Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hướng dẫn học sinh ôn luyện để đọc hiểu môn ngữ văn thpt...

Tài liệu Hướng dẫn học sinh ôn luyện để đọc hiểu môn ngữ văn thpt

.DOCX
21
58
117

Mô tả:

MỤC LỤC Phần I II III Tên đề mục Mở đầu 1.Lí do chọn đề tài. 2.Mục đích nghiên cứu. 3.Đối tượng nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Những điểm mới của đề tài. Nội dung 1. Cơ sở lí luận. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 3. Một số giải pháp ôn luyện đề đọc hiểu. 3.1. Hệ thống lí thuyết đọc hiểu. 3.2. Phân biệt mức độ khó dễ của đề. 3.3. Xác đinh trọng tâm của đề dựa vào các từ khóa, vế câu. 3.4. Phân loại câu hỏi quen thuộc thành từng nhóm và một số mẹo nhỏ tiết kiệm thời gian khi làm bài. 3.5. Tiếp cận những câu hỏi lạ. 3.6. Cách diễn đạt, trình bày, định lượng câu trả lời và phân chia thời gian làm bài. 3.7. Hướng dẫn học sinh giải đề minh họa. Kết luận 1. Kết luận. 2. Đề xuất. 3. Lời cảm ơn. Tài liệu tham khảo. Trang 2 3 3 3 3 4 4 5 5 6 7 8 14 14 15 19 19 19 20 1 PHẦN I. MỞ ĐẦU. 1. Lí do chọn đề tài. 1.1. Hiện nay, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đang là yêu cầu bức thiết của toàn xã hội. Trong nghị quyết 29 –NQ/TW tại hội nghị lần thứ 8, Đảng ta đã nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Những năm qua, Bộ giáo dục và đào tạo (GD & ĐT) đã không ngừng đưa ra những giải pháp mang tính cải tiến như: đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hóa các hình thức học cho học sinh…đặc biệt là thay đổi hình thức ra đề thi. Từ năm 2014, đề thi THPT đã có sự thay đổi căn bản theo hướng đánh giá năng lực học sinh ở mức độ phù hợp. Ngày 01/04/2014, Bộ GD & ĐT đã gửi công văn số 1656/ BGDĐT – KTKĐCLGD về việc tổ chức hướng dẫn tổ chức thi THTP năm 2014, trong đó có nội dung: đề thi Ngữ văn có hai phần đọc hiểu và làm văn. Đề thi tập trung đánh giá hai kĩ năng quan trọng của học sinh: đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Trước những yêu cầu mới của đề thi Ngữ văn, giáo viên và học sinh đều phải có những đổi mới trong cách dạy và học để thích ứng. 1.2. Câu hỏi đọc hiểu là hình thức kiểm tra khá mới mẻ với học sinh. Dạng đề này đòi hỏi ở thí sinh khả năng nắm bắt nhanh nhạy và triển khai vấn đề gọn gàng, đầy đủ, có trọng tâm trong một thời gian ngắn. Đây là điều không hề dễ dàng. Đọc hiểu là phần quan trọng chiếm tỉ lệ 3/10 điểm trong đề thi. Phần này không mang tính chất phân loại thí sinh nhiều nhưng lại đảm bảo mức điểm cơ bản cho một bài thi. Có thể nói, đây là cơ hội gỡ điểm cho thí sinh. Nếu các phần còn lại học sinh làm tốt nhưng mất điểm phần đọc hiểu, bài làm cũng chỉ đạt khoảng 6,0 điểm. Ngược lại, nếu làm tốt phần đọc hiểu, cơ hội đạt điểm trung bình trở lên của thí sinh là rất khả quan. Do đó, việc chú trọng vào kĩ năng giải đề đọc hiểu là vô cùng cần thiết. 1.3. Hiện nay, những tài liệu chuyên sâu hướng dẫn ôn luyện kiểu đề đọc hiểu vẫn chưa nhiều. Trong SGK Ngữ văn THPT vẫn chưa có một bài học riêng dành cho phần này mà chỉ có một số tiết học hỗ trợ rải rác ở các khối lớp như: Văn bản, Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, (Ngữ văn 10, tập 1), Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, Thực hành một số biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ (Ngữ văn 10, tập 2), Phong cách ngôn ngữ chính luận, Thực hành về nghĩa của từ trong sử dụng ( Ngữ văn 11 – tập 1), Phong cách ngôn ngữ khoa học (Ngữ văn 12, tập 1) … Đối với một hình thức thi còn mới mẻ, nguồn tư liệu tham khảo chưa phong phú, những quan điểm ra đề và giải đề lại không thống nhất dẫn đến việc 2 không ít giáo viên ôn thi THPT Quốc gia tỏ ra lúng túng khi hướng dẫn học sinh làm bài. Điều đó ảnh hưởng không ít đến kết quả bài làm của học sinh. 1.4. Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy, phần lớn học sinh khó đạt điểm tối đa trong quá trình giải đề đọc hiểu. Các em còn nhiều lúng túng trong cách tiếp cận đề bài và trả lời câu hỏi, đặc biệt là khi tiếp xúc với những cách hỏi lạ, những thuật ngữ mới. Đa phần học sinh có xu thế vận dụng máy móc lí thuyết đã học vào thực hành, chưa có khả năng nhận biết vấn đề đúng, trúng, chưa trình bày đúng trọng tâm, còn lan man, xa đề. Trước thực tế đó, tôi đã trăn trở nhiều và tìm tòi, áp dụng một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kĩ năng giải đề đọc hiểu cho học sinh. Trong phạm vi đề tài này, tôi xin được trình bày một số giải pháp thể góp phần nâng cao kĩ năng luyện tập đọc hiểu môn Ngữ văn cho học sinh THPT. 2.Mục đích nghiên cứu: Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi hướng đến những mục đích sau: - Giúp học sinh nắm vững kiến thức lý thuyết liên quan đến câu hỏi đọc hiểu. - Học sinh có thể nhận diện và phân loại các câu hỏi đọc hiểu theo mức độ khó dễ và phạm vi kiến thức. - Học sinh có thể vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải các bài tập đọc hiểu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở THPT. - Gợi ra một vấn đề về phương pháp để cùng trao đổi, đánh giá với bạn bè, đồng nghiệp. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh thuộc các khối lớp mà tôi được phân công giảng dạy từ 9/2017 đến 5/2019. - Các dạng câu hỏi đọc hiểu và phương pháp ôn luyện. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học). - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: - Đề tài này đã hệ thống hóa cụ thể, chi tiết, tương đối đầy đủ từng dạng câu hỏi đọc hiểu và cách hướng dẫn học sinh giải từng dạng đề. 3 PHẦN II. NỘI DUNG. 1.Cơ sở lí luận: Đọc hiểu là kĩ năng cơ bản của người học để tiếp nhận tri thức, lĩnh hội văn hóa. Sinh thời, giáo sư Hoàng Tuệ xem đó là "kĩ năng của người có văn hóa", "kĩ năng lao động của con người", phải có kĩ năng ấy, "con người mới có thể tham gia vào hoạt động lao động của xã hội hiện đại". Đọc là dùng mắt để nhận biết các kí hiệu, chữ viết, phát ra âm thanh để truyền đạt thông tin đến người nghe và dùng trí óc để lưu lại những nội dung đó. Hiểu là nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, thấy được mối liên hệ giữa chúng và vận dụng các kiến thức đó vào thực tiễn đời sống. Đọc hiểu là nắm bắt thông tin kết hợp với năng lực tư duy và biểu đạt. Trong môn Ngữ văn ở nhà trường, đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nội dung ngữ nghĩa, những thông điệp nghệ thuật tác giả gửi gắm và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật. Đây là hoạt động đòi hỏi khả năng nhận biết, cảm thụ vấn đề nhanh nhạy, tinh tế và phát huy được tính sáng tạo của người học. Theo giáo sư Nguyễn Thanh Hùng "Đọc hiểu văn bản là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa văn bản”, "đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn của người đọc". Câu hỏi đọc hiểu là một phần không thể thiếu trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn. Phần này thường chiếm tỉ lệ 1/3 đề thi với mức điểm 3/10, gồm 04 câu, phân theo mức độ khác nhau từ dễ đến khó. Đề có thể cho một đoạn trích hoặc một văn bản trọn vẹn bằng văn xuôi hoặc thơ và đưa ra các yêu cầu cụ thể. Câu hỏi ngắn gọn, thường chỉ có 01 lệnh. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: Từ năm 2014 đến nay, khi Bộ GD & ĐT có những thay đổi đáng kể về đề thi. Đề đọc hiểu được vận dụng trong nhiều kì thi, dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở nhà trường, các thầy cô thường ra đề cho học sinh trong các bài kiểm tra 15 phút, 45 phút, các bài thi khảo sát chất lượng thường niên. Riêng tỉnh Thanh Hóa, trong năm học 2017 – 2018 đã áp dụng hình thức ra đề thi học sinh giỏi theo cấu trúc mới, trong đó câu hỏi đọc hiểu chiếm tỉ lệ 6/20 điểm. Tuy vậy, trong thực tiễn dạy học Ngữ văn ở các trường THPT, giáo viên rất trăn trở với việc ôn luyện đề đọc hiểu cho học sinh. Khó khăn lớn nhất đối với thầy và trò môn Ngữ văn là nguồn tư liệu tham khảo, là những định hướng mang tính thống nhất. Phần lớn giáo viên và học sinh phải tham khảo đề và đáp án trên các trang mạng chưa chính thống. Các thầy cô ở các trường, các địa phương trao đổi, học hỏi phương thức ra đề và cách giải đề với nhau. Trong các đợt tập huấn cho giáo viên ôn thi quốc gia, nội dung này cũng thu hút sự quan tâm của nhiều người song cũng chỉ mới dừng lại ở mức thảo luận, trao đổi. Quan 4 điểm ra đề và giải đề ở từng giáo viên không giống nhau, dẫn đến việc đánh giá bài làm của học sinh còn nhiều khác biệt. Gần đây, một số cuốn sách hướng dẫn ôn luyện Ngữ văn thi THPT Quốc gia đã ra mắt bạn đọc, phần nào giải đáp nỗi băn khoăn của giáo viên và học sinh như: Hướng dẫn ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn, tác giả Lê Quang Hưng – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, cuốn Bộ đề luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn của tác giả Lê Quang Hưng, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016, Chiến thuật ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn chuyên đề đọc hiểu – nghị luận xã hội – Trịnh Văn Quỳnh – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2017. Gần đây nhất là cuốn Bộ đề luyện thi THPT Quốc gia năm 2020 môn Ngữ văn - Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam và cuốn Hướng dẫn ôn tập thi THPT Quốc gia năm 2020 môn Ngữ văn – Trần Thị Mĩ Dung (chủ biên) - NXB Đại học sư phạm TPHCM năm 2020. Tuy nhiên, các tài liệu trên phần lớn chỉ có đề và đáp án mà không có hướng dẫn cụ thể, chi tiết, có tính hệ thống về lí thuyết và cách giải đề đọc hiểu, hỗ trợ thiết thực cho hoạt động dạy và học ở nhà trường. Từ thực tiễn giảng dạy với những khó khăn trên, tôi nhận thấy, bản thân cần phải có những tìm tòi, hệ thống một cách đầy đủ, khoa học về những nội dung liên quan đến câu hỏi đọc hiểu. 3. Một số giải pháp ôn luyện đề đọc hiểu: Trong phạm vi đề tài này, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả ôn luyện đề đọc hiểu. 3.1. Hệ thống lí thuyết đọc hiểu. Một phần không thể thiếu trong đề đọc hiểu là các câu hỏi về kiến thức tiếng Việt và văn học. Trong mỗi đề thi, những câu hỏi này chiếm tỉ lệ từ 1 đến 2 câu, với mức điểm từ 0,5 đến 1,0 điểm. Hầu hết những câu hỏi này đều dừng lại ở mức nhận biết. Để trả lời được kiểu câu này, học sinh cần được trang bị những kiến thức cơ bản về tiếng Việt và văn học như: các phương thức biểu đạt, các thao tác lập luận, các phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu từ, các thể thơ, các hình thức trình bày đoạn văn, phương thức trần thuật, ngôi kể… Tôi thường dạy học sinh theo từng đơn vị kiến thức, giúp các em nắm được khái niệm, đặc điểm, thể loại, phạm vi sử dụng... Để học sinh có thể ghi nhớ dễ dàng kiến thức lí thuyết, tôi thường xuyên kiểm tra bài cũ, yêu cầu các em tái hiện lại các nội dung cần thiết. Trong quá trình chữa đề, tôi kết hợp hỏi lại kiến thức tiếng Việt để các em nhớ lại và vận dụng. Ngoài ra, tôi còn yêu cầu học sinh kẻ bảng hoặc vẽ sơ đồ tư duy cho từng đơn vị kiến thức. Cách làm này giúp các em dễ dàng nắm được lí thuyết mà không thấy nhàm chán, đơn điệu. 5 Ví dụ 1: Bảng hệ thống kiến thức về các thao tác lập luận. Các thao tác lập luận Khái niệm, đặc điểm. 1. Giải thích Cắt nghĩa, làm rõ nội hàm của đối tượng. 2. Phân tích. Chia nhỏ vấn đề thành nhiều khía cạnh, phương diện để xem xét, đánh giá. 3. Chứng minh. Dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm nổi bật vấn đề. 4. Bình luận. Bàn bạc, nhận xét, đánh giá vấn đề. 5. So sánh. Đối chiếu hai đối tượng cùng loại hoặc cùng tiêu chí. 6. Bác bỏ Trao đổi, tranh luận để phản bác lại quan điểm sai lầm. Ví dụ 2: Sơ đồ tư duy về các biện pháp tu từ. Hoán dụ (khái niệm, tác dụng) Chơi chữ Nhân hóa Điệp từ So sánh Ẩn dụ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ. Nói giảm, nói tránh Phóng đại Tương phản, đối lập Đảo ngữ Câu hỏi tu từ Học sinh có thể trình bày sơ đồ của mình, chi tiết hoặc sơ lược trước lớp và nhắc lại khái niệm, tác dụng của từng biện pháp. 3.2. Phân biệt mức độ khó dễ của đề. Trong đề thi Ngữ văn, câu hỏi đọc hiểu thường được sắp xếp theo các mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Tôi thường hướng dẫn học sinh nhận diện mức độ khó dễ của đề để có cách làm phù hợp và phân lượng thời gian làm bài hợp lí. Đối với những câu hỏi dễ như nhận biết, học sinh phải làm nhanh, tiết kiệm thời gian nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, đặc biệt là các câu hỏi về kiến thức tiếng Việt hoặc các câu lấy ngữ liệu trong văn bản.Với câu hỏi ở mức 6 thông hiểu, học sinh cũng không nên làm quá dài, chỉ tập trung vào các nội dung trọng tâm. Còn ở các câu hỏi vận dụng, học sinh có thể đầu tư thời gian nhiều hơn, tìm được những phương án trả lời hiệu quả. Ví dụ: Đọc đoạn trích dưới đây và thực hiện các yêu cầu: “Ta hỏi một con chim: Ngươi cần gì? Chim trả lời: Ta cần bay. Một con chim được ăn kê béo trong lồng sẽ trở thành con gà bé bỏng tội nghiệp và vô dụng. Ta hỏi một dòng sông: Ngươi cần gì? Sông trả lời: Ta cần chảy. Một dòng sông không chảy sẽ trở thành vũng nước khô cạn dần rồi biến mất. Ta hỏi một con tàu: Ngươi cần gì? Con tàu trả lời: Ta cần được ra khơi. Một con tàu không ra khơi chỉ là vật biết nổi trên mặt nước và sẽ chìm dần theo thời gian. Ta hỏi một người: Ngươi cần gì? Con người trả lời: Ta cần được lao động trong sáng tạo. (Trích Những câu hỏi không lãng mạn – Nguyễn Quang Thiều) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính đoạn trích trên. (mức độ nhận biết) Câu 2: Anh/chị hiểu như thế nào về ý nghĩa của các hình ảnh: con chim, con tàu, con sông? (mức độ thông hiểu) Câu 3: Anh/chị có đồng tình với quan điểm Một con chim được ăn kê béo trong lồng sẽ trở thành con gà bé bỏng tội nghiệp và vô dụng không? Tại sao? (mức độ vận dụng) Câu 4: Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất với anh/chị? (mức độ vận dụng) 3.3. Xác định trọng tâm của đề dựa vào các từ khóa, các vế câu. Một trong những nguyên tắc quan trọng khi giải đề đọc hiểu là “hỏi gì, đáp nấy”. Tuy nhiên, nhiều học sinh thường viết lan man, xa đề. Nguyên nhân chính là do các em chưa xác định rõ trọng tâm của câu hỏi, không nắm được vấn đề chính mình sẽ trả lời là gì. Bởi vậy, việc hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của câu hỏi là rất cần thiết. Trong quá trình ôn luyện, tôi thường hướng dẫn học sinh xác định đề dựa vào các từ khóa, các vế trong câu hỏi. Yêu cầu chính của đề bài thường tập trung ở các từ ngữ, vế câu quan trọng. Đó là chìa khóa, giúp học sinh giải quyết đề bài. Việc hiểu những tín hiệu ngôn ngữ này giúp các em trả lời đúng hướng, không lạc ý. Học sinh có thể gạch chân dưới các từ ngữ này để phân tích đề. Ví dụ: Trong đề đọc hiểu về trích đoạn Những câu hỏi không lãng mạn của Nguyễn Quang Thiều vừa nêu ở mục 3.2 (trang 7), tôi hướng dẫn học sinh xác định đề như sau: Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính đoạn trích trên. Câu hỏi trên yêu cầu học sinh nêu phương thức biểu đạt chính, nghĩa là chỉ cần nêu một phương thức nổi bật. Học sinh có thể căn cứ vào đặc điểm ngôn 7 ngữ của đoạn trích (kể về một cuộc đối thoại giữa tác giả và các sự vật, đối tượng) hoặc kết hợp với phương pháp loại trừ để tìm ra phương thức biểu đạt phù hợp (tự sự). Câu 2: Anh/chị hiểu như thế nào về ý nghĩa của các hình ảnh: con chim, con tàu, con sông? Từ khóa gợi ý cho câu trả lời là những từ ngữ in đậm. “Hiểu như thế nào về ý nghĩa”, tức là đề yêu cầu học sinh phải giải thích, cắt nghĩa các hình ảnh: con chim, con tàu, con sông trong văn bản. Các em phải nêu được nghĩa trực tiếp và nghĩa hàm ẩn của các hình ảnh trên, gắn với ý nghĩa của văn bản. Câu 3: Anh/chị có đồng tình với quan điểm Một con chim được ăn kê béo trong lồng sẽ trở thành con gà bé bỏng tội nghiệp và vô dụng không? Tại sao? Câu hỏi trên yêu cầu học sinh bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến được nêu trong đề (từ khóa là: có đồng tình không, con chim được ăn kê béo trong lồng, con gà bé bỏng tội nghiệp và vô dụng). Câu hỏi gồm hai yêu cầu, gắn với hai vế: nêu quan điểm và lí giải tại sao. Tuy nhiên, việc lí giải cần gắn với ý nghĩa của đoạn trích. Nếu chỉ dừng ở lập luận về tập tính của loài chim là chưa đủ mà phải gắn với thông điệp về con người. Đây mới là điều mà tác giả muốn gửi gắm trong văn bản. 3.4. Phân loại câu hỏi quen thuộc thành từng nhóm và một số mẹo nhỏ tiết kiệm thời gian khi làm bài. Trong mỗi đề đọc hiểu thường có những câu hỏi quen thuộc. Tuy nhiên, để học sinh có được kĩ năng giải đề thành thạo, tôi thường chia các câu hỏi này thành nhóm và hướng dẫn học sinh cách trả lời cho từng dạng cụ thể. 3.4.1. Nhóm 1: Câu hỏi nhận biết liên quan đến kiến thức tiếng Việt và văn học. Những câu hỏi này thường yêu cầu học sinh xác định phương thức biểu đạt, biện pháp tu từ, phong cách ngôn ngữ, thao tác lập luận, thể thơ, các kiểu đoạn văn, các đơn vị cú pháp, đề tài, phương thức trần thuật, ngôi kể…Để làm tốt kiểu câu này, học sinh phải trang bị cho mình kiến thức lí thuyết đầy đủ, chắc chắn. Tôi cũng hướng dẫn học sinh một số mẹo nhỏ để tiết kiệm thời gian khi làm bài như sau: * Đối với trường hợp đề có các từ: chủ yếu, chính, những, các, một số… học sinh cần đọc kĩ để nêu một hoặc nhiều đơn vị kiến thức. Các em chỉ nêu mà không cần lí giải tại sao. * Khi xác định phương thức biểu đạt, học sinh có thể dùng phương pháp loại trừ, nếu đáp án này không chắc chắn, chọn đáp án khác thích hợp hơn. * Khi xác định phong cách ngôn ngữ, học sinh có thể dựa vào thể loại hoặc nguồn trích dẫn văn bản và đặc điểm ngôn ngữ của văn bản. 8 Ví dụ: - Nhật kí, thư, hồi kí… thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt; thơ,truyện… thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. - Văn bản trích từ các trang báo mạng thuộc phong cách ngôn ngữ báo chí. * Khi xác định thể thơ, cách đơn giản nhất là đếm số câu, số tiếng ở một số phần của văn bản. * Khi xác định biện pháp tu từ, có thể dựa vào một số dấu hiệu về hình thức để xác định nhanh như: - Phép so sánh thường có các từ ngữ so sánh: như, là, bằng, hơn… - Phép ẩn dụ thường có các từ ngữ hàm ẩn. - Phép điệp thường có các từ ngữ, kiểu câu lặp lại. * Khi xác định các kiểu đoạn văn, học sinh có thể dựa vào các câu chủ đề: - Câu chủ đề đứng ở đầu đoạn: đoạn diễn dịch. - Câu chủ đề ở cuối đoạn: đoạn quy nạp. - Đoạn văn có hai câu chủ đề: đoạn tổng phân hợp. - Đoạn văn không có câu chủ đề: đoạn móc xích hoặc song hành. 3.4.2. Nhóm 2. Những câu hỏi nhận biết lấy ngữ liệu từ văn bản. Đối với những câu hỏi này, tôi thường lưu ý học sinh về dấu hiệu nhận diện qua các cụm từ quen thuộc như: vì sao tác giả cho rằng; trong đoạn trích, tác giả đã khẳng định; tìm các từ ngữ, hình ảnh … Cách làm đơn giản với những câu hỏi này là trích dẫn nguyên văn phần ngữ liệu thích hợp vào bài làm. Nếu ngữ liệu quá dài, học sinh có thể tóm tắt ngắn gọn và diễn đạt theo cách của mình, tuy nhiên phải đảm bảo nội dung chính. Các em cần chọn lọc các từ ngữ, hình ảnh, câu văn để trả lời, không trích dẫn thừa ngữ liệu. 3.4.3. Nhóm 3. Câu hỏi thông hiểu. Dạng câu hỏi này thường yêu cầu học sinh giải thích ý nghĩa hình ản, từ ngữ, ý kiến hoặc nêu nội dung chính của văn bản, có khi nhận xét về thái độ, hành vi được nêu ra trong văn bản, nêu tác dụng của biện pháp tu từ… Tôi thường lưu ý học sinh về dấu hiệu nhận biết của dạng câu hỏi này thông qua các cụm từ quen thuộc: anh/chị hiểu thế nào, hãy cắt nghĩa, hãy nêu nội dung chính của văn bản, thông điệp chính mà tác giả gửi gắm trong văn bản 9 là gì, nêu cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, nêu thái độ của người viết, phân tích giá trị của biện pháp tu từ… Để trả lời dạng câu hỏi này, tôi trang bị cho học sinh một số mẹo nhỏ như sau: - Khi giải thích ý nghĩa của hình ảnh, từ ngữ, câu văn trong văn bản, học sinh nên đặt ngữ liệu vào văn cảnh cụ thể. Các em có thể huy động các từ cùng trường nghĩa để làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm. Học sinh cần chú ý đến nội dung ngữ nghĩa và nội dung hàm ẩn của khái niệm, có thể đi từ giải thích cụ thể đến giải thích khái quát nếu cần. - Khi xác định nội dung chính của văn bản, học sinh cần căn cứ vào câu chủ đề, các từ khóa (thường lặp lại trong văn bản ở những vị trí khác nhau)… để thâu tóm vấn đề. Đối với các thể loại mang tính chủ quan như: thơ, nhật kí, hồi kí…, học sinh cần chú ý đến tình cảm, thái độ của người viết. - Khi nêu tác dụng của biện pháp tu từ, học sinh cần đặt ngữ liệu vào văn cảnh cụ thể, gắn với chủ đề của văn bản để thấy rõ giá trị của biện pháp đó ở phương diện nội dung. Ngoài ra, các em cũng cần nêu giá trị của biện pháp tu từ ở phương diện nghệ thuật. Hầu hết các biện pháp tu từ thường tạo cách diễn đạt sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn. Giáo viên cần lưu ý học sinh về một số biện pháp tu từ có tác dụng đặc biệt về hình thức như: phép điệp thường tạo tính nhạc; nói quá, chơi chữ thường tạo cách nói ấn tượng… Ví dụ: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Chúng ta thường đặt mục tiêu cho một nghề nghiệp cụ thể vì ấn tượng với thành tích của những người xuất sắc nhất trong ngành nghề đó. Tham vọng của chúng ta có thể hình thành từ sự ngưỡng mộ dành cho người kiến trúc sư đã dựng nên một sân bay mới tuyệt đẹp cho thành phố, hay từ việc theo dõi những cuộc giao dịch liều lĩnh và bạo dạn của một nhà quản lý vốn giàu có nhất Wall Street, từ việc đọc những phân tích của một tiểu thuyết gia văn học nổi tiếng hay thưởng thức các món ăn đậm đà hương vị tại nhà hàng do một đầu bếp từng đoạt giải mở. Chúng ta thường xây dựng những kế hoạch nghề nghiệp của mình dựa trên sự hoàn hảo. Sau khi được những bậc thầy này truyền cảm hứng, chúng ta tự đi những bước đầu tiên và khó khăn bắt đầu từ đây. Những gì chúng ta cố gắng thường rơi vào dưới mức chuẩn so với những gì đã nhen nhóm lên tham vọng ban đầu. Chúng ta bị mắc kẹt trong một nghịch lý khó chịu: trong khi những tham vọng của chúng ta được đốt lên bởi sự vĩ đại, ưu tú, thì tất cả những điều chúng ta nhận thức về bản thân lại chỉ ra thể hiện một sự kém cỏi từ bẩm sinh. Chúng ta đã rơi vào cái bẫy của chủ nghĩa cầu toàn… Và càng ngày quan điểm của 10 chúng ta trở nên bấp bênh vì chúng ta hiểu quá rõ những dằn vặt nội tâm, trong khi vẫn phải nhìn thấy những câu chuyện thành công trông có vẻ là không hề có chút khó khăn đớn đau nào đang nhan nhản xung quanh. Chúng ta tiếp tục không tha thứ cho bản thân mà chưa một lần nhìn thấy hết những “bản nháp thất bại” của những người chúng ta ngưỡng mộ. Chúng ta cần có một bức tranh đúng mực hơn về những khó khăn ẩn sau mọi điều chúng ta mong muốn vươn tới. Chúng ta cần công nhận vai trò chính đáng và thiết yếu của sự thất bại, và cho phép bản thân làm việc một cách không toàn vẹn trong một thời gian – điều này giống như cái giá phải trả để có một cơ hội làm điều mà một ngày nào đó, trong nhiều thập kỷ nữa, người khác nhìn vào sẽ cho rằng là thành công chớp nhoáng. (Dẫn theo http://tramdoc.vn/) Câu 1. Theo tác giả, tham vọng nghề nghiệp của chúng ta hình thành từ đâu? Câu 2. Xác định nội dung chính của văn bản. (Câu hỏi thông hiểu) Câu 3. Anh (chị) hiểu như thế nào về cụm từ bản nháp thất bại được nhắc đến trong bài viết. (Câu hỏi thông hiểu) Câu 4. Anh/chị có đồng tình với ý kiến Chúng ta cần công nhận vai trò chính đáng và thiết yếu của sự thất bại không? Tại sao? Trong đề bài trên, câu 2 và câu 3 là những câu hỏi thông hiểu quen thuộc. Học sinh có thể vận dụng những mẹo nhỏ đã nêu để trả lời như sau: Câu 2. Văn bản nêu lên mâu thuẫn giữa tham vọng nghề nghiệp và năng lực của mỗi người. Chúng ta thường ngưỡng mộ những người tài giỏi và mong muốn có được thành tích xuất sắc như họ nhưng khả năng mỗi người lại hạn chế. Vì thế, khi thực hiện, ta dễ gặp thất bại. Bạn không nên đặt ra những mục tiêu quá sức mình và hãy coi thất bại như cái giá để có được thành công. Câu 3. Bản nháp thất bại là những sai lầm, vấp ngã con người đã trải qua trước khi gặt hái thành công. Cũng giống như muốn viết bài văn, ta phải có quá trình viết nháp để chỉnh sửa mới đi đến bản chuẩn cuối cùng, có thể bạn đã gặp thất bại nhiều lần nhưng nó giúp bạn nhìn lại mình, tự học hỏi, rút kinh nghiệm để có kết quả tốt nhất. Vậy nên trước khi làm một việc nào đó, chúng ta cần chuẩn bị những điều kiện cần thiết và sẵn sàng chấp nhận thất bại, nếu điều đó xảy ra. 3.4.4. Nhóm 4. Câu hỏi vận dụng. 11 Kiểu câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải vận dụng sáng tạo kiến thức và kĩ năng để giải đề. Trong các dạng đề đọc hiểu thì đây là dạng có yêu cầu cao và thường đạt mức 1,0 điểm, học sinh phải đầu tư cả về thời gian lẫn trí tuệ. Tôi thường hướng dẫn học sinh tiếp cận một số trường hợp thường gặp và cách trả lời câu hỏi như sau: * Đối với kiểu câu nêu thông điệp, có thể xảy ra các trường hợp: + Nếu đề yêu cầu nêu các (hoặc những) thông điệp trong văn bản, học sinh có thể nêu vài bài học nhưng chỉ chọn một bài học tâm đắc và lí giải . Do thời gian ngắn và dung lượng câu trả lời hạn chế, học sinh nên sử dụng lối viết “lấy điểm vẽ diện” đối với trường hợp này. + Đối với câu nêu thông điệp có ý nghĩa nhất trong văn bản, học sinh cần lựa chọn thông điệp gắn với nội dung chính của văn bản và không trùng lặp với vấn đề trong các câu hỏi khác. Các em có thể trích dẫn nguyên văn một ý kiến trong văn bản hoặc rút ra một vấn đề và diễn đạt theo cách của mình. Câu trả lời thường có hai phần: phần nêu thông điệp và phần lí giải tại sao. Học sinh cần lí giải phù hợp, có cơ sở chắc chắn, chỉ chọn những lí lẽ trọng tâm, tránh lan man, diễn giải dài dòng. Ví dụ: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu. Sự phát triển của mạng xã hội cũng đồng nghĩa với việc chúng ta dành nhiều thời gian cho đời sống ảo hơn đời sống thực. Thay vì đi ra ngoài gặp gỡ làm quen với những người khác bạn lại thích online trên các mạng xã hội và đọc tin tức lướt web giải trí … Đồ dùng công nghệ cao như smartphone, Iphone, iPad… giúp bạn kết nối internet mọi lúc mọi nơi ngay cả khi đang đi trên xe buýt tàu hỏa tạo điều kiện cho sự gắn kết với thế giới ảo ngày càng thường trực hơn, đồng nghĩa với việc khoảng cách xã hội cũng ngày càng giãn cách. Điều này khiến bạn ít va vấp thực trong quá trình giao tiếp trực tiếp. Thói quen giao tiếp dần dần bị loại bỏ, bạn không còn phản xạ linh hoạt để ứng xử và nói năng nữa. Dần dần kỹ năng giao tiếp của bạn trở nên hạn chế và do đó bạn ngày càng ít giao tiếp hơn. Bạn trở nên em ngại với việc giao tiếp thực tế , trở nên nhút nhát thụ động khi nói chuyện mặt đối mặt. (Theo Kina. vn - Nhút nhát của giới trẻ - nguyên nhân và cách khắc phục). - Câu hỏi: Nêu thông điệp có ý nghĩa nhất trong văn bản? - Trả lời: Thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích là hãy sử dụng Internet hợp lí. Hiện nay Internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Chúng ta không thể phủ nhận những tiện ích mà nó mang lại cho con người như: nắm bắt thông tin nhanh hơn, kết nối rộng khắp, quảng bá thương 12 hiệu dễ dàng… Tuy nhiên, nếu lạm dụng Internet, con người dễ suy yếu về sức khỏe, sa sút tinh thần và ngày càng chìm đắm trong thế giới ảo, xa rời đời thực. Vì vậy, mỗi người cần cân nhắc khi sử dụng nó để cân bằng cuộc sống. Đối với kiểu câu lựa chọn: anh/chị có đồng tình hay không đồng tình với quan điểm của tác giả hoặc anh/chị có suy nghĩ gì về ý kiến/vấn đề? học sinh cần nêu rõ quan điểm cá nhân và lí giải tại sao. Việc nêu quan điểm tùy thuộc vào từng cá nhân nhưng không nên tùy tiện phán xét, cần căn cứ vào những chuẩn mực đạo đức chung để nêu ra nhận xét phù hợp. Đối với những trường hợp học sinh nêu quan điểm "nước đôi", cần phân tích rõ từng khía cạnh tích cực và hạn chế của vấn đề. * Ví dụ: Câu 4. (trong đề đã nêu trang 11) Anh/chị có đồng tình với ý kiến Chúng ta cần công nhận vai trò chính đáng và thiết yếu của sự thất bại không? Tại sao? - Đáp án: Chúng ta cần công nhận vai trò chính đáng và thiết yếu của sự thất bại là quan điểm đúng đắn. Không ai thành công mà chưa từng thất bại. Có va vấp, chúng ta mới nhận ra sai lầm của mình, từ đó rút kinh nghiệm và tìm cách khắc phục. Thất bại là phép thử để ta nhận rõ giá trị của thành công. * Đối với kiểu câu nêu ý nghĩa của ý kiến/vấn đề, học sinh có thể làm theo nhiều cách khác nhau: rút ra thông điệp sâu sắc và lí giải, hoặc khẳng định quan điểm đúng hay phản bác và nêu lí do tại sao. Đây là câu hỏi mở, học sinh cần cân nhắc hướng bàn hợp lí. Ví dụ: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu. Sân vườn nhà tôi có bày những cái ghế đá, trên một trong những cái ghế ấy có khắc dòng chữ: “Cây kiên nhẫn đắng chát nhưng quả nó rất ngọt.” Nếu không có những giờ ngồi kiên trì từ ngày này qua ngày khác trong phòng suốt nhiều năm liền của những con người bền bỉ cống hiến như thế, chúng ta đã không có Hesman, One Piece, Sherlock Holmes, Tarzan, Doraemon. Không có sự bền bỉ, sẽ không có bất cứ thứ gì vĩ đại được sinh ra trên đời. Bóng đèn điện, định luật bảo toàn năng lượng, thuyết tương đối, máy bay và nhiều phát minh khác. Nếu không có những giờ kiên tâm hy sinh thầm lặng hay nhẫn nại làm việc của con người, nhân loại sẽ tổn thất biết bao. Hôm trước một anh bạn gửi cho tôi câu danh ngôn: “Những người đứng đầu trên thế giới đều là những người bình thường với ý chí phi thường.” Nên ta làm gì không quan trọng. Quan trọng là ta có làm cho đến khi ra được kết quả mong muốn hay không. Người ta thường nhấn mạnh tới việc sống phải có ước mơ, hoài bão nhưng theo tôi cái khó là kiên trì từng ngày vươn tới nó. (Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu, Rosie Nguyễn, NXB Nhã Nam, 2017- Trang 116) Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. 13 Câu 2. Anh chị hiểu thế nào về ý kiến: Người ta thường nhấn mạnh tới việc sống phải có ước mơ, hoài bão nhưng theo tôi cái khó là kiên trì từng ngày vươn tới nó? Câu 3. Việc tác giả liệt kê các nhân vật văn học nổi tiếng: Hesman, One Piece, Sherlock Holmes, Tarzan, Doraemon có tác dụng gì? Câu 4. Ý kiến Những người đứng đầu trên thế giới đều là những người bình thường với ý chí phi thường có ý nghĩa gì với anh, chị? Trả lời câu 4: Ý kiến Những người đứng đầu trên thế giới đều là những người bình thường với ý chí phi thường đem đến thông điệp giàu ý nghĩa: sống là phải có nghị lực mạnh mẽ. Mỗi người sinh ra đều có xuất phát điểm như nhau, không có ai trở thành thiên tài sau một đêm. Điểm khác nhau giữa người với người là nghị lực vươn lên vượt hoàn cảnh. Chỉ có nỗ lực không ngừng, con người mới có thể chinh phục vượt qua khó khăn, gian khổ và tạo ra kì tích, thậm chí trở thành “những người đứng đầu thế giới”. 3.5. Tiếp cận những câu hỏi lạ. Bên cạnh những câu hỏi quen thuộc, đề đọc hiểu sẽ xuất hiện những câu hỏi lạ. Các câu này thường gắn với vấn đề của từng đề. Tôi thường định hướng học sinh vận dụng những kinh nghiệm phân tích đề đã nêu một cách linh hoạt, ngoài ra phải biết gắn câu hỏi với ngữ cảnh cụ thể để tìm ra hướng trả lời chính xác. Ví dụ: Câu 3 (trong đề trích dẫn trang 14) là câu hỏi lạ. Câu hỏi gắn liền với những vấn đề cụ thể của đoạn trích, học sinh cần nêu rõ tác dụng của việc trích dẫn ở cả phương diện nội dung và hình thức. - Trả lời câu hỏi: Những cái tên Hesman, One Piece, Sherlock Holmes, Tarzan, Doraemon đã trở nên quen thuộc với bạn đọc thế giới. Để có được những cuốn sách hay, các nhà văn đã dốc hết tài năng và tâm huyết của mình, kiên trì sáng tạo. Liệt kê những nhân vật ấy, tác giả đã nêu ra những dẫn chứng thuyết phục cho bài viết và khẳng định ý nghĩa của sự bền bỉ trong cuộc sống. 3.6. Cách diễn đạt, trình bày, định lượng câu trả lời và phân chia thời gian làm bài. Ngoài tư duy sáng tạo, để làm tốt câu hỏi đọc hiểu, học sinh cũng cần có những kĩ năng thuần thục. Nhiều em không chú ý đến tiểu tiết nên thường mất điểm ở phần này. Trong quá trình ôn luyện cho học sinh, tôi thường định hướng cho các em về cách diễn đạt, trình bày, thời gian làm bài cụ thể để bài làm đạt hiệu quả như mong muốn: 14 - Chỉ dành từ 15 đến 20 phút để làm phần đọc hiểu, ưu tiên thời gian cho những câu hỏi vận dụng. - Không trả lời vắn tắt hoặc sử dụng văn nói (nhiều em thường quan niệm trả lời câu hỏi đọc hiểu như trả lời bài cũ trên lớp), nên viết thành câu, đoạn đầy đủ, đúng trọng tâm. - Nên chọn lối viết ngắn gọn, trúng vấn đề, huy động các câu chốt, từ khóa để nêu vấn đề, tránh lan man, dài dòng. - Tùy theo từng yêu cầu của đề bài nhưng không nên viết quá dài. Đối với những câu thông hiểu chỉ nên viết từ 5 đến 7 dòng, câu hỏi vận dụng nên viết từ 7 đến 10 dòng, cần linh hoạt theo từng câu hỏi. - Không nhầm lẫn trong cách diễn đạt giữa các dạng câu hỏi khác nhau. Kiểu câu nào đòi hỏi dùng thao tác gì thì nên diễn đạt làm rõ tính chất của thao tác đó. Ví dụ: trong câu hỏi “anh/chị hiểu thế nào”, học sinh không nên dùng những từ mang tính chất chứng minh, lập luận như: bởi vì... mà nên dùng các từ ngữ mang tính chất cắt nghĩ như: ý kiến trên bàn về, hình ảnh trên tượng trung cho...Ngược lại trong các câu hỏi nêu quan điểm đồng tình hay không đồng tình, học sinh nên dùng các từ: bởi lẽ... thay vì dùng các từ ngữ mang tính chất giải thích: nghĩa là, có thể hiểu... 3.7. Hướng dẫn học sinh giải đề minh họa. Trong phạm vi đề tài này, tôi xin nêu một đề đọc hiểu và hướng dẫn học sinh trả lời để minh chứng cho những giải pháp ở các phần trước. ĐỀ MINH HỌA Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu: Đàn bầu Đêm nằm ngoảnh mặt về Nam nghe rơi thẳm một tiếng đàn trong khuya Tiếng thơ ai mở lời kìa đàn bầu ai gảy tôi nghe đàn bầu Võng chành như chiếc thuyền câu đưa tôi trôi giữa nông sâu tiếng đàn bồng bềnh mạn nhặt mạn khoan thời gian có phím không gian có hình Đàn xưa ai tính ai tình một mình ai gảy một mình ai nghe ai người con gái vùng quê mê ai quá đỗi mà ghê tiếng đàn 15 Bây giờ cũng nhặt cũng khoan ngang trời ta bắc cầu sang với mình ai buông lửng một cái tình để ngân nga đến rung rinh lòng người Tôi mê người lắm người ơi cái tai thì cạn cuộc đời thì sâu lẩy lên đi hỡi đàn bầu những tâm tình ở đằng sau tâm tình (Trích từGhi chép Trường Sơn 1975 - Nguyễn Duy,Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1995). Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản. Câu 2. Nhà thơ đã cảm nhận được vẻ đẹp gì của tiếng đàn qua những câu thơ sau? Võng chành như chiếc thuyền câu đưa tôi trôi giữa nông sâu tiếng đàn bồng bềnh mạn nhặt mạn khoan thời gian có phím không gian có hình. Câu 3. Em hiểu thế nào về ý nghĩa của cụm từ “những tâm tình ở đằng sau tâm tình” ở câu thơ cuối? Câu 4. Nêu và phân tích giá trị của 01 biện pháp tu từ nổi bật trong bài thơ. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ Câu 1. Đối với câu hỏi này, tôi hướng dẫn học sinh căn cứ vào hai yếu tố để xác định phương thức biểu đạt: thể loại (thơ) và đặc điểm ngôn ngữ của văn bản (bộc lộ cảm xúc của người viết rất rõ nét). Đáp án: Phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản là biểu cảm. Câu 2. Ở câu này, tôi hướng dẫn học sinh gạch chân các từ biểu đạt sắc thái tiếng đàn trong đoạn thơ và căn cứ vào nội dung, ý nghĩa của đoạn để nêu ý nghĩa của chúng. Đáp án: Tiếng đàn trong khổ thơ có nhiều cung bậc khác nhau: nông, sâu, bồng bềnh, khoan nhặt…. Nó mở ra bước đi của thời gian và gợi mở những không gian sống động trước mắt người thưởng thức. Trôi trong âm sắc tiếng đàn, tâm hồn nhà thơ trải qua nhiều cảm xúc phong phú, mãnh liệt. Câu 3. Câu hỏi này yêu cầu giải thích ý nghĩa của cụm từ trong văn bản. Tôi hướng dẫn học sinh đặt câu thơ vào văn cảnh cụ thể để cắt nghĩa. Các em cần phân biệt sắc thái khác nhau của hai chữ “tâm tình” trong câu thơ. 16 Đáp án: “Những tâm tình ở đằng sau tâm tình” là tâm trạng của người chơi đàn và cảm xúc của người nghe đàn. Cả hai đã hòa quyện trong sự giao cảm tuyệt vời. Câu thơ nói lên sức truyền cảm kì diệu của tiếng đàn bầu. Nó có khả năng khơi gợi những rung động của người nghe, kết nối tâm hồn người nghệ sĩ và thính giả, tạo nên sự đồng điệu về cảm xúc. Câu 4. Với câu này, tôi hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí thuyết về biện pháp tu từ để trả lời câu hỏi. Học sinh cần nêu được tác dụng của biện pháp đó ở phương diện nội dung và hình thức. Học sinh có thể nêu 01 biện pháp tu từ tùy theo cách hiểu của mình. Đáp án: + So sánh: Võng chành như chiếc thuyền câu.. + Đối lập - tương phản: một mình ai gảy/ một mình ai nghe, cái tai thì cạn/ cuộc đời thì sâu… + Liệt kê: nhặt, khoan, nông, sâu… + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: âm thanh tiếng đàn qua liên tưởng như tiếng đàn có hình sắc đa dạng. Tác dụng: + Làm nổi bật chiều sâu và khả năng biểu cảm phong phú của tiếng đàn bầu. Đó cũng là một nét đẹp cao quý của tâm hồn người Việt, văn hóa Việt. + Tạo nên cách diễn đạt sinh động, gợi cảm, giàu hình ảnh. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Sáng kiến kinh nghiệm này giúp tôi có nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn về vai trò của đề đọc hiểu trong quá trình kiểm tra, đánh giá học sinh và sự cần thiết của việc tăng cường các biện pháp giáo dục hiệu quả nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp hiện nay. Việc tìm tòi, nghiên cứu các dạng đề đọc hiểu còn giúp giáo viên có nguồn tư liệu phong phú, hỗ trợ quá trình dạy học. Thông qua hướng dẫn của giáo viên, học sinh vừa có thể làm tốt các đề đọc hiểu vừa nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản nói chung. Các em đã tự tin hơn khi giải quyết các đề đọc hiểu, có phương pháp làm bài phù hợp, không còn lúng túng, nhầm lẫn khi làm các bài tập đọc hiểu như trước. Học sinh biết xác định trọng tâm của câu hỏi và diễn đạt, trình bày một cách ngắn gọn, đầy đủ, khoa học. Trong bối cảnh có nhiều thay đổi về cấu trúc đề thi trong thời gian qua, kết quả thi THPT Quốc gia của trường Nông Cống 1 vẫn giữ vững ở mức cao, thuộc những trường top đầu của tỉnh. Năm học 2017 – 2018, tỉ lệ học sinh đạt 17 điểm trung bình trở lên môn Ngữ văn chiếm 85%. Năm học 2018 – 2019, điểm trung bình môn Ngữ văn là 5.67, xếp thứ 15 toàn tỉnh. Dưới đây là khảo sát kết quả học tập của một số lớp trước và sau khi tôi vận dụng các phương pháp ôn luyện đề đọc hiểu cho học sinh năm học 2017 – 2018. Trước khi thực hiện: Lớp Sĩ số Dưới TB TB Khá, giỏi 10A1 45 11(24%) 26(58%) 8(18%) 10A2 43 13(30%) 20(47%) 10(23%) 10A3 43 15(35%) 21(49%) 7(16%) 11B2 42 12(28%) 23(55%) 7(17%) Lớp Sĩ số Dưới TB TB Khá, giỏi 10A1 45 8(18%) 25(55%) 12(27%) 10A2 43 10(23%) 20(47%) 13(30%) 10A3 43 11(26%) 22(51%) 10(23%) 11B2 42 9(22%) 22(52%) 11(26%) - Sau khi thực hiện: 18 PHẦN III. KẾT LUẬN. 1. Kết luận: Qua quá trình thực nghiệm, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm quý báu cho việc hướng dẫn học sinh ôn luyện đề đọc hiểu như sau: 1. Có thể áp dụng áp dạng câu hỏi trên có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh, ở nhiều cấp học. 2. Muốn nâng cao hiệu quả ôn luyện đề đọc hiểu học sinh cần kết hợp hài hòa giữa lí thuyết và bài tập. Giáo viên cần kết hợp linh hoạt, song song giữa kiểm tra lí thuyết cho học sinh và làm bài tập thực hành. Khâu thực hành sẽ củng cố lí thuyết nhanh hơn là ghi nhớ máy móc 3. Giáo viên nên chọn các dạng đề đọc hiểu đa dạng để học sinh có thể va chạm với nhiều cách hỏi khác nhau, từ đó chủ động, linh hoạt trong khi giải đề. 4. Bên cạnh yêu cầu học sinh hoạt động độc lập, giáo viên cũng có thể áp dụng hình thức hoạt động nhóm cho việc ôn luyện đề đọc hiểu, để học sinh trao đổi, rút kinh nghiệm đối với nhau, cùng nhau tiến bộ. Tuy nhiên, hình thức này nên vận dụng linh hoạt, có hiệu quả. 3. Đề xuất. - Tổ, nhóm chuyên môn nên tổ chức hoạt động trao đổi, rút kinh nghiệm về phương pháp ôn tập đề đọc hiểu cho học sinh và xây dựng ngân hàng đề đọc hiểu qua mỗi năm học. - SGK Ngữ Văn THPT hiện hành nên có thêm các tiết học về lí thuyết và thực hành, hỗ trợ cho học sinh trong quá trình ôn luyện đề đọc hiểu. 4. Lời cảm ơn: Đề tài này đã và đang trong thời gian nghiên cứu, còn nhiều hạn chế, bất cập. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, hội đồng khoa học của nhà trường và những thông tin phản hồi từ học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới BGH nhà trường, tổ chuyên môn, các bạn bè đồng nghiệp và học sinh ở nhiều khối lớp, nhiều khoá học trong những năm qua đã nhiệt tình quan tâm, hưởng ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này./ 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH. 1. Ba bộ sách giáo khoa và SGV Ngữ văn 10, 11,12 hiện hành – NXB Giáo dục. 2. Phương pháp dạy học văn – Phan Trọng Luận - NXB ĐH Quốc gia Hà Nội – 1999. 3.Hướng dẫn ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn, tác giả Lê Quang Hưng – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. 4. Bộ đề luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn của tác giả Lê Quang Hưng, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016 5. Bộ đề luyện thi THPT Quốc gia năm 2020 môn Ngữ văn - Đỗ Ngọc Thống chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 6. Chiến thuật ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn chuyên đề đọc hiểu – nghị luận xã hội – Trịnh Văn Quỳnh – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2017. 7. Hướng dẫn ôn tập thi THPT Quốc gia năm 2020 môn Ngữ văn – Trần Thị Mĩ Dung (chủ biên) - NXB Đại học sư phạm TPHCM năm 2020. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 3 tháng 6 năm 2020 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Phạm Ngọc Hà 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất