khóa luận chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thành Lăng DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CH Câu hỏi GD & ĐT Giáo dục và đào tạo GV Giáo viên HS Học sinh NXB Nhà xuất bản NLXH Nghị luận xã hội SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TP Thành phố XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6 5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6 6. Đóng góp của khóa luận ......................................................................................7 7. Bố cục của khóa luận ...........................................................................................7 NỘI DUNG ................................................................................................................8 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ................................8 1.1. Những vấn đề chung về bài học nhận thức ...................................................8 1.2. Những cơ sở lí luận của giáo dục học và tâm lí học .....................................8 1.2.1. Cơ sở giáo dục học .................................................................................8 1.2.2. Cơ sở tâm lí học ....................................................................................11 1.3. Những cơ sở lí luận của nghị luận về một hiện tượng đời sống .................12 1.3.1. Khái niệm nghị luận về một hiện tượng đời sống .................................12 1.3.2. Đặc trưng cơ bản của dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống .........................................................................................................................13 1.4. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................15 1.4.1. Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” ở trường THPT ....................................................................15 1.4.2. Đánh giá chung .....................................................................................19 CHƯƠNG 2. DẠY HỌC BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG KẾT HỢP VỚI HƯỚNG DẪN HỌC SINH RÚT RA BÀI HỌC NHẬN THỨC .......................................................................................................20 2.1. Mục đích của việc dạy bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” .........20 2.2. Bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” trong SGK Ngữ văn 12 ........20 2.2.1. Cấu trúc bài học....................................................................................20 2.2.2. Những kiến thức và kỹ năng cần đạt trong bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” ..............................................................................................21 2.3. Cơ sở của việc hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức con người học sinh trong bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” ....................................24 2.4. Xác định nội dung kiến thức có thể rút ra bài học nhận thức cho học sinh THPT trong giờ “Nghị luận về một hiện tượng đời sống”.................................25 2.4.1. Rút ra bài học nhận thức cho học sinh khi phân tích ngữ liệu ............. 25 2.4.2. Rút ra bài học nhận thức cho học sinh khi liên hệ bản thân ................ 28 2.4.3. Rút ra bài học nhận thức cho học sinh khi thực hiện các bài luyện tập .......... 29 2.5. Quy trình dạy bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” có kết hợp việc hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức .....................................................32 2.5.1. Sử dụng câu hỏi để kiểm tra bài cũ ...................................................... 33 2.5.2. Giới thiệu bài mới ................................................................................. 34 2.5.3. Hướng dẫn học sinh tham gia bài học thông qua hệ thống câu hỏi ..... 35 2.5.4. Hướng dẫn học sinh rút ra kết luận ...................................................... 37 2.5.5. Thực hành ............................................................................................. 37 CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ......................................................40 3.1. Mục đích thực nghiệm .................................................................................40 3.2. Đối tượng thực nghiệm................................................................................40 3.3. Địa bàn thực nghiệm ...................................................................................41 3.4. Thời gian thực nghiệm ................................................................................41 3.5. Nội dung thực nghiệm .................................................................................41 3.6. Kết quả thực nghiệm ...................................................................................54 KẾT LUẬN ..............................................................................................................58 TÀI LIỆU THAM KHẢO CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, tích hợp đã và đang tiếp tục được quán triệt và áp dụng vào đổi mới giáo dục phổ thông. Làm văn là một trong “tam vị nhất thể” của môn Ngữ văn. Mục đích của việc dạy học phân môn này ở trường phổ thông là giúp cho các em biết tạo lập các kiểu văn bản thiết yếu, phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống của từng cá nhân. Theo đó, khi vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học phân môn này, GV có nhiều điều kiện để củng cố và mở rộng cho HS những kiến thức, kỹ năng có liên quan, tránh được những vướng mắc dư thừa chồng chéo nội dung khi dạy Đọc hiểu văn bản, Tiếng Việt. Hiện nay, cùng với quan niệm học văn là học những điều cơ bản về cuộc sống để có thể trở thành người công dân có ích của xã hội, nhiều nội dung kiến thức, kỹ năng của Làm văn đã được trình bày theo hướng gắn liền với thực tế cuộc sống. NLXH - trong đó có nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng được triển khai với dụng ý đó. 1.2. Đạo đức là một phạm trù rộng lớn và trừu tượng trong cuộc sống xã hội. Nó được coi là thước đo đánh giá giá trị, nhân cách của con người. Để vươn tới sự hoàn thiện trước hết con người phải vươn lên về đạo đức. Văn kiện Hội nghị lần thứ IX, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã đánh giá một trong những mặt hạn chế yếu kém trong lĩnh vực giáo dục như sau: Trong sự nghiệp giáo dục toàn diện dạy làm người và dạy nghề là yếu kém nhất, giáo dục về lý tưởng sống, phẩm chất đạo đức yếu. HS thiếu hiểu biết về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc của Đảng về quyền lợi nghĩa vụ công dân, chất lượng giáo dục còn buông lỏng, nhất là giáo dục đạo đức lối sống của HS, sinh viên có nhiều biểu hiện rất đáng lo ngại. Nhà tâm lý học Vũ Kim Thanh từng cho rằng: Nếu không có sự quan tâm đúng mức, chúng ta sẽ mất cả một thế hệ. Nhận định trên đã khẳng định việc giáo dục đạo đức HS thông 1 qua các môn học trong nhà trường là cần thiết. Vì thế, bên cạnh việc trang bị cho HS hệ thống kiến thức và những kỹ năng cơ bản, GV còn phải quan tâm tới việc hướng dẫn các em biết rút ra những bài học nhận thức đã học để ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày. Với những nội dung kiến thức có tính thực tiễn cao như NLXH, trong quá trình dạy học, GV có thể phối hợp cung cấp kiến thức, kỹ năng và cả giáo dục HS thông qua những bài học nhận thức. 1.3. Khi dạy học, GV phải hướng tới ba nhiệm vụ cơ bản là kiến thức, kỹ năng và thái độ. Đó cũng là tiền đề để hình thành và phát triển năng lực người học. Vì thế, chúng ta cần tìm ra những hình thức để giáo dục thái độ, nhận thức cho HS trong từng bài học, từng nội dung học tập giúp các em trở thành những con người không chỉ có tài mà còn có cả đức, để các em trưởng thành và là người có ích cho xã hội. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Hướng dẫn học sinh THPT rút ra bài học nhận thức trong giờ học Nghị luận về một hiện tượng đời sống”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu dạy học bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” Bắt nguồn từ nhu cầu của cuộc sống, của xã hội và quay trở lại phục vụ cuộc sống xã hội, văn nghị luận có vai trò to lớn đối với mỗi con người. Cũng bởi thế, các nhà nghiên cứu đã dành nhiều sự quan tâm và nghiên cứu về kiểu văn bản này. Các nhà khoa học khi nghiên cứu về văn nghị luận đều khẳng định: Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) sử dụng lí luận, bao gồm lí lẽ, dẫn chứng, trình bày những ý kiến của mình để làm rõ một vấn đề nào đó, qua đó thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin theo những ý kiến đó. Văn nghị luận bao gồm nghị luận văn học và NLXH. 2 Xét riêng về NLXH, chúng ta có thể nhận thấy đó là một dạng của văn bản nghị luận, nó hướng tới mục đích là bàn luận về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người nhằm tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong đời sống xã hội. Cũng bởi thế, đối tượng được bàn luận trong đó khá rộng lớn. Đó có thể là những câu chuyện, những lời nói, những hành động, việc làm của những con người trong cuộc sống hàng ngày; đó cũng có thể là những quan điểm sống, những vấn đề, hiện tượng xoay quanh cuộc sống con người trong xã hội. Trong chương trình Ngữ văn, Nghị luận về một hiện tượng đời sống được triển khai dạy từ THCS và THPT. Theo đó, đã có một số nhà khoa học nghiên cứu về việc dạy học kiểu bài này, có thể kể tới những công trình như: Các tác giả: Đỗ Ngọc Thống, Phạm Minh Hiếu, Nguyễn Thành Thi trong cuốn Làm văn có đánh giá về văn bản NLXH. Ở đây, các tác giả đã chỉ ra phạm trù của NLXH đó là: Nghị luận chính trị; nghị luận đạo đức, tư tưởng; nghị luận hiện tượng đời sống xã hội. Bên cạnh đó, trong cuốn sách này các tác giả cũng lưu ý một số điểm khác nhau khi làm đề văn NLXH với nghị luận văn học, giữa nghị luận về một hiện tượng đời sống với nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Tuy nhiên, các tác giả chưa nêu ra cách dạy học hiệu quả cho dạng bài nghị luận này một cách cụ thể. Nhóm tác giả Nguyễn Trọng Hoàn trong cuốn Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở cũng chỉ ra cách phân loại căn cứ vào nội dung bài học sẽ có các loại sau: nghị luận chính trị (đề tài là các vấn đề chính trị), nghị luận xã hội (đề tài là các vấn đề xã hội), nghị luận đạo đức (đề tài là các vấn đề đạo đức, nhân sinh quan), nghị luận văn học (đề tài là các vấn đề trong văn học)… Ở đây, tác giả tách nghị luận chính trị, nghị luận đạo đức thành kiểu bài riêng không nằm trong NLXH như các tác giả trong cuốn Làm văn. Dù phân chia như vậy, song các tác giả cũng đã đề cập đến sự khác nhau về đề tài của các kiểu bài và đặc trưng cơ bản của NLXH. Trong cuốn Rèn luyện kĩ năng văn nghị luận của Bảo Quyến, tác giả cũng đã bàn về văn nghị luận. Theo Bảo Quyến, văn nghị luận cũng được phân làm hai loại: 3 Nghị luận văn học và NLXH. Trong văn NLXH lại bao gồm nhiều dạng khác nhau như: Nghị luận đạo đức, tư tưởng; nghị luận về một hiện tượng đời sống… Tuy nhiên, cuốn sách này cũng chưa bàn luận nhiều tới việc dạy học văn nghị luận, trong đó có nghị luận về một hiện tượng đời sống. Cũng bàn đến phương pháp dạy học kiểu bài nghị luận, trong cuốn Hướng dẫn chương trình SGK lớp 12 môn Ngữ văn, các tác giả đã nêu ra quy trình dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Theo đó, quy trình dạy học kiểu bài này gồm các bước (Bước 1: Tìm hiểu đề, xác định yêu cầu đề bài; Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý; Bước 3: Xây dựng dàn ý; Bước 4: HS thảo luận để rút ra cách làm và sau đó đọc phần Ghi nhớ; Bước 5: Luyện tập thực hành). Như vậy, cho đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn về văn nghị luận nói chung và nghị luận về một hiện tượng đời sống nói riêng. Đa phần các công trình nghiên cứu đó mới chỉ đề cập đến các bước làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống hay những cách hiểu chung chung về kiểu bài này. Trong khi đó, việc giáo dục đạo đức HS nhằm mục đích giáo dục HS cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ giúp các em có sự phát triển toàn diện cả về nhận thức và nhân cách dường như chưa được chú trọng. 2.2. Lịch sử nghiên cứu dạy học bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” có kết hợp với việc hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức Bàn về vấn đề giáo dục nhận thức về đạo đức, con người HS, có thể kể tới một số công trình như: TS. Phạm Thị Kim Anh trong Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 38 (99) tháng 5 - 2014, khi bàn về Đạo đức học sinh đang thách thức năng lực giáo dục của người thầy, đã đề cập đến vấn đề giáo dục con người HS. Trong phần mở đầu, TS. Phạm Thị Kim Anh viết: Trong những năm gần đây nhiều câu chuyện buồn liên tiếp xảy ra như: trò tạt cả chậu axít vào người thầy vì không được nâng điểm thi, kiện lại thầy vì bị phạt hít đất trong giờ thể dục (ở Thành phố Hồ Chí Minh); rút dây nịt quất vào đầu, vào mặt thầy giáo đến khi ngất xỉu chỉ vì thầy gọi giám thị mời trò ra 4 khỏi lớp do đánh cờ, la ó trong giờ học (ở An Giang); lao vào đánh hội đồng khi bị thầy tát (ở Bình Định),… để thầy bị sa thải và còn biết bao trường hợp chặn đánh thầy giữa đường, ngang nhiên thách thức lại thầy cô giáo, hỗn láo với thầy cô trong giờ học,… đang làm dư luận xã hội dậy sóng và làm dấy lên nhiều câu hỏi: “Phải chăng đã đến thời thầy phải sợ trò”. Những biểu hiện trên cho thấy chúng ta cần phải chú trọng, quan tâm tới giáo dục đạo đức, nhân cách và lối sống của thanh thiếu niên, trong đó có HS. Hiện nay, cùng với nhiệm vụ đổi mới toàn diện giáo dục, Bộ GD & ĐT đã xác định dạy học các tri thức khoa học phải hướng tới nhiệm vụ hình thành năng lực, các tri thức cũng phải gắn liền với thực tế để các em có thể có những trải nghiệm sáng tạo; hình thành con người HS toàn diện ở các phương diện trí, thể, mĩ để các em trở thành những công dân có ích cho xã hội. Với tinh thần trên, có thể thấy việc dạy và học các phân môn, trong đó có cả dạy học những tri thức Làm văn đều có thể gắn với mục đích giáo dục nhân cách HS. Tuy nhiên, trên thực tế, khi khảo sát và tìm hiểu các công trình nghiên cứu việc dạy học Làm văn nói chung, Làm văn nghị luận trong đó có dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, chúng tôi nhận thấy các công trình đó chưa chú trọng tới giáo dục đạo đức, nhân cách cho HS mà mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn HS biết cách tích hợp kiến thức và kỹ năng để tạo lập văn bản. Đây chính là những gợi dẫn để chúng tôi triển khai đề tài này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng đến các mục đích sau: - Hệ thống những cơ sở khoa học khi dạy học một nội dung kiến thức trong chương trình Ngữ văn THPT có hướng tới việc giáo dục HS thông qua những bài học nhận thức. - Bước đầu đề xuất những hình thức hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức nhằm giáo dục nhân cách các em. 5 - Góp phần nhỏ bé vào việc tìm ra những cách tổ chức hoạt động dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống đạt hiệu quả. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, khóa luận tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Tổng hợp những tri thức cơ bản về bài học nhận thức, về nghị luận xã hội. - Khảo sát cơ sở thực tiễn của đề tài. - Nêu ra cách vận dụng những kiến thức để giáo dục con người HS trong giờ Nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Bước đầu kiểm chứng tính khả thi của những đề xuất được nêu ra. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khoá luận tập trung tìm hiểu cách hướng dẫn HS rút ra những bài học nhận thức trong giờ học làm văn nghị luận xã hội nhằm mang tới cho các em những hiểu biết, những suy nghĩ, nhận thức để hình thành những con người có ích cho xã hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Gắn với nội dung đề tài, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài là bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, được dạy cho HS lớp 12 - THPT. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chính sau: 5.1. Phương pháp thống kê Phương pháp này được sử dụng để phân loại và phân tích kết quả khảo sát thực trạng của HS trước khi tiến hành thực nghiệm. 5.2. Phương pháp hệ thống hoá Sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hoá các tri thức, lí thuyết về tích hợp, về các kỹ năng viết bài văn NLXH trong SGK Ngữ văn 12. 6 5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu Phương pháp này sử dụng khi tiến hành so sánh các dạng bài NLXH nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu trong đề tài. 5.4. Phương pháp thực nghiệm Phương pháp này được sử dụng khi tổ chức thực nghiệm để chứng minh tính khả thi của thiết kế, từ đó rút ra kết luận chung, cần thiết cho những đề xuất được nêu ở chương 2. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận đi sâu vào việc hướng dẫn cho HS THPT rút ra bài học nhận thức trong giờ Nghị luận về một hiện tượng đời sống nhằm hướng tới việc giáo dục nhân cách HS ngoài việc trang bị tri thức. Đồng thời, góp phần nhỏ bé vào việc tìm ra những cách tổ chức hoạt động dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống đạt hiệu quả. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của khóa luận được triển khai cụ thể thành 3 chương: - Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn - Chương 2. Dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống kết hợp với hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức - Chương 3. Thực nghiệm sư phạm 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Những vấn đề chung về bài học nhận thức Trong quá trình giáo dục, mỗi môn học có nhiệm vụ giáo dục con người HS ở những phương diện cụ thể. Theo đó, khi tiến hành hoạt động dạy học, dựa vào các nội dung học tập mà GV hướng dẫn HS tìm ra những bài học nhận thức cho cuộc sống. Đây là một việc làm quan trọng bởi bài học nhận thức là điều kiện cần thiết để giúp các em phát triển thái độ và nhân cách bản thân, biết đánh giá đúng mình trong mối quan hệ với con người và môi trường xung quanh. Thông qua bài học nhận thức, HS có cơ hội khám phá và phát triển kinh nghiệm thiết yếu nhằm phục vụ cho chính cuộc sống của các em. Vậy, thế nào là bài học nhận thức trong quá trình giáo dục? Hiểu một cách đơn giản nhất, bài học nhận thức chính là những bài học, những tri thức cụ thể được rút ra sau một quá trình chiếm lĩnh tri thức. Thông qua hoạt động nhận thức của chủ thể HS, các em rút ra được những kinh nghiệm, những hiểu biết về thực tế cuộc sống. Qua đó các em biết nhìn nhận, biết tự đánh giá về bản thân trong các mối quan hệ về xã hội. Như vậy, có thể nói trong quá trình giáo dục, việc hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức là một hoạt động cơ bản, giúp con người có điều kiện để hình thành và phát triển nhân cách bản thân. Muốn việc làm này đạt hiệu quả, khi hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức, GV đóng vai trò vô cùng quan trọng. GV phải là những người nhiệt huyết, cởi mở, biết lắng nghe những tâm sự và mong muốn của HS. 1.2. Những cơ sở lí luận của giáo dục học và tâm lí học 1.2.1. Cơ sở giáo dục học Mục đích của giáo dục xét đến cùng là đào tạo con người nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của xã hội. Về cơ bản, công việc giáo dục thực chất là công 8 việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhân cách HS. Hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức trong quá trình giáo dục chính là việc làm nhằm hình thành, phát triển và bồi dưỡng nhân cách của các em. C. Mác nói: Bản chất của “con người đặc thù” là “phẩm chất xã hội”. Bởi: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội của con người [20, tr. 197]. Với quan niệm trên, có thể nhận thấy nhân cách không phải là cái bẩm sinh, có sẵn. Nó được hình thành và phát triển thông qua quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của chủ thể. Các nhà khoa học xác định quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người phụ thuộc vào các nhân tố sau đây: Thứ nhất, di truyền. Di truyền không quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân nhưng nó lại là tiền đề vật chất, là cơ sở sinh học cho sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Thừa hưởng những đặc tính di truyền tốt từ thế hệ trước là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của một nhân cách. Vì thế, chúng ta cần biết tận dụng tốt yếu tố di truyền để đạt đến sự phát triển đỉnh cao. Thứ hai, giao tiếp. Thông qua quá trình giao tiếp, con người lĩnh hội nhiều nguồn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng… từ người khác, đồng thời điều chỉnh, thay đổi bản thân cho phù hợp với những yêu cầu của của xã hội. Chính vì thế, giao tiếp giúp cá nhân tăng trưởng về lượng để biến đổi về chất trong quá trình phát triển nhân cách. Thứ ba, môi trường. Đây là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách. Con người sống không thể tách rời môi trường. Yếu tố này có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân ở các phương diện như môi trường tự nhiên, môi trường gia đình, môi trường xã hội (đặc biệt là nhóm và tập thể). Trong đó, gia đình là môi trường đầu tiên có vai trò định hướng tới nhân cách của con người. 9 Thứ tư, giáo dục. Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Thông qua hoạt động giáo dục, cá nhân được tác động có mục đích, có phương pháp và có kế hoạch để thay đổi theo những chuẩn mực, giá trị xã hội quy định. Tuy nhiên, giáo dục không phải là chiếc chìa khóa vạn năng có thể mở mọi cánh cửa đã bị khóa chặt. Muốn phát triển nhân cách, khả năng tự giáo dục cũng là yếu tố quan trọng. Thứ năm, hoạt động của cá nhân. Loài người phát triển, hoàn thiện và tiến hóa như hiện nay chủ yếu nhờ vào hoạt động. Có thể nói, hoạt động là phương thức tồn tại của loài người, nó cũng là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng cá nhân. Không chỉ có vậy, nó còn phản ánh tính tích cực trong nhân cách con người. Vì thế, để hoàn thiện về nhân cách, cá nhân phải tích cực, chủ động tham gia các hoạt động của nhóm và cộng đồng. Trong quá trình phát triển nhân cách con người HS, giáo dục nhận thức và đạo đức HS có ý nghĩa không nhỏ. Nó giúp cho HS từ những tri thức khoa học cơ bản, biết vận dụng vào quá trình tự suy nghĩ, đánh giá đúng sai, phải trái, biết soi lại mình và cũng biết bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình. Từ đó, các em sẽ tự điều chỉnh hành vi, cách cư xử sao cho đúng đắn, phù hợp trong các mối quan hệ với người khác, biết hướng cuộc sống của mình vào những mục tiêu cao cả. Làm văn là một phần kiến thức và kỹ năng quan trọng, HS được học từ Tiểu học đến THPT. Bản chất của Làm văn là giúp cho HS biết cách tạo lập những kiểu văn bản mà con người thường sử dụng trong đời sống hàng ngày. Theo đó, khi trình bày những vấn đề của cuộc sống, con người cũng cần phải biết thể hiện những suy nghĩ, nhận thức, tình cảm, thái độ và chính kiến của bản thân về cuộc sống. Văn bản nghị luận, trong đó có NLXH được giới thiệu trong chương trình cũng nhằm mục đích trên. Có thể nói, hướng dẫn HS tạo lập văn bản NLXH trước hết là giúp cho các em biết và có những kỹ năng thiết yếu tạo lập một kiểu văn bản được con người sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa, gắn với những vấn đề thuộc về đời sống xã hội, trong quá trình tạo lập văn bản, người tạo lập bao giờ 10 cũng phải thể hiện nhận thức và chính kiến của bản thân. Như vậy, khi bàn luận các vấn đề của đời sống xã hội, người tạo lập ít nhiều đều phải thể hiện bóng dáng con người mình. Bởi lẽ, trước những đề bài NLXH, HS phải thể hiện những hiểu biết, thái độ của bản thân về các vấn đề đạo lí, hiện tượng cuộc sống, nhân cách con người. Cũng thông qua đó, HS có thể phát triển ý thức tự trao đổi, xây dựng cho mình một nhân cách tốt đẹp, hình thành cho mình những phẩm chất tốt theo đúng yêu cầu của xã hội hiện đại, biết tạo cho mình những cách ứng xử hợp tình, hợp lí và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện sống cụ thể của mỗi cá nhân. Đó là quá trình giáo dục và tự giáo dục nhằm trang bị một hành trang thực tế sống thiết yếu để các em có thể tự tin bước vào đời. 1.2.2. Cơ sở tâm lí học Lứa tuổi HS THPT thuộc giai đoạn đầu trong quá trình trưởng thành. Đây là giai đoạn phát triển khá ổn định về thể chất và tâm lí, không có những biến động hay thay đổi về tâm sinh lý như ở giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, con người có nhiều nét tâm lí mới được hình thành và phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhân cách nói chung của các em như tình yêu nam nữ, vị trí trong gia đình và xã hội, tính tích cực, năng động trong hoạt động xã hội, khả năng tự ý thức phát triển mạnh, tâm thế coi mình là người lớn, muốn tự khẳng định mình, thế giới quan ngày càng hoàn thiện, khát vọng thành đạt kéo theo ý thức về việc chọn lựa nghề nghiệp tương lai và khả năng tập trung, nỗ lực phấn đấu để đạt được mục tiêu… Có thể nói, HS THPT có sự phát triển khá hoàn thiện cả về tâm lý, sinh lý và khả năng tư duy trừu tượng, khả năng khái quát cao. Không chỉ vậy, khả năng độc lập vận dụng những hiểu biết của bản thân vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống cũng được các em phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc hướng dẫn các em rút ra những bài học nhận thức khi học Làm văn NLXH. 11 1.3. Những cơ sở lí luận của nghị luận về một hiện tượng đời sống 1.3.1. Khái niệm nghị luận về một hiện tượng đời sống Xung quanh chúng ta hàng ngày có biết bao chuyện, sự việc hoặc hiện tượng tốt, xấu xảy ra. Trước những hiện tượng đời sống ấy, con người luôn đưa ra những lời bàn luận, đánh giá nhằm mục đích nhận thức và phản ánh được sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan. Khi bàn luận, dù người nói (người viết) bàn luận về vấn đề nào thì chúng cũng thuộc kiểu văn bản NLXH về một hiện tượng đời sống. Như vậy, hiểu một cách khái quát, nghị luận về một hiện tượng đời sống là một dạng bài sử dụng phương thức lập luận nhằm bàn định các vấn đề về hiện tượng đời sống để cho người đọc (người nghe) hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu để đồng tình hay phản đối trước những hiện tượng đó. Nói cách khác, nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội. Sự việc, hiện tượng đó có thể là đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ. Ví dụ sau đây chính là một văn bản nghị luận về một hiện tượng đời sống. Bệnh lề mề Trong đời sống hiện nay có một hiện tượng khá phổ biến, mọi người đều thấy, nhưng thường bỏ qua. Đó là bệnh lề mề mà coi thường giờ giấc là một biểu hiện [...] Cuộc sống văn minh hiện đại đòi hỏi mọi người phải tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với nhau. Những cuộc họp không thật cần thiết thì không nên tổ chức. Nhưng những cuộc họp cần thiết thì mọi người cần tự giác tham dự đúng giờ. Làm việc đúng giờ là tác phong của người có văn hoá. (Theo phụ lục 1, Phương Thảo - Theo SGK Ngữ văn 9, tập 2, Tr. 20, NXB Giáo dục) Trong bài viết trên, tác giả đã đưa ra những lời bàn bạc trước một hiện tượng hết sức phổ biến trong đời sống hàng ngày - đó là sự chậm chạp, lề mề ở một số người. Hiện tượng này đã trở thành một thói quen và lâu dần trở thành “căn bệnh”, của một bộ phận không nhỏ trong xã hội. Sau khi nêu lên vấn đề cần bàn luận là hiện tượng “bệnh lề mề”, người viết đã chỉ ra những biểu hiện (coi thường giờ giấc, đến muộn so với giờ hẹn,...) và nguyên nhân (thiếu trách nhiệm, không coi trọng 12 việc chung; thiếu tự trọng, không tôn trọng người khác). Thông qua giải thích, phân tích, người viết tỏ rõ thái độ phê phán đối với hiện tượng lề mề, xem đây như một thứ bệnh gây tác hại đối với sự tiến bộ của xã hội, và từ đó rút ra giải pháp khắc phục căn bệnh này. Cách thực hiện bàn luận vấn đề như vậy thực chất là người viết đã tạo lập một văn bản nghị luận về một hiện tượng đời sống. 1.3.2. Đặc trưng cơ bản của dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống 1.3.2.1. Nghị luận về một hiện tượng đời sống có phạm vi đề tài rộng Nghị luận về một hiện tượng đời sống là dạng văn bản mà ở đó đối tượng được bàn luận là những vấn đề, những hiện tượng trong đời sống hàng ngày. Có thể nhận thấy, những vấn đề của đời sống xã hội rất đa dạng, phong phú, biểu hiện ở nhiều mức độ, tính chất khác nhau. Đó có thể là một việc làm, một lời nói, một hành động, một sự kiện nào đó của một cá nhân hay của xã hội. Đó còn có thể là những hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội như văn hoá phong tục, tập quán, đạo đức... Do vậy, đề tài của nghị luận về một hiện tượng đời sống có phạm vi hết sức rộng rãi. Ngữ liệu dưới đây là một minh chứng cho dạng văn bản này. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ta hiện nay Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra […] Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi. (Theo phụ lục 2, Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường) Bài viết trên đây đã bàn về một hiện tượng đang được mọi người trong xã hội quan tâm, đó là: Ô nhiễm môi trường sinh thái. Cụ thể, tác giả bài viết đã chỉ rõ thực trạng ô nhiễm môi trường sinh thái là do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra. Từ việc chỉ rõ nguyên nhân, tác giả bài viết cũng đã nêu ra những tác hại của việc ô nhiễm môi trường ấy gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống của con người. Qua ví dụ trên, ta có thể nhận thấy phạm vi bàn 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan