Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hướng dẫn học sinh giỏi lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài th...

Tài liệu Hướng dẫn học sinh giỏi lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một ý kiến nhận định

.DOC
21
367
91

Mô tả:

I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Đã từ lâu, việc bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi ở các khối lớp đã trở thành nhiệm vụ của đại đa số các trường THCS. Kết quả thi của các đội tuyển học sinh giỏi phần nào phản ánh chất lượng dạy và học của nhà trường. Dạy học môn Ngữ văn vốn đã nhiều vất vả, nhọc nhằn, dạy đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn càng nhọc nhằn, vất vả hơn. Mét khã kh¨n lín ®èi víi c¸c nhµ trêng lµ tÊt c¶ nh÷ng häc sinh cã n¨ng khiÕu ®Òu thÝch thi m«n tù nhiªn, không mấy em mặn mà với môn Ngữ văn. V× vËy viÖc chän häc sinh cã n¨ng khiÕu ®Ó båi dìng rÊt khã, sè lîng häc sinh th× Ýt mµ c¸c m«n thi l¹i nhiÒu. MÆt kh¸c, do nhËn thøc cña mét sè phô huynh l¹i kh«ng muèn cho con em m×nh tham gia ®éi tuyÓn V¨n cho nªn thêng th× nh÷ng häc sinh cã n¨ng khiÕu c¶ vÒ tù nhiªn vµ x· héi th× c¸c em l¹i kh«ng yªu thÝch vµ ham mª häc V¨n. Vµ ngîc l¹i, l¹i cã nh÷ng häc sinh rÊt thÝch häc V¨n nhng l¹i kh«ng cã n¨ng khiÕu vÒ v¨n ch¬ng. §iÒu nµy cã ¶nh hëng kh«ng Ýt ®Õn chÊt lîng cña ®éi tuyÓn V¨n. Những năm gần đây, hoà cùng dòng chảy đổi mới giáo dục, đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển toàn diện ở học sinh về kiến thức, kĩ năng, đề thi môn Ngữ văn lớp 9 nói chung, đề thi học sinh giỏi nói riêng có nhiều đổi mới. Trong cấu trúc đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh của Thanh Hóa những năm gần đây, kiểu bài nghị luận văn học thường chiếm ưu thế lớn (12/20 điểm cho dạng bài này). Nghị luận văn học bao gồm nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ luôn là một kiểu bài khó đối với học sinh lớp 9 nói chung và học sinh giỏi nói riêng, quyết định rất lớn đến kết quả chung của bài thi. Bởi lẽ đây là kiểu bài đòi hỏi cao sự hiểu biết về kiến thức, kĩ năng cả về văn học và xã hội trong một bài thi. Với đặc điểm đề văn như vậy, giáo viên bồi dưỡng và nhất là học sinh gặp nhiều khó khăn. Thực tế ấy đặt ra nhiều băn khoăn, trăn trở đối với giáo viên đứng đội tuyển. Trong bài nghị luận văn học, nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ nói chung và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định nói riêng luôn chiếm vị trí quan trọng trong đề thi học sinh giỏi các cấp. Song qua thực tế trải nghiệm tôi thấy trong khi viết bài nghị luận văn học nói chung, nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định trong mỗi kì thi học sinh giỏi các em còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả chung của toàn bài thi. Vì vậy trong đề tài, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp vấn đề “Hướng dẫn hoc sinh giỏi lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định” để mong tìm được giải pháp chung giúp học sinh viết bài tốt nhất, hiệu quả nhất trong mỗi kì thi học sinh giỏi. 2. Mục đích nghiên cứu: - Củng cố kĩ năng tạo lập văn bản, kĩ năng viết tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định, nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 9 và thi học sinh giỏi môn Ngữ văn của trường THCS . - Bồi đắp niềm tin, tình yêu thơ văn cho học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh đội tuyển học sinh giỏi lớp 9 THCS nhằm giúp các em làm tốt kiểu bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với viêc giải quyết một nhận định. 4. Phương pháp nghiên cứu: 1 - Điều tra khảo sát nắm bắt tình hình thực tế. - Tiến hành thực nghiệm trong quá trình dạy đội tuyển học sinh giỏi. - Dạy học trực quan (gắn lí thuyết và thực hành cụ thể). II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận 1.1. Đặc trưng của bài nghị luận về môt đoạn thơ, bài thơ Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ đó. Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu … Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố đó để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng; có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết. 1.2. Yêu cầu đối với học sinh giỏi khi viết bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Bên cạnh những yêu cầu kiến thức, kĩ năng cơ bản về viết bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ đối với bất kì một học sinh nào thì học sinh giỏi cần thêm những yếu tố sau: a. Về kiến thức - Nắm chắc, hiểu sâu, thấu đáo và toàn diện kiến thức tác phẩm: kiến thức văn học sử, tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật… Điều này tưởng như đơn giản và thừa đối với học sinh giỏi. Song đôi khi do sự chủ quan cũng có học sinh nắm chưa chắc kiến thức nên dễ hiểu sai, hiểu chưa đúng những nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật mà tác giả thể hiện nên dễ suy diễn lệch lạc. - Tích luỹ kiến thức về lý luận văn học trong những buổi bồi dưỡng của thầy cô. Đối với đối tượng là học sinh giỏi, được trang bị kiến thức lý luận văn học giúp học sinh có những bình luận, đáng giá, nhận xét chuẩn xác hơn về một hiện tượng văn học nào đó, bài viết của các em trở nên sâu sắc hơn về ý tưởng, chặt chẽ hơn về lập luận, thuyết phục hơn khi đưa ra luận cứ. Thực tế các kỳ thi học sinh giỏi cho thấy đề thi có liên quan đến kiến thức lý luận văn học chiếm một tỉ lệ khá lớn, dù với những dạng khác nhau. Có những đề thi yêu cầu trực tiếp kiến thức lý luận để giải quyết vấn đề, giải quyết một hiện tượng văn học. Có những đề thi yêu cầu vận dụng một tỉ lệ kiến thức lý luận nhất định… Vì vậy trong quá trình giải quyết vấn đề cần có kiến thức này để cho bài văn thêm vững vàng về luận điểm, chặt chẽ trong lập luận, từ đó sẽ có sức thuyết phục hơn. - Biết so sánh đối chiếu nét tương đồng và khác biệt giữa hai tác giả, tác phẩm ở cùng thời đại hoặc khác thời đại… Đây là kĩ năng khó. Vì vậy người viết không chỉ cần hiểu kĩ, hiểu sâu mà cần cả độ cảm nhận sâu sắc, tinh ý để thấy được điểm gặp gỡ tương đồng hay khác biệt ở các tác giả, tác phẩm. b. Về kĩ năng - Tổng hợp các kĩ năng nghị luận để lập luận chặt chẽ thuyết phục. - Xác định đúng vấn đề nghị luận (luận đề) và hệ thống luận điểm, luận cứ để có kết cấu bài rõ ràng, khoa học. Biết phân tích và đưa dẫn chứng tiêu biểu phù hợp với hệ thống luận điểm để nổi bật trọng tâm bài viết, tránh trùng lặp. (Có đề thì phân 2 tích bổ dọc tác phẩm, có đề phân tích bổ ngang tác phẩm, hoặc có đề chỉ lựa chọn một số chi tiết, hình ảnh, câu thơ câu văn tiêu biểu). - Kết hợp các phương pháp lập luận giải thích, chứng minh (chủ yếu) với đánh giá tổng hợp vấn đề, khả năng cảm thụ, khám phá các giá trị của tác phẩm. - Bài viết mạch lạc, lập luận thuyết phục, lời văn trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. c. Về tâm lý Trong mỗi kì thi, học sinh gặp bao khó khăn: một khoảng thời gian không nhiều (150 phút cho một đề thi học sinh giói với nhiều phần kiến thức, kĩ năng tổng hợp), một không gian căng thẳng của phòng thi, hơn nữa đề thi hằng năm lại luôn thay đổi và biến hoá không ngừng. Đặc biệt hơn đốí với bài văn học sinh giỏi yếu tố biểu cảm - tình cảm, cảm xúc người viết rất quan trọng. Bởi lẽ là những rung cảm chân thành, tha thiết, những xúc động tinh tế của học sinh khi cảm nhận được tư tưởng, tình cảm đẹp được tác giả gửi gắm trong tác phẩm sẽ làm bài viết sâu sắc hơn, tác động mạnh mẽ hơn tới người đọc. Nếu không có bản lĩnh, sự tự tin thì sẽ không làm chủ được tư duy và cảm xúc của mình. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả bài thi. Vì vậy ngoài việc trang bị kiến thức, kĩ năng thì việc rèn bản lĩnh và lòng tự tin để học sinh có tâm lí ổn định khi làm bài thi là rất cần thiết. 2. Cơ sở thực tiễn Trong những năm gần đây, trong cấu trúc đề thi HSG môn Ngữ văn cấp tỉnh của Thanh Hóa nói riêng và các tỉnh nói chung luôn có một câu phần nghị luận văn học. Thông thường, nghị luận văn học có dạng cơ bản: nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ và nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Tuy nhiên, đối với học sinh giỏi đề không chỉ dừng lại ở đó mà thường gắn với các vấn đề sau: - Nghị luận về một vấn đề mang tính chất so sánh đối chiếu trong văn học. - Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học + Nghị luận về một giai đoạn văn học. + Nghị luận về một vần đề mang tính lý luận được đặt ra trong tác phẩm văn học. + Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học Ví dụ câu 3, 12 điểm trong đề thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hóa các năm: Đề thi năm học 2014 - 2015: “Tác phẩm vừa là kết tinh tâm hồn của người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” (Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9, tập 1, NXBGD 2014) Từ cảm nhận về bài thơ Ánh trăng (Nguyễn Duy), em hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Đề thi năm học 2015 - 2016: Nhận xét về nét đặc sắc làm nên giá trị của bài thơ Sang thu (Hữu Thỉnh), có người cho rằng “đó là sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ”; người khác thì khẳng định “đó là cái đối ngẫu rất Đường thi”. Qua bài thơ Sang thu, em hãy bàn về hai ý kiến trên. Đề thi năm học 2016 - 2017: Trong Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết: 3 “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng…” Hãy làm rõ ánh sáng riêng mà bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã rọi vào tâm hồn em. Đề thi năm học 2017 - 2018: Nhà thơ Tố Hữu từng chia sẻ: Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó. Từ cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên Từ đề thi các năm gần đây, có thể thấy rằng nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định là dạng bài khá phổ biến. Đối với học sinh lớp 9, việc viết bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ đã khó; viết bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một ý kiến, nhận định còn khó hơn. Các em thường ngại, thậm chí sợ gặp dạng bài này bởi nó đòi hỏi người viết không chỉ có năng lực cảm thụ mà cả năng lực tư duy nhận biết, phát hiện vấn đề cần bàn luận qua nhận định lí luận văn học, đồng thời thấy được những đặc sắc của tác phẩm ở phương diện mà nhận định đưa ra. Bên cạnh đó, các em còn lúng túng khi nhận diện yêu cầu đề, không hiểu hoặc chưa hiểu hết ý nghĩa của các khái niệm lí luận văn học nên không biết nên viết từ đâu, ý nào viết trước, ý nào viết sau. Từ thực tế những năm bồi dưỡng đội tuyển HSG tỉnh, tôi nhận thầy rằng nhiều em đã có kỹ năng đọc, phân tích đề tốt, xác định đúng vấn đề cần bàn luận và đã bàn luận sâu vấn đề. Các em đã biết khai thác tác phẩm để làm rõ vấn đề cần bàn luận trong đoạn thơ, bài thơ mà nhận định yêu cầu. Tuy nhiên, khi gặp dạng đề này, học sinh thường mắc những lỗi sau: - Chưa hiểu sâu nội dung nhận định đã cho nên triển khai còn thiếu nội dung cần bàn luận. - Chỉ lướt qua hoặc không đề cập gì đến nhận định đã cho mà đi vào phân tích bài thơ đơn thuần. - Chưa biết bám vào nội dung của nhận định để diễn đạt, triển khai hệ thống luận điểm cho phù hợp với yêu cầu đề. Theo tôi, có nhiều nguyên nhân để các em chưa làm tốt kiểu bài này, như: - Trong văn học, phần kiến thức lí luận văn học là khó hơn cả vì nó đòi hỏi người học phải có độ tư duy và kiến thức nền tảng nhất định. - Các em không được học phần lí luận văn học và dạng bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một ý kiến, nhận định trong chương trình chính khóa. - Đây là dạng bài có yêu cầu cao, đòi hỏi học sinh vừa nắm vững, cảm thụ tác phẩm, vừa có hiểu biết về lí luận văn học, vừa phải có khả năng tư duy tổng hợp, khả năng lập luận tốt. - Các tài liệu hướng dẫn cũng như cách viết của dạng bài này không nhiều nên các em chưa được tiếp cận. 3. Những giải pháp giúp đối tượng học sinh giỏi lớp 9 làm tốt bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định. 3.1. Rèn luyện, bồi dưỡng cho học sinh nắm chắc, hiểu sâu và toàn diện kiến thức. 4 Giống như làm nhà cũng cần có nền móng vững chắc, học sinh đội tuyển cũng phải có nền tảng kiến thức về tác phẩm. Điều này tưởng như đơn giản và thừa đối với học sinh giỏi, song đôi khi do sự chủ quan cũng có khi do học sinh chưa nắm chắc kiến thức nên dễ hiểu sai, hiểu chưa đúng những nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Khi đó, các em sẽ triển khai bài viết thiếu ý, thiếu độ sâu, thậm chí uy diễn lệch lạc dẫn đến hiệu quả làm bài không tốt. Chính vì vậy, khi bắt đầu bồi dưỡng học sinh giỏi, khâu mà tôi đặc biệt quan tâm là cung cấp, hướng dẫn cho các em nắm chắc và toàn diện các đơn vị kiến thức thuộc về văn bản như kiến thức văn học sử, những thông tin chính về nhà thơ hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật…Có như vậy các em mới “có bột” để “gột nên hồ”. Với đối tượng học sinh giỏi, tôi yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến thức về tác phẩm văn học, kiến thức về văn học sử, kiến thức lí luận văn học và cả kiến thức văn hóa tổng hợp. a. Kiến thức về tác phẩm văn học: Với học sinh giỏi, tôi yêu cầu các em: * Đọc: - Đọc nhiều, nhớ nhiều tác phẩm. - Đọc có chọn lọc: trước hết là các tác phẩm được đưa vào chương trình, các tác phẩm trong giới hạn ôn thi, sau đó đọc tham khảo, mở rộng. - Đọc có hệ thống: đọc một tác phẩm cần nắm được bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời, đề tài, thể loại, … của tác phẩm. * Khi tìm hiểu tác phẩm: - Nắm chính xác về tác phẩm: học sinh cần nắm được hoàn cảnh sáng tác, mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ và trình tự triển khai mạch cảm xúc đó, nội dung, đặc sắc nghệ thuật, những câu thơ hay, những hình ảnh tinh tế, những từ ngữ giàu sức gợi …có khi cần chính xác cả dấu câu và cách ngắt nhịp đặc biệt bởi nhiều em không nhớ chính xác hoặc không chú ý đã bỏ qua những dấu câu và cách ngắt nhịp đặc biệt của nhiều tác phẩm cụ thể nên khi phân tích, bình giảng đã không khai thác hết cái hay, cái đẹp vốn có của tác phẩm. - Nắm được hệ thống kiến thức cơ bản về tác phẩm không chỉ thể hiện ở chỗ nhớ nhiều mà còn phải hiểu được, cảm được cái hay cái đẹp về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. - Khi tìm hiểu cần liên hệ đến bối cảnh lịch sử mà tác phẩm ra đời, so sánh với các tác phẩm cùng chủ đề để thấy vẻ đẹp của tác phẩm. Ví dụ: Tìm hiểu, phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, cần chú ý đến hoàn cảnh sáng tác của bài thơ (không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời để thấy được cảm xúc thiết tha yêu mến, gắn bó với cuộc đời và ước nguyện, lẽ sống đẹp của nhà thơ…); liên hệ so sánh với những bài thơ cùng viết về đề tài mùa xuân như đoạn trích Cảnh ngày xuân ( trích Truyện Kiều, Nguyễn Du), bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử, Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính… b. Kiến thức về văn học sử: Trong chương trình Ngữ văn THCS, học sinh ít được tiếp xúc với các bài khái quát về kiến thức văn học sử mà chỉ được học một số mục giới thiệu về tác giả, tác phẩm, ôn tập… Nhưng với đối tượng học sinh giỏi lớp 9, trong quá trình bồi dưỡng, tôi đã cung cấp cho các em kiến thức văn học sử theo từng giai đoạn văn học để bước đầu các em nắm được lịch sử văn học có hệ thống. Ví dụ như các giai đoạn 5 phát triển của văn học trung đại, văn học hiện đại Việt Nam; mỗi giai đoạn có những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nào; những chủ đề chính của từng giai đoạn văn học? Những nét chính về cuộc đời vầ sự nghiệp sáng tác của các tác giả tiêu biểu; hoàn cảnh ra đời, nội dung tư tưởng chính của các tác phẩm… Nắm vững văn học sử các em tiếp nhận văn học một cách có cơ bản, hệ thống, từ đó có một cách đánh giá đúng các tác giả, tác phẩm văn học. Bởi khi phân tích một tác phẩm nào đó, chúng ta phải xem xét không chỉ các yếu tố trong văn bản mà còn phải căn cứ thêm nhiều yếu tố khác ngoài văn bản như cuộc đời của tác giả, bối cảnh lịch sử xã hội, hoàn cảnh sáng tác … Những kiến thức ấy đều do văn học sử cung cấp. Ví dụ: khi học phần thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn từ 1946 - 1975, học sinh cần nắm được những kiến thức lịch sử của đất nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ thì mới thấy được vẻ đẹp trong thái độ dứt khoát, tư thế ung dung, hiên ngang của người lính cách mạng trong hoàn cảnh chiến trường đầy gian khổ, khốc liệt trong hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”; vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, khí thế phấn chấn của những con người lao động mới làm chủ sự giàu đẹp của thiên nhiên để xây dựng đất nước trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”; vẻ đẹp của những người phụ nữ giàu tình yêu thương, giàu đức hy sinh, vừa là hậu phương vững chắc, vừa trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc trong bài thơ “Bếp lửa”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”… c. Kiến thức văn hóa tổng hợp: Để viết tốt một bài văn nghị luận văn học, hoc sinh không chỉ có kiến thức về tác phẩm mà rất cần kiến thức văn hóa tổng hợp. Vì vây học sinh cần hiểu và vận dụng phù hợp tri thức của nhiều môn học khác như Lịch sử, Địa lí, … cả những hiểu biết về văn hóa - đời sống, những kinh nghiệm và sự từng trải của cá nhân. 3.2. Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về lí luận văn học Dạng bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định yêu cầu học sinh phải bao quát được những vấn đề cơ bản của lí luận văn học và soi sáng nó những tác phẩm cụ thể. Để học sinh có thể làm tốt kiểu bài này, theo tôi ngoài việc trang bị kiến thức về tác phẩm, rèn luyện kỹ năng làm bài thì việc cung cấp cho học sinh hiểu biết về lí luận văn học là rất quan trọng. Bởi nếu không có kiến thức lí luận văn học các em sẽ không hiểu nội dung nhận định, dẫn đến việc xác định thiếu hoặc sai nội dung các luận điểm. Hơn nữa, với đối tượng học sinh giỏi, được trang bị kiến thức lí luận văn học giúp các em có những bình luận, đánh giá, nhận xét chuẩn xác hơn về một hiện tượng văn học nào đó, bài viết của các em trở nên sâu sắc hơn về ý tưởng, vững vàng về luận điểm, chặt chẽ hơn về lập luận, thuyết phục hơn khi đưa ra luận cứ, bài văn sẽ có chiều sâu, có điểm nhấn. Kiến thức lí luận văn học thường khô khan, khái quát, trừu tượng, khó hiểu, khó gây sự hứng thú đối với học sinh trong quá trình tiếp nhận. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng, tôi đã cố gắng diễn giải lại một cách đơn giản nhất kết hợp với phân tích ví dụ cụ thể để các em dễ hiểu nhất. Trong chương trình Ngữ văn THCS, tôi cũng đã dạy kĩ hai văn bản liên quan đến lí luận văn học là Ý nghĩa văn chương (Hoài Thanh, Ngữ văn 7) và Tiếng nói của văn nghệ (Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9). 6 Khi dạy phần thơ, tôi đã bồi dưỡng cho học sinh chuyên đề Một số yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình. Mục tiêu của chuyên đề này là giúp các em nắm vững đặc trưng của thơ trữ tình, biết nhận diện và phân tích một số dấu hiệu nghệ thuật đặc trưng của thơ từ đó vận dụng vào thực tế cảm thụ và viết bài, như: nhịp thơ, gieo vần, ngắt nhịp, từ ngữ, các biện pháp tu từ, dấu câu,… Ngoài ra, tôi cũng cung cấp cho các em một số chuyên đề chung như Phong cách nghệ thuật, Giá trị và chức năng của văn học, vai trò của văn học đối với đời sống, … Như vậy, thông qua các chuyên đề và các văn bản được học, vốn kiến thức lí luận văn học của các em ngày càng được bồi đắp, mở rộng dần. Trên nền tảng nắm vững kiến thức lí luận văn học cơ bản nhất, các em có thể vận dụng làm nhiều đề khác nhau, nhiều tác phẩm cụ thể. Tôi cũng sưu tầm và cung cấp cho các em những nhận định, đánh giá về văn chương nói chung, về thơ, giúp các em hiểu về đặc trưng, giá trị của thơ ca, biết vận dụng vào trong các bài viết cho phù hợp. Ví dụ: - Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương. (Bạch Cư Dị) - Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung. (Lêonit Lêonop) - Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. (Thạch Lam) - Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc Trà) - Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình. (Nguyễn Tuân) - Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki) - Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng) - Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng Khoa) - Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng) - Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình.(Tố Hữu) - Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu) - Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng) - Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu) … Một nhận định lí luận văn học, tôi thường yêu cầu học sinh chứng minh trong nhiều tác phẩm khác nhau. Ví dụ: với ý kiến trong văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi:“Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới 7 mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. ( Ngữ Văn 9, Tập II, Tr 12,13- NXB GD 2005) Tôi có thể yêu cầu học sinh làm sáng tỏ “ điều mới mẻ”, “lời nhắn nhủ” mà nhà thơ muốn đem “góp vào đời sống” trong nhiều bài thơ như “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật hoặc “Ánh trăng” của Nguyễn Duy hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh hay “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải… 3.3. Hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho học sinh cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định. 3.3.1. Các bước làm một bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định. Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý a. Tìm hiểu đề Đây là một thao tác quan trọng, giúp học sinh định hướng đúng vấn đề bàn luận, không xa đề, lạc đề. Hơn nữa, với dạng đề nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định, vấn đề cần bàn luận nằm ngay trong nhận định đó, nếu học sinh không đọc kĩ nhận định, không tìm hiểu, phân tích kĩ đề sẽ không xác định đúng được vấn đề nghị luận. - Việc đầu tiên tôi yêu cầu học sinh đọc thật kĩ đề, gạch chân các từ ngữ quan trọng để hiểu ý người ra đề. Để tránh việc hiểu sai nhận định, tôi yêu cầu học sinh chú ý đến từ ngữ, những vế câu và quan hệ lập luận giữa các mệnh đề trong nhận định. Đồng thời, một số trường hợp có thể tìm hiểu thêm về hoàn cảnh, xuất xứ của nhận định để bàn luận vấn đề một cách chủ động, tránh suy diễn vô căn cứ. Ví dụ: Đề thi năm học 2017 - 2018: Nhà thơ Tố Hữu từng chia sẻ: Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó. Từ cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên - Sau khi gạch chân những từ ngữ quan trọng học sinh sẽ dễ dàng xác định được vấn đề bàn luận của đề bài trên là: tình người trong bài thơ Nói với con của Y Phương và những hình thức nghệ thuật đặc sắc tạo nên ấn tượng riêng của bài thơ với bạn đọc. - Như vậy, trước một đề bài, học sinh cần xác định được ba yếu tố cơ bản: + Kiểu bài: Nghị luận (thường ở các từ mệnh lệnh như suy nghĩ, ý kiến, bàn về…) + Nội dung vấn đề bàn luận: dựa vào nhận định để xác định cụ thể vấn đề cần bàn luận trong bài thơ. + Phạm vi kiến thức: Kiến thức bắt buộc (bài thơ theo yêu cầu của đề bài) và kiến thức mở rộng, liên hệ. b.Tìm ý Tìm ý bằng cách đặt ra và trả lời các câu hỏi để xác định hệ thống luận điểm, luận cứ theo yêu cầu cụ thể của đề bài. - Những từ ngữ, những khái niệm lí luận văn học nào trong nhận định cần phải giải thích? Ý nghĩa của nhận định trong đề bài là gì? 8 - Nhận định đó đề cập đến vấn đề gì? Nội dung vấn đề đó được biểu hiện như thế nào qua tác phẩm? - Chứng minh vấn đề ở nhận định bằng những luận điểm, luận cứ cụ thể nào ở tác phẩm? - Vấn đề bàn luận trong nhận định có ý nghĩa như thế nào với nhà thơ, thời đại, với bạn đọc? Ví dụ: Đề thi năm học 2017 - 2018: Nhà thơ Tố Hữu từng chia sẻ: Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó. Từ cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên Học sinh cần đặt ra hệ thống câu hỏi tìm ý như: - Câu thơ hay nghĩa là gì? Tình người có nghĩa là gì? Nói Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó có nghĩa? - Tình người trong bài thơ Nói với con được biểu hiện như thế nào? - Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ? - Nhận định đã đưa ra bài học gì cho người sáng tác và người đọc? Bước 3: Lập dàn ý Lập dàn ý giúp học sinh xác định những luận điểm, luận cứ cụ thể, chính xác, không bỏ sót ý. Khi làm dạng bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định, tôi thường hướng dẫn học sinh xây dựng khung dàn bài như sau: * Mở bài: - Dẫn dắt và khái quát vấn đề bàn luận - Nêu xuất xứ và trích dẫn nhận định - Giới hạn tác phẩm cần phân tích. * Thân bài: – Giải thích nhận định, làm rõ vấn đề: + Giải thích, cắt nghĩa các từ, cụm từ có nghĩa khái quát hoặc hàm ẩn trong ý kiến . + Sau khi cắt nghĩa các từ ngữ cần thiết cần phải giải thích, làm rõ nội dung của cả ý kiến. Thường trả lời các câu hỏi: Nhận định trên đề cập đến vấn đề gì? Câu nói ấy có ý nghĩa như thế nào? – Bàn bạc, khẳng định vấn đề. Có thể lập luận theo cách sau: + Khẳng định ý kiến đó đúng hay sai? cụ thể? + Lí giải tại sao lại nhận xét như thế? Căn cứ vào đâu để có thể khẳng định được như vậy? + Điều đó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác phẩm, trong văn học và trong cuộc sống? phân tích và lấy dẫn chứng trong tác phẩm văn học. – Mở rộng, nâng cao, đánh giá ý nghĩa của vấn đề đó với cuộc sống, với văn học. * Kết bài: - Khẳng định lại vấn đề bàn luận - Phát biểu cảm nghĩ hoặc liên hệ bản thân từ vấn đề bàn luận. 9 Ví dụ: dàn ý của đề thi năm học 2017 - 2018: Nhà thơ Tố Hữu từng chia sẻ: Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó. Từ cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên 1. Mở bài: - Giới thiệu vấn đề bàn luận - Trích dẫn nhận định - Giới thiệu bài thơ Nói với con. 2. Thân bài: 2.1. Giải thích nhận định: * Câu thơ hay: là sản phẩm lao động sáng tạo của nhà thơ, kết tinh những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm qua hình thức phù hợp. * Đọc: là hành động tiếp nhận và thưởng thức của người đọc. * Tình người: là tư tưởng, tình cảm, cảm xúc tạo nên giá trị nội dung của thơ. => Quan niệm nhấn mạnh giá trị của thơ là những tư tưởng, tình cảm được biểu hiện trong thơ. Tình cảm, cảm xúc càng sâu sắc, mãnh liệt, lớn lao càng khiến thơ lay động lòng người. 2.2. Bàn luận * Đối tượng của thơ là thế giới tâm hồn, tình cảm của con người. Câu thơ, bài thơ bao giờ cũng biểu đạt tình cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ. Cảm xúc càng mãnh liệt, càng thăng hoa thì thơ càng có nhiều khả năng chinh phục, ám ảnh trái tim người đọc. * Với người đọc, đến với bài thơ là để trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và kiếm tìm sự đồng điệu của tâm hồn. * Tuy nhiên, nói “không thấy câu thơ” không có nghĩa là câu thơ không tồn tại mà hình thức biểu hiện đó đã đồng nhất với nội dung tình cảm của tác phẩm. 2.3. Chứng minh * Tình người trong bài thơ “Nói với con”: - Thể hiện qua lời cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: + Con lớn lên trong tình yêu thương, trong sự nâng niu và mong chờ của cha mẹ. + Con trưởng thành trong cuộc sống lao động, nghĩa tình của quê hương. - Thể hiện qua lời cha nói với con về những đức tính cao đẹp của người đồng mình: + Ca ngợi người đồng mình sống vất vả mà mạnh mẽ, bền bỉ, gắn bó, chung thủy; có ý chí tự lực tự cường, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng nghị lực, niềm tin. + Cha mong con biết sống nghĩa tình, thủy chung với quê hương; biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách; có một nhân cách cao đẹp, sức sống hồn nhiên, khoáng đạt, mạnh mẽ. - Cha dặn dò con phải biết giữ gìn và phát huy truyền thống quê hương và có ý chí vươn lên trong cuộc sống. 10 => Qua lời tâm tình của cha với con, nhà thơ Y Phương đã diễn tả xúc động, thấm thía tình cha con. Tình cảm ấy đã hòa quyện với tình yêu quê hương, đất nước. Từ đó khơi dậy mạch nguồn đạo lý truyền thống của dân tộc. * Hình thức biểu đạt: - Thể thơ: tự do, nhịp thơ linh hoạt. - Từ ngữ, hình ảnh: cụ thể, mộc mạc mà có tính khái quát, giàu chất thơ, rất tiêu biểu cho cách tư duy của người miền núi. - Biện pháp nghệ thuật: điệp từ, điệp cấu trúc, so sánh, đối lập,... - Giọng điệu: tâm tình, thiết tha, thấm thía. 2.4. Đánh giá * Nói với con của nhà thơ Y Phương là một bài thơ hay. Bài thơ đã thể hiện được tình cảm gia đình, quê hương, dân tộc chân thành, sâu sắc, thấm thía qua hình thức nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn. * Bài học đối với người sáng tác và người thưởng thức, tiếp nhận: - Người sáng tác: người làm thơ bên cạnh sự sâu sắc, mãnh liệt của tình cảm, sự phong phú của cảm xúc cần nghiêm túc, công phu trong lao động nghệ thuật. - Người đọc: không ngừng trau dồi tri thức để hiểu và đồng cảm với tác giả. 3.Kết bài: Khẳng định vấn đề bàn luận. Bước thứ ba: viết thành một bài nghị luận hoàn chỉnh sau khi đã lập dàn ý khái quát. Khi viết bài cần lưu ý: a. Viết mở bài: - Nhiệm vụ: Mở bài có nhiệm vụ giới thiệu được vấn đề nghị luận của bài viết và giới hạn phạm vi vấn đề. Mở bài rất quan trọng bởi đây là phần định hướng cho bài viết và tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn người đọc. - Cách viết: Đây là kĩ năng quen thuộc học sinh đã được rèn nhiều từ những bài học của thầy cô. Với học sinh giỏi thường mở bài gián tiếp qua những cách: diễn dịch, quy nạp, tương đồng, tương phản. Dù bằng cách nào, mở bài cần đảm bảo được: + Dung lượng của phần mở bài phải tương ứng với khuôn khổ của bài viết và phải cân đối với phần kết bài. + Có sự liền mạch với bài viết về cả nội dung lẫn phong cách giới thiệu, diễn đạt. Đây là phần phải tạo được âm hưởng chung, định hướng chung cho cả bài viết và cuốn hút, thuyết phục được người đọc. Muốn vậy mở bài cần đảm bảo được các yếu tố: ngắn gọn, đầy đủ, độc đáo và tự nhiên. Tuy nhiên, các dạng đề trong đề thi học sinh giỏi rất đa dạng nên trong quá trình luyện viết cần chú ý học sinh cách mở bài từng dạng đề cho phù hợp. Ví dụ: * Với đề văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định lí luận văn học, tôi thường hướng dẫn học sinh trình tự viết mở bài như sau: - Dẫn dắt từ kiến thức lí luận văn học (có thể về văn học nói chung, về thơ, ...) - Khái quát vấn đề nghị luận - Trích dẫn nhận định - Nêu phạm vi dẫn chứng * Mở bài cho đề nghị luận về một giai đoạn văn học: 11 - Dẫn dắt từ hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn, của thời đại - Khái quát vấn đề nghị luận - Trích dẫn nhận định - Nêu phạm vi dẫn chứng * Mở bài cho đề nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm (phong cách sáng tác, chủ đề, đề tài…) - Khái quát vấn đề nghị luận - Trích dẫn nhận định Nói chung, mỗi bài, mỗi dạng đề có những đặc điểm riêng, nên khi viết cần chú ý dẫn dắt cho khéo léo để vừa đúng vừa cuốn hút được người đọc hướng vào vấn đề nghị luận. b. Viết thân bài: Khi viết phần thân bài, với đặc trưng của đề thi học sinh giỏi: vấn đề nghị luận được thể hiện trong một nhận định nên hệ thống luận điểm, luận cứ phải bám sát từ ngữ, câu chữ của nhận định để làm nổi bật vấn đề nghị luận đó. Không những thế, trong quá trình viết bài bên cạnh sự sắc bén, chặt chẽ trong lập luận, người viết cần thể hiện những xúc động chân thành, tha thiết của bản thân trước những hình ảnh thơ đẹp, những ý văn hay để lời văn giàu cảm xúc. Bởi như đã nói ở trên, yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận tạo nên sức ngân vang rất lớn trong lòng người đọc. Cần đảm bảo được kết cấu của thân bài: - Giải thích nhận định: + Giải thích, cắt nghĩa các từ, cụm từ có nghĩa khái quát hoặc hàm ẩn trong đề bài có nhận định. Để tạo chất văn, gây hứng thú cho người viết, những đề văn thường có cách diễn đạt ấn tượng, làm lạ hoá những vấn đề quen thuộc. Nhiệm vụ của người làm bài là phải tường minh, cụ thể hoá những vấn đề ấy để từ đó triển khai bài viết. + Sau khi cắt nghĩa các từ ngữ cần thiết cần phải giải thích, làm rõ nội dung của vấn đề cần bàn luận. Thường trả lời các câu hỏi: Ý kiến trên đề cập đến vấn đề gì? Câu nói ấy có ý nghĩa như thế nào? - Chứng minh nhận định bằng một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm với hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng. - Đánh giá, nâng cao vấn đề nghị luận c.Viết kết bài: - Nhiệm vụ: + Khẳng lại vấn đề nghị luận. + Phát biểu cảm nghĩ hoặc liên hệ bản thân từ vấn đề nghị luận. - Cách viết: + Cân xứng với mở bài + Tạo được dư âm sâu lắng bằng cảm xúc, suy nghĩ chân thành tha thiết. Bước thứ tư: Đọc lại và sửa chữa để hoàn chỉnh bài viết Thông thường khi làm bài học sinh hay bỏ qua bước này. Nguyên nhân có thể do thời gian không đủ, cũng có thể do các em không coi trọng. Thực tế đây là bước cuối cùng khi viết một bài văn, cũng là bước hết sức quan trọng. Bởi khi đọc lại bài làm, học sinh có thể sửa những lỗi về dùng từ, đặt câu, diễn đạt mà mình vô tình 12 mắc phải trong khi viết; cũng có thể phát hiện ra ý thiếu mình lỡ bỏ quên để bổ sung. 3.3.2. Cách làm cụ thể với từng dạng bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định. a. Nhận định về một giai đoạn văn học (thường là dạng đề tổng hợp) Nghị luận về một giai đoạn văn học: thường là các ý kiến bàn bạc, nhận định, khái quát chung về văn học Việt Nam, về các giai đoạn văn học, về các tác giả văn học,… Ví dụ: Thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới. Bằng những hiểu biết về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Để lập ý và viết tốt bài văn thuộc dạng đề này, học sinh cần nắm được các yếu tố về hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn văn học hoặc đặc điểm thời đại và hoàn cảnh sống của tác giả, lý giải được tại sao có những đặc điểm đó, nêu những biểu hiện của đặc điểm đó trong các tác phẩm, thấy đóng góp của vấn đề trong tiến trình phát triển của văn học. Với kiểu bài này học sinh phải có kiến thức tổng hợp về văn học, về lịch sử… Với đề bài trên, học sinh phải nắm được: Lịch sử đất nước từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975 gắn liền với những biến động lớn. Nhân dân ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp(1946 - 1954) và kháng chiến chống Mĩ (1955 - 1975) trường kì với bao khó khăn gian khổ... đồng thời cũng bước vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ hiểu biết về hoàn cảnh lịch sử đất nước, về sự chi phối của hoàn cảnh đó đến nội dung tư tưởng của văn học thời đại học sinh sẽ bàn bạc, đánh giá về vấn đề nghị luận qua hệ thống luận điểm chặt chẽ, rõ ràng. b. Nhận định về vấn đề trong tác phẩm văn học: Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học thường là các ý kiến đánh giá, nhận xét về một khía cạnh nào đó của tác phẩm như những giá trị nội dung, những đặc sắc nghệ thuật, những quy luật, khám phá, chiêm nghiệm về đời sống toát lên từ tác phẩm, những nhận xét về các nhân vật,… Ví dụ: Có ý kiến cho rằng: "Từ một câu chuyện riêng, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm của con người đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu" Hãy phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (SGK Ngữ Văn 9) để làm rõ ý kiến trên. Để lập ý, để viết bài học sinh cần hiểu kĩ, hiểu sâu về tác phẩm, biết cách huy động kiến thức để làm sáng tỏ vấn đề. Cụ thể như: nêu xuất xứ của vấn đề (Xuất hiện ở phần nào của tác phẩm? Ai nói? Nói trong hoàn cảnh nào?,…), phân tích những biểu hiện cụ thể của vấn đề (Được biểu hiện như thế nào? Những dẫn chứng cụ thể để chứng minh,…). Từ đó đánh giá ý nghĩa của vấn đề trong việc tạo nên giá trị của tác phẩm văn học. 13 Với đề văn, trên học sinh cần giải thích được ý kiến nhận xét về bài thơ để thấy được vấn đề nghị luận. Một câu chuyện riêng: câu chuyện có thật của cuộc đời tác giả - người đã từng gắn bó với vầng trăng từ thuở nhỏ qua thời đi bộ đội; đến khi về sống ở thành phố "quen ánh điện cửa gương" thì "vầng trăng đi qua ngõ - ngỡ người dưng qua đường". Rồi một lần " Thình lình đèn điện tắt", trong phòng "tối om" nhà thơ "bật tunng cửa sổ" vầng trăng tròn" từ đó, bao cảm xúc và suy ngẫm của tác giả về những năm tháng gian lao, tình nghĩa đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu,..chợt ùa đến. Câu chuyện riêng của Nguyễn Duy nhưng nó cũng là câu chuyện của nhiều người thời kì đó đã nhắc nhở, đã đánh thức trong mỗi người lẽ sống cao đẹp ân tình thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Từ việc giải thích và xác định vấn đề nghị luận học sinh sẽ phân tích bài thơ theo hệ thống luận điểm để làm sáng tỏ nhận định. c. Nhận định là một vấn đề mang tính lý luận được đặt ra trong tác phẩm văn học. Đây là kiểu bài đưa ra các ý kiến bàn về những đặc trưng cơ bản của văn học, các thể loại tiêu biểu như truyện, thơ, kịch,… các vấn đề thuộc phạm vi lý luận văn học như tiếp nhận văn học, phong cách nghệ thuật,… Ví dụ: Trong văn bản “Tiếng nói của văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi viết: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. (Trích Tiếng nói của văn nghệ, SGK Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục, 2011, tr.12 -13). Em hiểu thế nào là điều mới mẻ, lời nhắn nhủ trong quan niệm của Nguyễn Đình Thi? Qua bài thơ Ánh trăng, em hãy làm rõ điều mới mẻ và lời nhắn nhủ mà nhà thơ Nguyễn Duy muốn góp vào đời sống. Để viết được bài văn hay và đúng cho kiểu bài này, học sinh cần có kiến thức lí luận sâu sắc để giải thích, cắt nghĩa và làm nổi bật vấn đề nghị luận. Đồng thời khi lập ý cho bài viết, học sinh cần xác định rõ vấn đề nghị luận, bàn đến vấn đề gì, thuộc phạm vi nào? Tại sao lại nói như thế? Nội dung ấy được biểu hiện như thế nào qua tác phẩm văn học tiêu biểu? Với đề trên, học sinh cần huy động kiến thức lí luận văn học về tác phẩm văn học để giải thích sơ lược tinh thần đoạn văn của Nguyễn Đình Thi từ đó rút ra vấn đề nghị luận. Đồng thời qua quá trình lập luận người viết dùng kiến thức lí luận để làm sáng tỏ vấn đề trong “Ánh trăng” + Nội dung của một tác phẩm nghệ thuật là hiện thực cuộc sống và những khám phá, phát hiện riêng của người nghệ sĩ. + Những khám phá, phát hiện ấy chính là điều mới mẻ góp phần quan trọng tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật và mang theo thông điệp của người nghệ sĩ. 14 Giải thích được như vậy học sinh sẽ làm sáng tỏ “điều mới mẻ”, “lời nhắn nhủ” mà nhà thơ Nguyễn Duy muốn đem “góp vào đời sống” trong “Ánh trăng”. 3.3.3. Một số đề nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định và đáp án gợi ý. a. Dạng đề nhận định về một giai đoạn văn học Thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới. Bằng những hiểu biết về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Với đề trên, học sinh cần huy động và thể hiện được kiến thức, hiểu biết tổng hợp để thể hiện được những nội dung cơ bản: 1. Mở bài: * Giới thiệu về hoàn cảnh lịch sử nước ta giai đoạn 1945 - 1975. * Giới thiệu vấn đề bàn luận và trích dẫn nhận định. * Giới hạn tác phẩm 2. Thân bài: * Giải thích nhận định: Hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện thực đó đã tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người chiến sĩ luôn trong tư thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng của con người mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975. * Chứng minh. - Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: họ là những con người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan... + Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo lính (“Đồng chí” của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật), là em bé liên lạc (“Lượm” của Tố Hữu)...  + Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng)  + Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp... (dẫn chứng) - Hình ảnh người lao động mới: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước. Người lao động trong "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng). 15  * Đánh giá, bình luận: - Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm, kiên cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời đại mới. - Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Các tác giả văn học thời kì này họ đồng thời vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là người lính, người chiến sĩ, người lao động cầm bút để ngợi ca về con người dân tộc Việt với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ đẹp và sức sống mới cho văn học Việt Nam. 3. Kết bài: Khẳng định vấn đề bàn luận. b. Dạng đề nhận định về vấn đề trong tác phẩm văn học: Nhận xét về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh, có ý kiến cho rằng: “Chỉ mười hai câu thơ năm chữ mà anh đã vẽ lên một bức tranh “sang thu” vừa đúng, vừa đẹp, lại có tình, có chiều sâu suy nghĩ”. (Nguyễn Xuân Lạc, Báo Giáo dục và thời đại, số 1114, ngày 22/9/2005) Hãy phân tích bài thơ Sang thu để làm sáng tỏ nhận định trên. 1. Mở bài: Dẫn dắt và đưa được vấn đề nghị luận: Chỉ mười hai câu thơ năm chữ mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã vẽ lên một bức tranh “sang thu” vừa đúng, vừa đẹp, lại có tình, có chiều sâu suy nghĩ.. 2. Thân bài 2.1. Giải thích nhận định: Sang thu là bài thơ ngũ ngôn gồm 3 khổ thơ, 12 dòng thơ rất ngắn nhưng nhà thơ Hữu Thỉnh đã vẽ lên được một bức tranh sang thu (lúc chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa: mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới với những tín hiệu đầu tiên) vừa đúng, vừa đẹp, lại có tình, có chiều sâu suy nghĩ gửi gắm bao cảm xúc, những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa. -> Nhận định vừa khái quát được giá trị nội dung tư tưởng của bài thơ, vừa khẳng định được nét tài hoa, tinh tế cùng những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời. 2.2. Phân tích bài thơ để làm rõ nhận định. * Chỉ mười hai câu thơ năm chữ mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã vẽ lên một bức tranh “sang thu” vừa đúng, vừa đẹp: - Mùa thu là đề tài quen thuộc trong thơ ca vì thế, Hữu Thỉnh đã đặt mình vào thế khó: làm thế nào để tái hiện thần thái của mùa thu đất Bắc mà không đi vào lối cũ của người xưa. Với sự cảm nhận tinh tế, ngòi bút tài hoa, bức tranh sang thu được nhà thơ gợi ra thật đúng, thật đẹp với những tín hiệu rất riêng, rất mới: + hương ổi + bỗng đầu dòng thơ đã diễn tả cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng khi một buổi sáng thức dậy thấy làn hương ổi ngọt ngào sánh đậm trong ngọn gió heo may mang chút se lạnh đầu thu - mùi hương quen thuộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê đồng bằng Bắc Bộ. + hương ổi ấy không hòa vào, quyện vào mà phả vào trong gió se. Phả là bốc mạnh, tỏa ra từng luồng -> hương thơm như sánh lại. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã mang đến một 16 tín hiệu dân dã mà thi vị. Và hương ổi đã làm nên hương vị riêng của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh. + Sương chùng chình qua ngõ – cố ý chậm lại: sương đã được nhân hóa mang dáng vẻ, tâm trạng của làn sương thu. Làn sương vốn lãng đãng, mơ hồ bỗng nhiên cụ thể như có hình dáng, như cố ý chậm lại, lưu luyến giữa đất trời, dường như chưa muốn bước hẳn sang thu. + Bằng tất cả các giác quan (khứu giác, xúc giác, thị giác), nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có hương ổi, gió se, sương – mùa thu đã về trên làng quê nhưng nhà vẫn còn dè dặt hình như thu đã về – một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng bởi thu đến nhẹ nhàng quá, thơ mộng quá. - Bức tranh sang thu rất đẹp với sự rộng mở về không gian gắn với những hình ảnh thiên nhiên, đất trời lúc giao mùa: + Dòng sông: được lúc dềnh dàng - dòng sông vào thu bỗng trong trẻo hơn, tĩnh lặng hơn với dòng chảy êm đềm, như được nghỉ ngơi sau một màu hạ vất vả với bão giông. + chim vội vã: những cánh chim bay về phương Nam tránh rét. -> phép đối: dềnh dàng - vội vã làm nổi bật hai động thái trái ngược nhau của thiên nhiên lúc giao mùa. + đám mây mùa hạ - vắt nửa mình sang thu: được nhân hóa vừa thực, vừa hư, gần gũi, sinh động, vẫn là đám mây của mùa hạ với ánh nắng hè chưa tan nhưng đã có cái chớm để thu nền trời như trong hơn, cao hơn, rộng hơn. Nhà thơ như đã tạo nên một cây cầu đặc biệt nối những ngày cuối hạ và đầu thu. Bước đi thời gian vốn vô hình đã trở nên hữu hình và mang đầy tâm trạng: nửa như lưu luyến mùa hạ nửa như ngập ngừng sang thu. - Bức tranh sang thu rất đẹp với những biến chuyển của đất trời : + Vẫn còn bao nhiêu nắng: nắng đầu thu vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã vơi bớt cảm giác oi nồng, chói chang bởi đã có gió se về. + Đã vơi dần những cơn mưa, những tiếng sấm bất ngờ: sang thu, những cơn mưa mùa hạ chợt đến, chợt đi cũng đã lùi xa. -> Sự vận động trái chiều của hai hiện tượng tự nhiên đã tô đậm khoảnh khắc giao mùa. Các từ chỉ mức độ: vẫn còn, vơi, bớt được sắp xếp theo trình tự giảm dần: mùa hạ đang nhạt dần, mùa thu ngày càng rõ nét hơn. Nhà thơ đã gợi tả rất đúng, rất đẹp bước chân của mùa thu giữa đất trời. * Chỉ mười hai câu thơ năm chữ mà nhà thơ Hữu Thỉnh không chỉ vẽ lên một bức tranh “sang thu” vừa đúng, vừa đẹp mà còn có tình, có chiều sâu suy nghĩ. - Phác họa một bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa hạ thu vừa đúng, vừa đẹp một đầu thu rất đặc trưng, rất riêng của miền Bắc không chỉ do sự cảm nhận, sự rung động tinh tế mà thi sĩ thực sự đã mở lòng mình đón nhận sau những ngỡ ngàng hình như thu đã về. Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của tạo vật. Bức tranh sang thu không chỉ được cảm nhận bằng các giác quan mà bằng cả tâm hồn - tâm hồn nhạy cảm với tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; tâm hồn một nhà thơ - một người lính vừa trải qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt càng trân quý hơn nhịp sống bình yên, thơ mộng của mùa thu thôn quê dân dã, thi vị. 17 - Bức tranh sang thu còn ẩn chứa chiều sâu suy nghĩ về con người về cuộc đời: + Cái chùng chình của sương, dềnh dàng của dòng sông là hình ảnh ẩn dụ cho những con người đã đi qua chiến tranh, lửa đạn giờ được lúc nghỉ ngơi, sống chậm lại. + Sự vội vã của những cánh chim gợi những vội vã tất bật trong mối lo toan thường nhật của đời sống con người. -> suy ngẫm: trong cuộc đời, con người ta có lúc dềnh dàng, có khi chùng chình nhưng khi bước sang thu họ dường như trở nên vội vã hơn trước bước đi của thời gian. + Những suy ngẫm về đời người lúc chớm thu được gợi ra từ hình ảnh: sấm cũng bớt bất ngờ - trên hàng cây đứng tuổi: sấm là hình ảnh ẩn dụ cho những biến động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời, những gian nan thử thách mà một đời người ai cũng phải đối mặt; hàng cây đứng tuổi là hình ảnh ẩn dụ gợi những con người đã đứng tuổi, đã từng trải. -> Con người trong tuổi xế chiều của cuộc đời sẽ hiểu biết hơn, vũng vàng hơn trước những đổi thay, biến động của cuộc đời. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, nhà thơ nghĩ đến cuộc đời khi đã đứng tuổi. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời. 2.3. Đánh giá: * Với những hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi, độc đáo và mới lạ, giọng điệu thơ nhỏ nhẹ, sâu lắng, chỉ mười hai câu thơ năm chữ mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã vẽ lên một bức tranh “sang thu” vừa đúng, vừa đẹp, lại có tình, có chiều sâu suy nghĩ. * Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời. 3.Kết bài: Khẳng định ngòi bút tài hoa, sự rung động tinh tế, suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ Hữu thỉnh đã tạo nên hương sắc riêng của Sang thu trong chùm thơ viết về mùa thu xưa và nay. c. Dạng đề nhận định là một vấn đề mang tính lý luận được đặt ra trong tác phẩm văn học. Nguyễn Đình Thi từng quan niệm: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. (Trích Tiếng nói của văn nghệ, SGK Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục, 2011, tr.12 -13). Em hiểu thế nào là điều mới mẻ, lời nhắn nhủ trong quan niệm của Nguyễn Đình Thi? Qua bài thơ Ánh trăng, em hãy làm rõ điều mới mẻ và lời nhắn nhủ mà nhà thơ Nguyễn Duy muốn góp vào đời sống. 1. Mở bài - Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực qua lăng kính chủ quan của các tác giả. Cho nên đến với mỗi tác phẩm văn học người đọc không chỉ thấy được bức 18 tranh hiện thực mà còn thấy tâm tư, tình cảm, thấy những điều nhà văn muốn nói, muốn gửi tới bạn đọc. - Vì thế nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: “ Tác phẩm…chung quanh” Với nhận định này nhà văn muốn khẳng định vai trò của chức năng giáo dục và cải tạo xã hội của văn học nghệ thuật. - Soi vào Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy ta thấy nhận định ấy thật đúng. 2. Thân bài * Giải thích - Điều mới mẻ: là cách cảm nhận và thể hiện độc đáo của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. - Lời nhắn nhủ: Là tư tưởng, tình cảm, thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ muốn gửi đến bạn đọc thông qua tác phẩm nghệ thuật của mình. Thông điệp ấy gắn với chức năng giáo dục và cải tạo xã hội của văn học nghệ thuật * Phân tích, chứng minh: Điều mới mẻ và lời nhắn nhủ của Nguyễn Duy qua Ánh trăng - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm + Nguyễn Duy là nhà thơ – chiến sĩ, gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Ông cũng là cây bút có sức sáng tạo bền bỉ sau năm 1975. + Ánh trăng được viết năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ vừa mang đến điều mới mẻ, vừa là lời nhắn nhủ sâu sắc của Nguyễn Duy về thái độ sống của con người. - Điều mới mẻ mà Nguyễn Duy thể hiện qua Ánh trăng Trăng là đề tài quen thuộc của thơ ca xưa nay, nhưng Nguyễn Duy vẫn có những cảm nhận và cách thể hiện riêng. + Bài thơ Ánh trăng mới mẻ ở nội dung: Trăng được thể hiện như là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị mà vĩnh hằng của thiên nhiên, theo nhân vật trữ tình từ thời thơ ấu bình yên đến những ngày chiến tranh ở rừng. Vì thế, trăng còn là biểu tượng của quá khứ gian khó mà tươi đẹp, của nghĩa tình thắm thiết, đằm sâu với quê hương, đồng đội, bạn bè. Trăng còn được Nguyễn Duy đặt vào trong mối quan hệ đa chiều với nhân vật trữ tình: Nếu quá khứ trăng là tri kỉ thì hiện tại trăng bị biến thành người dưng. Từ tình huống Thình lình đèn điện tắt, nhà thơ phát hiện thêm một vẻ đẹp khác đáng trân trọng của trăng: thuỷ chung, bao dung mà nghiêm khắc, có khả năng thức tỉnh con người. + Bài thơ Ánh trăng mới mẻ ở nghệ thuật: Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà vẫn chứa chất triết lý sâu xa; hình ảnh thơ đa nghĩa, có tính biểu tượng cao; kết hợp giữa chất tự sự với tính trữ tình; kết cấu bài thơ theo mạch thời gian; tạo được tình huống bất ngờ; hầu như không sử dụng dấu chấm câu và chỉ viết hoa chữ đầu tiên của mỗi khổ thơ... - Lời nhắn nhủ của tác giả qua bài thơ: + Bài thơ có ý nghĩa như một lời cảnh tỉnh, lời nhắc nhở chúng ta đừng quên đi những gì đẹp đẽ đã gắn bó với con người trong quá khứ, cần phải sống tình nghĩa, thuỷ chung. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đã được gửi gắm kín đáo và tinh tế. 19 + Trong cuộc sống, con người cũng cần những phút “giật mình”, nghĩa là trạng thái thức tỉnh của lương tâm, soi lại bản thân để nhận ra sự thiếu sót, vị kỉ, chưa hoàn thiện. Nếu không có những phút giật mình như thế, con người ta rất dễ đánh mất chính mình, phản bội lại quá khứ ân tình, ân nghĩa. * Đánh giá - Chính những khám phá mới mẻ về nội dung nghệ thuật, chính thông điệp giàu tính nhân văn đã làm nên sức sống của bài thơ và phong cách nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Duy. Đó đồng thời là bản chất của sáng tạo nghệ thuật, là yêu cầu đối với mỗi người nghệ sĩ (bài học về sáng tạo). - Bài thơ không phải là một sản phẩm của triết lý khô khan, lời nhắn nhủ phải được thể hiện với tính nghệ thuật mới có khả năng lay động. Điều đó cũng đòi hỏi độc giả phải là người đồng sáng tạo để cảm nhận được những thông điệp mà người nghệ sĩ muốn gửi tới (bài học về tiếp nhận). 3. Kết bài: - Khẳng định lại vấn đề - Suy nghĩ của bản thân 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Trong những năm học vừa qua, khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lớp 9 cấp tỉnh, tôi đã luôn học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp đi trước, tham khảo nhiều tài liệu về cách làm bài nghị luận văn học nói chung và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định nói riêng. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã hướng dẫn cho học sinh chi tiết về cách làm của từng kiểu bài để các em không còn lúng túng, xác định sai hoặc thiếu yêu cầu đề, có thể vận dụng làm tốt kiểu bài bài nghị luận văn học nói chung và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định nói riêng góp phần vào kết quả chung của bài thi. Kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh trong những năm tôi phụ trách đã đạt được những kết quả tương đối: - Năm học 2012 – 2013: đạt 6 giải (3 giải Ba, 3 giải KK) - Năm học 2013 – 2014; đạt 10 giải (2 giải Nhì, 3 giải Ba, 5 giải KK), đồng đội xếp thứ 2 toàn tỉnh. - Năm học 2014 – 2015: đạt 3 giải (1 giải Ba, 2 giải KK) - Năm học 2016 - 2017: đạt 5 giải (2 giải Ba, 3 giải KK) III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Nghị luận văn học nói chung, nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ gắn với việc giải quyết một nhận định nói riêng là phần kiến thức trọng tâm trong đề thi học sinh giỏi các cấp. Viết đúng, viết hay là để đạt điểm cao, giải cao là rất quan trọng với mỗi học sinh giỏi. Để giúp các em làm được điều đó, trong quá trình bồi dưỡng thầy cô phải luôn dày công, dốc sức bằng ngọn lửa của lòng nhiệt huyết và đam mê với nghề; bằng niềm say mê với mỗi tác phẩm văn học... 2. Các kiến nghị: - Với phòng GD-ĐT: + Nh÷ng s¸ng kiÕn hay, bæ Ých, thiÕt thùc cña gi¸o viªn giái c¸c cÊp nªn ®a vÒ c¸c trêng ®Ó vËn dông vµo thùc tÕ gi¶ng d¹y. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất