Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp tác thương mại việt nam – liên minh châu âu trong lĩnh vực dệt may trước và ...

Tài liệu Hợp tác thương mại việt nam – liên minh châu âu trong lĩnh vực dệt may trước và sau năm 1986

.DOCX
48
107
89

Mô tả:

Báo cáo đề tài Môn Kinh tế quốc tế 1 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4 MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Họ và tên Nguyễn Mạnh Thắng Lưu Minh Tuấn Ngô Thị Lan Anh Ngô Văn Diện Lê Viết Hiến Lương Thị Linh Hương Lương Thị Hiền Nguyễn Bảo Long Mã SV 552720 551591 552630 552642 552661 Lớp K55KTNNA K55KTB K55KTNNA K55KTNNA K55KTNNA Ghi chú Tìm kiếm tài liệu + tổng hợp Tìm kiếm tài liệu, số liệu Tìm kiếm tài liệu, số liệu Tìm kiếm tài liệu, số liệu Tìm kiếm tài liệu, số liệu 563042 K56QLKT Tìm kiếm tài liệu, số liệu 565119 563056 K56QTKDA K56QLKT Tìm kiếm tài liệu, số liệu 2 MỤC LỤC Lời mở đầu…………………………………………………………………………. Chương 1: Cơ sở lý thuyết của hoạt động thương mại quốc tế( TMQT )……… I. Khái niệm thương mại quốc tế………………………………………………… II. Các cơ sở lý thuyết……………………………………………………………… II.1. Tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương……………………………………...... II.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith………………………………… II.3. Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh)…………………………………. II.4. Phát triển lý thuyết lợi thế tương đối-Mô hình Hechscher-Ohlin…………. III.Vai trò của thương mại quốc tế……………………………………………….. Chương 2: Một vài nét về liên minh Châu Âu(EU)……………………………… 1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu……………………… 1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á……………………… Chương 3: Thực trạng thương mại việt nam - EU trong lĩnh vực dệt may…… 1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam…………………………………………. 1.1. Giai đoạn trước năm 1986………………………………………......... 1.2. Giai đoạn 1986 – 2002……………………………………………….. 1.2.1. Tình hình kinh tế trong nước………………………………………… 1.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh chung của ngành dệt may……. 1.2.2.1. Cơ cấu tổ chức của VINATEX……………………………………. 1.2.2.2. Sản xuất kinh doanh………………………………………………... 2. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU………… 2.1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU……. 2.1.1. Một số đặc điểm về thị trường hàng dệt may EU…………………………… 3 2.1.1.1. Dung lượng thị trường lớn…………………………………………………… 2.1.1.2. Tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng hàng dệt may EU…………… 2.1.1.3. Kênh phân phối………………………………………………………….. 2.1.1.4. Những quy định của EU đối với hàng dệt may nhập khẩu………………. 2.1.2. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU………………………………………………………………………… 2.1.2.1. Vị trí của xuất khẩu hàng dệt may trong nền kinh tế Việt Nam………….. 2.1.2.2. Một số thoả thuận giữa Việt Nam và EU về hàng dệt may………………. 2.1.2.3. EU là “thị trường vàng” cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam…. 2.2. Nhu cầu tiêu thụ………………………………………………………………… 2.3. Thực trạng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua……………. 2.3.1. Kim ngạch xuất khẩu……………………………………………………………. 2.3.2. Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU……………………….. 2.3.3. Thực trạng thương mại Việt nam – EU trong dệt may…………………………… Chương 4: Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam – EU trong lĩnh vực dệt – may……………………………………………………………………………….. 4.1. Định hướng của ngành dệt may Việt Nam………………………………………………. 4.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU…………………………………… 4.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam-EU trong lĩnh vực dệt may………………………………………………………………………………….. 4.3.1.Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại……………………………………………. 4.3.2. Cải cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu……………………………………….. 4.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nước…………………………………….. 4.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực……………………………………….. 4.3.5. Đẩy mạnh phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm……………………… Kết luận……………………………………………………………………………….. Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………… 4 Lời mở đầu Thập niên cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn lao trên thế giới. Những tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ càng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá trên thế giới diễn ra mạnh mẽ hơn xu thế hoà bình hợp tác pháp triển đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu chi phối quan hệ ngoại giao các nước. Trong thế giới ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau nhu cầu về phát triển, giao lưu kinh tế, văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu biết để hợp tác vì lợi ích dân tộc đang trở nên cấp thiết. Với một môi trường quốc tế thuận lợi như vậy, Quan hệ Việt Nam – EU đã có đIều kiện chuyển sang một giai đoạn mới đầy triển vọng cả Việt Nam và EU đều có chung lơị ích trong việc mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị trên các lĩnh vực. EU là một trung tâm chính trị và kinh tế, đóng vai trò quan trọng không chỉ ở Châu Âu, mà còn cả trên toàn thế giới . EU có trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại, có nguồn dự trữ ngoại tệ mạnh và là nguồn viện trợ lớn cho Việt Nam. EU có điều kiện để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, phá thế bao vây cấm vận, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước. Góp phần bảo đảm hoà bình, ổn định , an ninh và pháp triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Vì vậy chúng tôi đưa ra đề tài này “ Hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu trong lĩnh vực dệt may trước và sau năm 1986” Để đạt mục đích trên đây , bố cục đề tài gồm 4 phần : Chương 1 : Cơ sở lý thuyết của hoạt động thương mại quốc tế( TMQT ) Chương 2 : Một vài nét về liên minh Châu Âu ( EU ) Chương 3 : Thực trạng thương mại Việt Nam – EU trong lĩng vực dệt may Chương 4 : Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam – EU trong lĩnh vực dệt may . 5 Chương 1 Cơ sở lý thuyết của hoạt động thương mại quốc tế( TMQT ) IV. Khái niệm thương mại quốc tế Hiện nay khi quá trình phân công lao động Quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì thương mại Quốc tế trở thành một qui luật tất yếu khác quan và được xem như là một điều kiện tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không quan hệ với kinh tế thế giới. Thương mại quốc tế trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao khả năng tiêu dùng của dân cư một quốc gia. Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Hoạt động đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt giữa các quốc gia. V. Các cơ sở lý thuyết II.1. Tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương Tư tưởng trọng thương xuất hiện và phát triển ở Châu Âu từ giữa thế kỷ XV, XVI, thịnh hành suốt thế kỷ XVII, tồn tại đến giữa thế kỷ XVIII. Các nhà trọng thương cho rằng chỉ có vàng bạc là thước đo thể hiện sự giàu có của một quốc gia và do vậy mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải làm sao gia tăng được khối lượng vàng bạc tích trữ thông qua việc phát triển ngoại thương và mỗi quốc gia chỉ có thể thu được lợi ích từ ngoại thương nếu giá trị của xuất khẩu lớn hơn giá trị của nhập khẩu. Được lợi là vì thặng dư của xuất khẩu so với nhập khẩu được thanh toán bằng vàng, bạc, mà chính nó biểu hiện của sự giàu có. Đối với một quốc gia không có mỏ vàng hay mỏ bạc chỉ còn cách duy nhất là trông cậy vào phát triển ngoại thương. Như vậy xuất khẩu là có lợi và nhập khẩu là có hại cho lợi ích quốc gia. Các nhà trọng thương cho rằng chính phủ phải tham gia trực tiếp vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để đạt được sự gia tăng của cải của mỗi nước. Việc trực tiếp tham gia này theo hai cách: trực tiếp tổ chức xuất khẩu và đề ra các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Từ đó đi tới chính sách là phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Đến giai đoạn cuối, trường phái trọng thương có thay đổi và cho rằng có thể tăng cường mở rộng nhập khẩu nếu như qua đó thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn nữa. Mặc dù có nội 6 dung rất sơ khai và còn chứa đựng nhiều yếu tố đơn giản, phiến diện về bản chất của hoạt động ngoại thương, song đó là tư tưởng đầu tiên của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển nghiên cứu về hiện tượng và lợi ích của ngoại thương. Lý luận của trường phái trọng thương là một bước tiến đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học. ý nghĩa tích cực của tư tưởng này đối lập với tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ là coi trọng kinh tế tự cấp, tự túc. Ngoài ra nó đã đánh giá được tầm quan trọng của xuất khẩu và vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết hoạt động XNK để đạt cán cân thương mại thặng dư thông qua các công cụ thuế quan, bảo hộ mậu dịch trong nước... Những tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng hoạt động thương mại quốc tế và làm cơ sở lý luận hình thành chính sách thương mại quốc tế của nhiều quốc gia. II.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Năm 1776, trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc", A.Smith đã phê phán quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải. Ông xuất phát từ một chân lý đơn giản là trong thương mại quốc tế các bên tham gia đều phải có lợi vì nếu chỉ có quốc gia này có lợi mà quốc gia gia khác lại bị thiệt thì quan hệ thương mại giữa họ với nhau sẽ không tồn tại. Từ đó ông đưa ra lý thuyết cho rằng thương mại giữa hai nước với nhau là xuất phát từ lợi ích của cả hai bên dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước . Theo Adam Smith, sức mạnh làm cho nền kinh tế tăng trưởng là do sự tự do trao đổi giữa các quốc gia, do đó mỗi quốc gia cần chuyên môn vào những ngành sản xuất có lợi thế tuyệt đối. Một hàng hoá được coi là có lợi thế tuyệt đối khi chi phí sản xuất tính theo giờ công lao động quy chuẩn để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá đó phải thấp hơn nước khác. Do vậy các quốc gia, các công ty có thể đạt được lợi ích lớn hơn thông qua sự phân công lao động quốc tế nếu quốc gia đó biết tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế tuyệt đối, đồng thời biết tiến hành nhập khẩu những hàng hoá kém lợi thế tuyệt đối. Như vậy điều then chốt trong lập luận về lợi thế tuyệt đối là sự so sánh chi phí sản xuất của từng mặt hàng giữa các quốc gia. A.smith và những nhà kinh tế học cổ điển theo trường phái của ông đều tin tưởng rằng, tất cả mọi quốc gia đều có lợi ích từ ngoại thương và đã ủng hộ mạnh mẽ tự do kinh doanh, hạn chế tối đa sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động kinh doanh nói chung, trong đó có XNK. Ông cho rằng ngoại thương tự do là nguyên nhân làm cho nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và phúc lợi quốc tế nói chung sẽ đạt được ở mức tối đa. Cũng theo học thuyết của A.Smith, lợi thế tuyệt đối được quyết định bởi các điều kiện tự nhiên về địa lý, khí hậu và kỹ năng tay nghề chỉ nước đó mới có mà thôi, về tay nghề là nguyên nhân của mậu dịch quốc tế và quyết định cơ cấu của mậu dịch quốc tế. Tuy vậy khác với tư tưởng trọng thương đã tuyệt đối hoá quá mức vai trò của ngoại thương, Adam Smith cho rằng ngoại thương có vai trò rất lơn nhưng không phải là nguồn gốc duy nhất của sự giàu có. Sự giàu có là do công nghiệp, tức là do hoạt động sản xuất đem lại chứ không phải do hoạt động lưu thông. Theo ông, hoạt động 7 kinh tế (bao gồm cả hoạt động sản xuất và lưu thông) phải được tiến hành một cách tự do, do quan hệ cung cầu và biến động giá cả thị trường quy định. Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Đó là những câu hỏi cần được giải quyết ở thị trường. II.3. Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) Lý thuyết lợi thế tuyệt đối trên đây của Adam Smith cho thấy một nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, nước đó sẽ thu được lợi ích từ ngoại thương, nếu chuyên môn hoá sản xuất theo lợi thế tuyệt đối. Tuy nhiên chỉ dựa vào lý thuyết lợi thế tuyệt .ối thì không giải thích được vì sao một nước có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn so với nước khác, hoặc mọt nước không có mọt lợi thế tuyệt đối nào vẫn có thể tham gia và thu lợi trong quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế để phát triển mạnh các hoạt động thương mại quốc tế. Để khắc phục những hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối và cũng để trả lời cho câu hỏi trên, năm 1817, trong tấc phẩm nổi tiếng của mình "Những nguyên lý của kinh tế chính trị", nhà kinh tế học cổ điển người Anh David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh nhằm giải thích tổng quát, chính xác hơn về sự xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Cơ sở của lý thyết này chính là luận điểm của D.Ricardo về sự khác biệt giữa các nước không chỉ về điều kiện tự nhiên và tay nghề mà còn về điều kiện sản xuất nói chung. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc, bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tìm thấy sự khác biệt này và chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm nhất định dù có hay không lợi thế về tự nhiên, khí hậu, tay nghề. D.Ricardo cho rằng, trên thực tế lợi thế tuyệt đối cuả mỗi quốc gia không có nhiều, hơn nữa thực tế cho thấy là phần lớn các quốc gia tiến hành buôn bán với nhau không chỉ ở những mặt hàng có lợi thế tuỵệt đối mà còn đối với cả những mặt hàng dựa trên lợi thế tương đối. Theo ông mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế trên cơ sở khai thác lợi thế tương đối, ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nguyên nhân chính là do chuyên môn hoá sản xuất một số loại sản phẩm nhất định của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu của các nước khác thông qua con đường thương mại quốc tế vì mỗi nước đó đều có lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng. Liên quan đến lợi thế so sánh có một khái niệm rất cơ bản trong kinh tế học đã được D.Ricardo đề cập đến đó là chi phí cơ hội. Nó là chi phí bỏ ra để sử dụng cho một mục đích nào đó. Như vậy có thể kết luận rằng, một trong những điểm cốt yếu nhất của lợi thế so sánh là những lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất, mặt khác thương mại quốc tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải là lợi thế tuyệt đối. Lợi thế so sánh là điều kiện cần và đủ đối với lợi ích của thương mại quốc tế. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith là một trường hợp đặc biệt của lợi thế so sánh. Về cơ bản, lý thuyết của D.Ricardo không có gì khác với 8 A.smith, nghĩa là ông ủng hộ tự do hoá XNK, khuyến cáo các chính phủ tích cực thúc đẩy, khuyến khích tự do hoá thương mại quốc tế. II.4. Phát triển lý thuyết lợi thế tương đối-Mô hình Hechscher-Ohlin Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo sang đầu thế kỷ XX, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã thể hiện những hạn chế của nó. Lợi thế do đâu mà có? Vì sao các nước khác nhau lại có phí cơ hội khác nhau?...Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo đã không giải thích được những vấn đề trên. Để khắc phục những hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển: Eli Hecksher (1879-1852) và B.Ohlin(1899-1979) trong tác phẩm: “Thương mại liên khu vực và quốc tế”, xuất bản năm 1933 đã phát triển lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo thêm một bước bằng việc đưa ra mô hình H-O(tên viết tắt của hai ông) để trình bày lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có(hay lý thuyết HO). Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng TMQT là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng tới chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Nói cách khác, theo lý thuyết H-O, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó đẫ sử dụng được những yếu tố sản xuất mà nước đó được ưu đãi hơn so với nước khác. Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (bao gồm: vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến cho một số nước có chi phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) trong sản xuất những sản phẩm nhất định. Như vậy cơ sở lý luận của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo nhưng ở trình độ cao hơn là đã xác định được nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất (các nguồn lực sản xuất ). Và do vậy, lý thuyết H-O còn được gọi là “lý thuyết lợi thế so sánh các nguồn lực sản xuất vốn có”. Thuyết này đã kế thừa và phát triển một cách logic các yếu tố khoa học trong lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo và các lý thuyết cổ điển trước đó về TMQT. Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của TMQT ngày nay, song quy luật H-O vẫn là quy luật chi phối động thái phát triển của TMQT và được nhiều quốc gia vận dụng trong hoạch định chính sách TMQT. Sự lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có theo thuyết H-O sẽ là điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác TMQT, và trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở những nước này. VI. Vai trò của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế giúp những nước đang phát triển có thể xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh của mình, từ đó có được lợi nhuận để nhập khẩu những mặt hàng cần thiết hoặc để tái đầu tư. TMQT còn mở rộng phạm vi trao đổi hàng hóa cho các nước đó, giúp giảm 9 bớt rủi ro khi nền kinh tế của một số đối tác thương mại lớn bị suy yếu. Ngoài việc giao thương, TMQT còn giúp các nước đang phát triển có cơ hội tiếp thu những công nghệ hiện đại của các nước khác thông qua hình thức chuyển giao công nghệ hoặc đầu tư trực tiếp, gián tiếp. Chương 2 Một vài nét về liên minh Châu Âu(EU) Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trong nền kinh tế thế giới xuất hiện nhiều loại hình liên kết kinh tế. Trong đó liên minh Châu Âu ( cộng đồng Châu Âu – EU trước đây ) là khối liên kết kinh tế hình thành sớm nhất và có hiệu quả nhất . Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, với GDP khoảng 8500 tỷ USD, dân số khoảng 375 triệu người chiếm giữ khoảng 40-50% sản lưởng công nghiệp của các nước tư bản phát triển EU đang trở thành một cực rất mạnh trong nền kinh tế thế giới. 1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu . Ngay từ thời Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã ( TK8 – Sau công nguyên ) những mơ tưởng về thống nhất Châu Âu đã được hình thành. Tuy nhiên trong một thời gian dài , ý đồ thống nhất Châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính trị, quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà tri thức. Đại bộ phận Châu Âu vẫn thờ ơ thậm chí không hề có ý tưởng gì về điều đó, mặc dù Châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất. Đến năm 1923 , Bá Tước người áo –Condenhve Kalerg đã đề nghị thành lập một liên minh Châu Âu theo kiểu Liên Bang Thuỵ Sĩ năm 1648 hay liên bang Hoa Kỳ năm 1776, năm 1929 Bộ trưởng Pháp lúc bấy giờ – Arstide Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên minh Châu Âu. Nhưng những ý tưởng này phải mãi đế sau chiến tranh thế giới thứ hai mới trở thành hiện thực. Sau chiến tranh thế giới thứ hai các nước Tây Âu đều kiệt quệ về kinh tế. So với năm 1937, sản lượng của Đức 1946 chỉ bằng 31% , Italia 64% , Anh 96%. Trong khi đó nhờ chiến tranh mà kinh tế Mỹ đã phát triển vượt bậc sức mạnh kinh tế của Mỹ còn lớn hơn 10 sức mạnh kinh tế của tất cả các nước Tây Âu gộp lại. Mặt khác sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển lực lượng sản xuất ở Mỹ đã khẳng định vị trí bá chủ toàn cầu của nước mình. Chính bối cảnh ấy, buộc các quốc gia Tây Âu phải tăng cường hợp tác để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thoát khỏi sự kiểm toạ của Mỹ và cũng là làm dịu đi bầu không khí chính trị căng thẳng ở Tây Âu, đặc biệt là giữa Pháp và Đức, phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên ở các nước thuộc địa và trên hết là phải đối đầu với “cộng sản ” ở nửa kia Châu Âu. Các quốc gia Tây Âu không còn sự lựa chọn nào khác ngoài con đường hoà bình hợp tác với nhau . Ngày 9/5/1950 Ngoại trượng Pháp – Rôbe Suman đã đưa ra một sáng kiến mới khởi đầu cho tiến trình liên kết Châu Âu. Ông đề nghị “Đặt toàn bộ việc sản xuất than và thép của Đức vá Pháp dưới một cơ quan quyền lực tối cao chung trong một tổ chức mở cửa cho các nước Tây Âu khác tham gia ” Trên cơ sở đề nghị đó ngày 18/4/1951 ,tại Paris ,6 quốc gia Tây Âu gồm : Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg đã ký Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép Châu Âu (European Coal and Steel Community hay viết tắt là ECSC - có hiệu lực từ ngày 25/7/1952 ) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước Tây Âu. Nhìn chung, sáu nước Tây Âu đã thực hiện thành công Hiệp ước Paris năm 1952. Trên lĩnh vực kinh tế, từ tháng 5/ 1953 một thị trường chung than, sắt, thép cho sáu nước đã hình thành. Ngành luyện kim đạt một bước phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển cả nền kinh tế sáu nước. Thành tích kinh tế là to lớn song còn một kết quả quan trọng khác mà cộng đồng than thép Châu Âu( ECSC ) mang lại đó là tác động tâm lý đối cới người Tây Âu. Lần đầu tiên họ thấy rằng không cần chiến tranh mà vẫn có thể thống nhất được Châu Âu và thống nhất theo chiều hướng Siêu quốc gia. Tại cuộc họp các ngoại trưởng của các quốc gia Tây Âu ở Messine năm 1955 đã đưa ra đề án mở rộng liên kết của các quốc gia Tây Âu song các lĩnh vực khác và cử ngài Paul Henry Spack – ngoại trưởng Italia làm chủ đề án. Đến 1956, họ đã nhất trí thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( European Economic Community – EEC ) và cộng đồng năng 11 lượng nguyên tử Châu Âu (European Atomic Energy Community ) . Ngày 25/ 7/ 1957, hiệp ước về việc thành lập 2 tổ vhức này đã được thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 1958. Mỗi tổ chức có một chức năng riêng : EEC có nhiệm vụ chung liên quan đến những vấn đề kinh tế với việc tạo lập một thị trường chung , trong đó không còn sự ngăn cản vận động của hàng hoá, tư bản, sức lao động … giữa các nước Tây Âu với nhau, cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu quan tâm đến việc nghiên cứu phổ biến kiến thức, bảo đảm nguồn cung cấp thường xuyên các nguyên liệu hạt nhân thúc đẩy đầu tư lập các cơ sở sản xuất năng lượng hạt nhân chung lập thị trường nguyên tử chung giữa các nước. Bước vào đầu thập kỷ 90, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã làm thay đổi cục diện thế giới từ hai cực trở thành đa cực. Trong trật tự mới, các thế lực đều đang dốc sức chuẩn bị lực lượng để chiếm vị trí tối ưu cho mình trong tương lai . Mặc dù đến thời điểm này cộng đồng Châu Âu đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng nói chung về kinh tế, chính trị lẫn quân sự vẫn còn thua kém Mỹ và Nhật Bản. Do vậy trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trước mắt các nước Tây Âu vẫn sẽ phải thống nhất lại, đẩy manh công cuộc xây dựng cộng đồng tạo ra sức mạnh tập thể để đối phó với hai đối thủ lớn của mình. Điều này được thể hiện rất rõ tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia Tây Âu ở Maastricht – Hà Lan tháng 11 năm 1991. Tại Hội nghị này các quốc gia thành viên đã thống nhất : Thứ nhất: Tiếp tục mở rộng liên kết bằng cắch kết nạp thêm các thành viên mới. Thứ hai: Tạo lập đồng tiền chung Châu Âu làm cho Châu Âu thay đổi một cách căn bản vào năm 2000 Thứ ba: tiến tới thống nhất mặt chính trị, xây dựng một chính sách quốc phòng an ninh chung. Năm 1993 những hiệp ước trên bắt đầu có hiệu lực và EU cũng chính thức đổi thành liên minh Châu Âu ( European Union – EU ). Đồng thời , EU tiếp tục mở cửa lần thứ ba đến năm 1995 ba nước ở Tây Bắc Âu gồm : Áo, Phần Lan, Thuỵ Điển đã trở thành thành viên chính thức của EU . 12 Như vậy , từ sáu nước thành viên đến nay EU đã mở rộng ra 15 nước và xu thế sẽ tiến tới 21 nước vào đầu thế kỷ 20 liên kết được mở rộng trên rất nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục. Mục tiêu của liên minh Châu Âu là: - Thiết lập và hoàn thiện thị trường nội bộ - Thống nhất thông qua việc phát hành một đồng tiền thống nhất - Xoá bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và xây dựng một hàng rào thuế quan thống nhất đối với hàng hoá nhập từ ngoài vào - Xoá bỏ những hạn chế đối với việc tự do di chuyển vốn sức lao động hàng hoá dịch vụ … nhằm tăng cường hợp tác, liên kết giữa các quốc gia thành viên xây dựng Châu Âu thành một cực mạnh trong nền kinh tế thế giới. Để đạt được mục tiêu này , EU có một hệ thống thể chế để hoạch định, điều hành và giám sát. Hệ thống này bao gồm năm cơ quan chính uỷ ban Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Quốc hội Châu Âu, Toà án Châu Âu và toà kiểm toàn cùng với các bộ phận hỗ trợ cho các cơ quan trên như uỷ ban kinh tế và xã hội, uỷ ban khu vực . Vậy, thực chất của liên kết kinh tế EU là tạo lập một thị trường thống nhất với việc phát hành một đồng tiền thống nhất là quá trình quốc tế hoá không chỉ lực lượng sản xuất mà cả quan hệ sản xuất. 1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á . Quan hệ kinh tế nói chung giữa các nước EU và các nước trong khu vực Châu Á đã có từ rất lâu, nhưng trong một thời gian tương đối dài sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước lớn trong EU rất ít chú ý đến Châu Á . Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với thị trường rộng lớn ở Châu Phi đã hấp đẫn các nhà kinh doanh, đầu tư Châu Âu nhiều hơn khu vực Châu Á . Trong giai đoạn này, quan hệ của các nước EU với khu vực Châu Á chủ yếu là viện trợ kinh tế.Tuy vậy từ sau thập kỷ 80 đến nay, các nước Mỹ La Tinh đã bị lâm vào khủng hoảng nợ, trong khi các nước đang phát triển Châu Á lại có những chuyển biến trong phát triển kinh tế. 13 Các Nies và ASEAN đã thực hiện thành công chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới. Đồng thời sự suy sụp của Liên Xô và các nước Đông Âu đã làm cho cục diện về kinh tế cũng như kinh tế của mình ở Châu Á nhằm duy trì ảnh hưởng của mình trong nền kinh tế thế giới. Việc thiết lập được một sự hiện diện mạnh mẽ và đồng bộ tại các khu vực ở Châu Á sẽ cho phép EU đảm bảo được lợi ích của mình tại khu vực này vào đầu thế kỷ 21. Để đạt được điều đó, tháng 7/1994 EU đã thông qua văn kiện “Hướng tới một chiến lược mới đối với Châu Á” . Chiến lược mới này hướng tới các mục tiêu chủ yếu là : Thứ nhất : Tăng cường sự hiện diện về kinh tế của EU tại Châu Á nhằm duy trì vai trò nổi trội của mình trong nền kinh tế thế giới. Việc thiết lập một sự hiện diện đáng kể ở Châu Á sẽ cho phép EU chăm lo những lợi ích của mình được tôn trọng hoàn toàn trong khu vực then chốt này vào đầu thế kỷ 21. Thứ hai : Góp phần vào sự ổn định ở Châu Á bằng cách khuyến khích hợp tác và hiểu biết lẫn nhau ở cấp độ quốc tế. Thứ ba : Khuyến khích sự phát triển kinh tế của các nước và khu vực kém thịnh vượng nhất. EU và các thành viên của mình tiếp tục góp phần làm giảm bớt sự nghèo nàn và tạo ra một sự tăng trưởng bền vững ở các nước và khu vực này. Thứ tư : Góp phần phát triển và củng cố nền dân chủ , nhà nước pháp quyền , cũng như phương tiện tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản ở Châu Á. Để đạt được các mục tiêu trên EU đã đưa ra hàng loạt các chính sách củng cố và tăng cường sự hiện diện của mình như : - Dành cho Châu Á những ưu tiên lớn hơn và đi sâu đối thoại với các nước và các nhóm trong khuôn khổ song phương hoặc đa phương. - Coi trọng hợp tác kinh tế trong các lĩnh vực EU có lợi thế như ngân hàng, năng lượng, công nghệ môi trường, viễn thông … - Dành ưu tiên lớn nhất cho các thị trường Châu Á mới trong đó có Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ … Sự cụ thể hoá trong chiến lược mới đối với Châu Á chứng tỏ EU đã tiến thêm một bước quan trọng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của mình. Việc EU cố gắng đi 14 đến một chính sách chung đối với Châu Á - Thái Bình Dương là xuất phát từ chỗ đánh giá lại thực trạng của mình và tương lai của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Qua chiến lược này EU hy vọng sẽ giành được những vị trí vững chắc cả về kinh tế quốc dân. EU đã sớm đón bắt được một xu thế phát triển đặc thù ở Châu á trong thế kỷ 21. Đó là vị trí lý tưởng để EU có thể phát huy ảnh hưởng chính trị của mình. Một cơ hội mới đã được tạo ra cho sự hợp tác giữa EU và ASEAN khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN . Tóm lại : Sau 40 năm hình thành và phát triển EU trở thành một siêu cường cả về kinh tế, chính trị, dân số, diện tích… và sẽ trở nên mạnh hơn khi đồng tiền chung Euro được sử dụng trước một trật tự thế giới mới đang hình thành và đang đầy biến động phức tạp, EU đã chuyển mình vươn lên tắch khỏi sự lệ thuộc với Mỹ, vươn tầm hoạt động sang trung và Đông Âu, Châu Á, Châu Mỹ La Tinh, nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của mình trước thềm thế kỷ XXI. Chính trong quá trình thực hiện chiến lược toàn cầu của mình nói chung và chiến lược mới với Châu Á nói riêng, EU đã tìm thấy ở Việt Nam những ưu thế địa chính trị, địa kinh tế để lấy Việt Nam làm đIểm tựa quan trọng trong chiến lược đối ngoại của mình với Châu Á. Mối quan hệ Việt Nam – EU đã bắt đầu được thiết lập từ sau năm 1975, nhưng chỉ đơn thuần là viện trợ kinh tế. Bước chuyển biến to lớn đánh dấu một thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam- EU là việc hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 10/1990. Trên cơ sở đó mối quan hệ Việt Nam và EU đã phát triển nhanh chóng. Hai bên đã có hàng loạt cuộc tiếp xúc gặp gỡ thăm viếng hội thảo khoa học… nhằm trao đổi thông tin và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Quan hệ Việt Nam –EU bước vào giai đoạn lịch sử mới khi : Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết vào tháng 7/1995. Hiệp định đã tạo ra những yếu tố thuận lợi cho EU và mối nước thành viên EU trong quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư với Việt Nam. Có thể nói, hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU vừa là cơ sở pháp lý vừa là động cơ thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU phát triên mạnh mẽ và toàn diện trên rất nhiều lĩnh vực : hợp tác thương mại, đầu tư khoa học kỹ thuật, môi trường, văn hoá giáo dục, y tế… đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may. Bằng chứng là hai hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993 – 1997 và 1998 – 2000 đã 15 ký kết. Nhờ đó kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng lên nhanh chóng. Vẫn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương tiếp theo. Chương 3 Thực trạng thương mại việt nam - EU trong lĩnh vực dệt may 1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam . 1.1. Giai đoạn trước năm 1986 Năm 1954, sau khi hoà bình được lập lại, Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và có điều kiện phát triển kinh tế chi viện Miền Nam đấu tranh chống đế quốc, thống nhất đất nước. Thời kỳ này, ngành dệt may Việt Nam đã được Đảng và Chính phủ quan tâm tạo điều kiện đầu tư phát triển. Kết quả tạo công ăn việc làm, cũng như sản xuất được nhiều sản phẩm cho xã hội. Với sự giúp đỡ của các nước anh em, bè bạn, chúng ta đã cải tạo và xây mới một loạt nhà máy có công suất lớn như: Dệt 8-3, Dệt Vĩnh Phú, Dệt kim Đông Xuân, Dệt Nam Định, May 10, May Thăng Long… Đồng thời, hàng loạt các hợp tác xã, tổ sản xuất thủ công được thành lập nhằm cung cấp thêm sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Năm 1975, sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, ngành dệt may lại có thêm cơ hội phát triển khi được bổ sung đội ngũ thợ lành nghề của các làng nghề trải dài từ miền Trung vào miền Nam. Đảng, Chính phủ đề ra chương trình phát triển kinh tế tập trung. Ba vấn đề lớn cấn giải quyết là lương thực - thực phẩm - hàng tiêu dùng. Hàng loạt nhà máy mới được đầu tư xây dựng như Sợi Hà Nội, Sợi Vinh, Sợi Huế, Sợi Nha Trang, May Việt Tiến, May Nhà Bè, May Hữu Nghị… 16 Do quy mô phát triển khá lớn, nên dệt may đã đủ sức trở thành một ngành kinh tế mạnh trong nền kinh tế quốc dân. Điều này dẫn tới một nhu cầu cần có một tổ chức đứng ra quản lý chung, thay vì trực tiếp chịu sự giám sát của Bộ Công Nghiệp nhẹ. Xuất phát từ nhu cầu đó, Chính phủ đã thành lập Liên hiệp các xí nghiệp dệt và Liên hiệp các xí nghiệp may. Hai cơ quan này có nhiệm vụ quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dệt và may. Tới năm 1990, hai cơ quan trên sát nhập lại và lấy tên là Liên hiệp Sản xuất - Xuất nhập khẩu dệt may. Đây là mô hình tổ chức quản lý đặc trưng cho cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Sự phát triển trên thực sự là qua trình chuẩn bị rất tốt cho ngành dệt may Việt Nam. Giờ đây, những doanh nghiệp như May 10, May Việt Tiến, May Nhà Bè, May Thăng Long, Dệt 8 - 3… được coi là những tên tuổi lớn trong ngành dệt may Việt Nam đều được xây dựng trong thời gian này. Nhờ đầu tư theo kế hoạch nên có sự phát triển tương đối cân bằng giữa ngành may và ngành dệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vẫn còn những hạn chế do cơ chế chung của cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao, mà không có sự linh động sáng tạo trong sản xuất, cũng như cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng. Điều đó dẫn đến cần có những thay đổi nhận thức mới để tạo ra một thời kỳ chuyển biến mới. 1.2. Giai đoạn 1986 - 2002 Nếu như giai đoạn trước 1986 là quá trình hình thành và định hình ngành công nghiệp dệt may Việt Nam thì giai đoạn này chính là quá trình phát triển. 1.2.1. Tình hình kinh tế trong nước Trước năm 1990, do Việt Nam chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa nên phần lớn sản phẩm dệt may được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Khi thị trường xã hội chủ nghĩa tại các nước Đông Âu sụp đổ, cũng như việc Việt Nam chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị 17 trường đã khiến cho các doanh nghiệp (phần lớn là doanh nghiệp nhà nước) gặp không ít khó khăn. Họ vấp phải những khó khăn về tổ chức sản xuất, về nguyên liệu đầu vào, cũng như tiêu thụ đầu ra. Quen với cơ chế làm ăn thời bao cấp, doanh nghiệp được cấp vốn, đầu vào có sẵn, sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch được giao, đầu ra được bao tiêu toàn bộ, thì nay, phải hoạt động như một chủ thể kinh tế hoàn toàn độc lập. Các doanh nghiệp bắt đầu lộ ra những nhược điểm: quy mô sản xuất nhỏ, thiếu vốn hoạt động, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, kỹ năng tổ chức sản xuất thiếu khoa học... 1.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh chung của ngành dệt may Theo Nghị định số 338/NĐ - CP của Chính phủ, các doanh nghiệp dệt may không thuộc sự quản lý, điều hành của Liên hiệp Sản xuất - Xuất nhập khẩu dệt may nữa, mà chuyển cho Bộ Công nghiệp. Các doanh nghiệp do đó phải tự hạch toán độc lập. Đây thực sự là một thời điểm khó khăn cho ngành dệt may Việt Nam. Thời kỳ này, nhiều doanh nghiệp do không thích ứng được với tình hình mới, nên kinh doanh bị thua lỗ liên tục, đứng trên bờ vực phá sản. Để tự cứu mình nên các doanh nghiệp hoạt động tách rời. Vì thế nên đã xuất hiện tư tưởng cục bộ mạnh ai nấy làm, cá lớn nuốt cá bé. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, phát triển kinh doanh một cách tự phát, dù có những điểm tốt là dần tạo cho doanh nghiệp tính độc lập, tự thân vận động, cải tiến và phát triển, nhưng cũng gây không ít những thiệt hại cho ngành dệt may Việt Nam khi không có sự điều tiết, bất chấp hậu quả cho người khác cũng như cho toàn ngành. Tình hình trên dẫn tới một nhu cầu tất yếu là phải có định hướng và quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Các doanh nghiệp cần có một tổ chức liên kết để liên kết sức mạnh riêng tạo nên sức mạnh tổng hợp chung của toàn ngành. Từ nhu cầu đó, Chính phủ đã thành lập Tổng công ty Dệt may Việt Nam, tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Textile and Garment Corporation, viết tắt là 18 VINATEX, trên cơ sở Nghị định 91/NĐ - CP. VINATEX hoạt động như một pháp nhân độc lập và trực thuộc Bộ Công nghiệp. VINATEX có cơ cấu tổ chức, hoạt động theo phương thức tập đoàn kinh tế, nhằm tập hợp các doanh nghiệp, tập trung vốn, tổ chức phân công chuyên môn hoá hòng tạo nên sức mạnh tổng hợp và sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế. Việc thành lập VINATEX đã tạo điều kiện cho dệt may Việt Nam phát triển đóng góp hơn nữa cho nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, khi nói đến sự thành công của ngành dệt may Việt Nam không thể không nói đến VINATEX. Xin sơ lược một số nét về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty này. 1.2.2.1. Cơ cấu tổ chức của VINATEX VINATEX gồm 55 thành viên với 45 doanh nghiệp, 2 Viện nghiên cứu Kinh tế, Kỹ thuật, Thiết kế Thời trang, 3 trường đào tạo công nhân, 4 công ty cơ khí và 1 công ty tài chính. Các thành viên của Tổng công ty có quan hệ chặt chẽ về sản xuất, kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, vv… Cơ cấu đó nhằm tạo sự đồng bộ trong toàn ngành từ đầu tư, cung cấp nguyên vật liệu tới tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Đồng thời, VINATEX cũng là một tổ chức liên kết các doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc, ứng dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh và đào tạo nhân viên quản lý, công nhân sản xuất. 1.2.2.2. Sản xuất kinh doanh Tổng công ty Dệt may Việt Nam được thành lập là bước ngoặt đáng chú ý, nó đánh dấu một thời kỳ phát triển nhảy vọt chung của cả ngành dệt may Việt Nam. Mức đầu tư vào công nghệ cùng với việc giảm bớt lao động dư thừa phản ánh cam kết của ngành tới công tác cải tiến chất lượng liên tục. (Continuous Quality Improvement – CQI), đặc biệt là hiện đại hoá, tăng năng suất và đẩy mạnh công tác marketing. Công việc nghiên cứu, 19 triển khai ứng dụng (R&D) rất được chú trọng. Kết quả đến nay cho thấy Tổng công ty Dệt may Việt Nam vẫn là một trong những đơn vị hoạt động có hiệu quả nhất trong các Tổng công ty 90, 91 khác. Các chỉ tiêu ké hoạch đề ra của Tổng công ty đèu đạt và vượt. Tích cực đổi mới, tăng cường tập đầu tư vào những lĩnh vực xương sống là phương châm đề ra của VINATEX. Ta có thể thấy rõ điều này qua bảng về kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian 1993- 1997: Bảng: Kết quả thực hiện chỉ tiêu của VINATEX giai đoạn 1993 - 1997 Chỉ tiêu Đơn vị 1993 1994 1995 Giá trị tổng sản lượng Tỷ ðồng 1,445 2,488 2,964 Tổng doanh thu Tỷ đồng 2,692 3,500 4,567 Kim ngạch xuất khẩu TriệuUSD 111,9 138 350 Kim ngạch nhập khẩu TriệuUSD 121 180,6 347 Sợi các loại 1.000 tấn 7,6 43,5 51,2 Vải lụa thành phẩm Triệu mét 109,2 104 124,4 Quần áo dệt kim Triệu sp 20,1 15,5 22,1 Quần áo may sẵn Triệu sp 25.5 30,9 33,3 Nguồn: Báo cáo tổng kết – Ban kế hoạch đầu tư (VINATEX). 1996 3,283 4,593 395,4 407,5 56,9 127,8 23 35,1 1997 3,653 5,283 474,7 417,8 59 140 25 41,3 Qua bảng trên cho thấy Tổng Công ty Dệt may Việt Nam có tốc độ phát triển khá cao. Sản lượng tăng 10% đến 19%, doanh thu tăng từ 15% tới 30%, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 13% tới 24%, có năm lên tới 154%. Số liệu về tốc độ phát triển có thể tổng hợp theo bảng sau: Bảng : Tốc độ phát triển của VINATEX gia đoạn 1993 - 1997 1994 1995 1996 1997 72% 19% 11% 11% Tổng doanh thu 30% 30% 01% 15% Kim ngạch xuất khẩu 24% 154% 13% 20% Kim ngạch nhập khẩu 49% 93% 17% 20% Chỉ tiêu Tổng sản lượng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng