Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hợp đồng thuê nhà xưởng tại công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất (cirt), ch...

Tài liệu Hợp đồng thuê nhà xưởng tại công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất (cirt), chế độ pháp lý và thực tiễn áp dụng

.DOC
92
218
148

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào, pháp luật luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Nó là tiêu chuẩn pháp lý cho mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Trong hệ thống pháp luật đó có pháp luật về hợp đồng kinh tế, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động kinh tế. Hiện nay, khi đã chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì pháp luật về hợp đồng kinh tế đã và đang là một vấn đề hết sức phức tạp . Nền kinh tế càng phát triển thì các quan hệ kinh tế càng đa dạng và phức tạp hơn nhiều, nó không chỉ dừng lại ở các quan hệ kinh tế trong nước mà còn có sự tham gia bởi các nhân tô nước ngoài. Song cho đến nay, pháp luật hiện hành về chế độ hợp đồng kinh tế của chúng ta vẫn là pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 cùng với các văn bản cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành pháp lệnh. Thực tế cho thấy pháp lệnh này còn có nhiều điểm chưa phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế hiện nay. Những hạn chế và thiếu sót đó đã gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế và đồng thời cũng gây trở ngại cho h của các cơ quan quản lý về hợp đồng kinh tế. Bên cạnh đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, Bộ luật dân sự và Luật thương mại là hai văn bản rất quan trọng đã được thông qua và có hiệu lực đã đáp ứng được những đòi hỏi trong đời sống xã hội. Trong khi đó pháp lệnh hợp đồng kinh tế sau mọt thời gian dài không còn phù hợp, không còn đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sôi động của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những điểm hạn chế và đưa ra phương hướng sửa đổi bổ sung là rất cần thiết. Xuât phát từ những đòi hỏi đó, bằng những kiến thức đã được trang bị cùng với nhận thức về thực tiễn trong quá trình thực tập tại Công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI), tôi chọn đề tài : "Hợp đồng thuê nhà xưởng tại công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRT), chế độ pháp 1 lý và thực tiễn áp dụng" để làm đề tài chuyên đề thực tập cho mình, nhằm nghiên cứu và góp phần vào công cuộc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế. Đề tài được kết cấu thành 3 chương : Chương I : Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế. Chương II : Thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế áp dụng với việc thuê nhà xưởng tại công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI) Chương III : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà xưởng tại công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI) Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc các anh chị trong công ty quan hệ quốc tế - đầu tư sản xuất cùng với các thầy cô giáo trong Bộ môn Luật kinh tế, đặc biệt chất lượng là thầy giáo TS. Nguyễn Hợp Toàn và cô giáo Phạm Thị Phương Thuỷ đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành bài viết này. 2 CHƯƠNG I CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP ĐỒNG KINH TẾ Do đặc điểm của nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau mà đặc điểm hình thành và phát triển của hợp đồng kinh tế cũng khác nhau trong các giai đoạn sau : 1. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ khôi phục nền kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân (1954 - 1959) Thời kỳ này nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế hoạt động đan xen lẫn nhau. Vì thế, chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế được thực hiện theo nghị định số 738/TTg ngày 10/4/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về lập hợp đồng kinh doanh, qui định mối quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh giữa các đơn vị kinh doanh của Nhà nước, hợp tác xã, công ty hợp doanh và tư doanh. Đặc điểm của hợp đồng kinh doanh là rất coi trọng ý chí tự do, tự nguyện, bình đẳng, thật thà, cùng có lợi của các đương sự tham gia hợp đồng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan Nhà nước như : hợp đồng phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quyền huỷ bỏ hợp đồng bị hạn chế.v.v.... 2. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung (1960 - 1974) Là thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân đã căn bản hoàn thành. Nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế theo kế hoạch , chịu sự điều hành của Nhà nước. Vì thế, chế độ hợp đồng kinh doanh cũng được thay đổi. Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế do Chính phủ ban hành theo Nghị định số 004/TTg ngày 4/1/1960 quy định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước. Đặc điểm của điều lệ tạm thời là nhằm tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Coi ký kết hợp đồng 3 kinh tế là kỷ luật Nhà nước trong quan hệ kinh tế và chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, đồng thời cũng không được tự ý thương lượng điều chỉnh hợp đồng kinh tế nếu không có sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.... Do đó, chế độ hợp đồng kinh tế được chia làm hai loại : hợp đồng nguyên tắc và hợp đồng cụ thể. Bên cạnh đó, Điều lệ tạm thời - cũng qui định việc thành lập Hội đồng trọng tài với tư cách là cơ quan tài phán Nhà nước có chức năng giải quyết các tranh chấp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Như vậy, chế độ hợp đồng kinh tế thường kỳ này là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, với bản chất mang đậm yếu tố kế hoạch còn yếu tố tài sản là thứ yếu. 3. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ thực hiện chủ trương cải tiến quản lý kinh tế (1975 - 1988) Đây là thời kỳ nền kinh tế thực hiện việc quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Để tương ứng với nó chính phủ đã ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ, qui định kiểu hợp đồng kinh tế mới, thay thế cho bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế trước đó. Đặc điểm chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này là : Hợp đồng kinh tế được ký kết ngay sau khi có sổ kiểm tra kế hoạch và sau đó được điều chỉnh lại khi Nhà nước gao chỉ tiêu kế hoạch chính thức, việc ký kết hợp đồng kinh tế căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ , kế hoạch hoặc văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên, bên cạnh đó các đơn vị kinh tế còn có thể ký kết các hợp đồng kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp lệnh, vì thế mà chủ thể của hợp đồng kinh tế được mở rộng hơn, thể loại hợp đồng cũng được đa dạng hơn nhiều.... 4. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1989 đến nay) 4 Sau đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế cũng được chuyển đổi hoàn toàn theo nền kinh tế. Chính vì thế, chế độ hợp đồng kinh tế - cũng được chuyển đổi. Tren cơ sở đó, pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng Nhà nước , thông qua ngày 25/9/1989 được ban hành. Đặc điểm của pháp lệnh hợp đồng kinh tế gồm : + Hợp đồng kinh tế được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi và không trái pháp luật. + chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế là tất cả các pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh, ngoài ra còn được mở rộng trong một số trường hợp đặc biệt + Chủ thể có quyền tự quyết trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế + Thể loại hợp đồng kinh tế được đa dạng hoá, bên cạnh đó còn qui định một số hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước giao và chính phủ cũng có văn bản qui định riêng (Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng) Như vậy, những điểm đổi mới của chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này đã đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chế độ hợp đồng kinh tế theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. II. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ 1. Khái niệm hợp đồng kinh tế Trong các mối quan hệ xã hội có những quan hệ được các bên thoả thuận thiết lập nhằm mục đích làm phát sinh những đổi thay chấm dứt quyền 5 và nghĩa vụ - giữa các bên với nhau. Những mối quan hệ thuộc loại này được gọi chung là quan hệ hợp đồng. Cũng như vậy quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế được gọi là quan hệ hợp đồng kinh tế . Trong khoa học pháp lý, hợp đồng kinh tế thường được hiểu theo hai nghĩa. Đó là nghĩa khách quan và chủ quan. - Theo nghĩa khách quan (tức là dưới góc độ ý chí Nhà nước ) : hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các bên chủ thể kinh doanh với nhau (còn gọi là chế độ hợp đồng kinh tế hay pháp luật về hợp đồng kinh tế). Chế độ hợp đồng kinh tế của nước ta mang đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa nó bao gồm các quy phạm pháp luật về nguyên tắc ký kết tư cách chủ thể tham gia; trình tự và thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế; các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng như các nguyên tắc và nội dung thực hiện; các điều kiện và cách thức giải quyết hậu quả của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ và thanh lý hợp đồng kinh tế; quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế; trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế , sự thay đổi của quan hệ kinh tế, chế độ hợp đồng kinh tế cũng được thay đổi và phát triển. - Theo nghĩa chủ quan (tức là theo ý chí của các bên ký kết hợp đồng) : "Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu , ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự qui định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình" (Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989). Theo nghĩa này, hợp đồng là sự thống nhất ý chí của các chủ thể hợp đồng kinh tế. Như vậy, xét về thực chất hợp đồng kinh tế , cũng như các loại hợp đồng khác, đều là sự thay đổi giữa các chủ thể về việc xác lập, thay đổi hoặc 6 chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ cụ thể. Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau giữa hợp đồng kinh tế với các loại hợp đồng khác về tư các chủ thể, mục đích, hình thức ký kết, thực hiện.... 7 2. Đặc điểm hợp đồng kinh tế Những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế cũng như chế độ quản lý kinh tế theo sự thay đổi những qui định của chế độ hợp đồng kinh tế để phù hợp với tình hìh diễn biến mới trong các quan hệ kinh tế. Vì thế, những qui định của pháp luật về hợp đồng kinh tế hiện nay có các đặc điểm để chúng ta phân biệt với những qui định hợp đồng kinh tế trước đây. Đồng thời cũng phân biệt với các loại hợp đồng khác. Những đặc điểm đó là : 2.1 Đặc điểm về mục đích của hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm mục đích kinh doanh. Mục đích này được thể hiện trong nội dung công việc mà các bên thoả thuận trong hợp đồng như là : thực hiện hoạt động sản xuất , trao đổi hàng hoá, dịch vụ.... Điều đó có nghĩa là hợp đồng kinh tế phải gắn với quá trình sản xuất và tái sản xuất của các chủ thể kinh doanh, trong đó ít nhất một bên ký hợp đồng phải có mục đích kinh doanh còn bên kia có thể không có mục đích kinh doanh nhưng không có mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt. Đặc điểm này dùng để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự, hơn nữa mục đích kinh doanh là đặc trưng của các quan hệ kinh tế. 2.2 Đặc điểm về chủ thể hợp đồng kinh tế : Theo Điều 2 - pháp lệnh hợp đồng kinh tế, thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên : pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật. Như vậy theo qui định này thì chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải là chủ thể có điều kiện tổ chức, phải là pháp nhân và luôn phải là một bên ký kết, còn bên kia có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 2.3 Đặc điểm về hình thức hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh tế có thể ký kết dưới hình thức văn bản hợp đồng hoặc tài liệu giao dịch (như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đặt hàng). Ngoài ra 8 các bên có thể ký kết các văn bản phụ lục hợp đồng cụ thể hoá các điều kiện trong hợp đồng hoặc biên bản bổ sung những điều khoản mới thoả thuận vào văn bản hợp đồng. Phụ lục hợp đồng và biên bản bổ sung có giá trị pháp lý như hợp đồng kinh tế. 3. Phân loại hợp đồng kinh tế Dựa trên những căn cứ khác nhau mà hợp đồng kinh tế được phân thành nhiều loại khác nhau. 3.1 Căn cứ và tính chất của quan hệ hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm các loại sau: * Hợp đồng kinh tế mang tính chất đền bù : Là loại hợp đồng mà theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên tương xứng nhau (quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại). Trong quan hệ hợp đồng, một bên có nghĩa vụ giao hàng hoá, thực hiện dịch vụ hoặc kết quả công việc đã thoả thuận, bên kia có nghĩa vụ nhận hàng hoá hoặc kết quả đó và thanh toán tiền. Đây là loại hợp đồng phản ánh quan hệ hàng hoá tiền tệ với bản chất là quan hệ ngang giá và được sử dụng trong các lĩnh vực như la trao đổi hàng hoá; vận chuyển hàng hoá..... * Hợp đồng kinh tế mang tính tổ chức : Là loại hợp đồng được xác lập trên cơ sở sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể kinh doanh có thể thoả thuận với nhau lập ra một cơ sở kinh tế - kỹ thuật mới để thực hiện mục đích chung. Hợp đồng này không phản ánh quan hệ hàng hoá tiền tệ, không mang tính chất đền bù. Các bên chủ thể có thể thoả thuận góp vật chất, góp sức lao động để lập ra cơ sở kinh doanh mới. Song chủ thể của loại hợp đồng này phải có tư cách pháp nhân đầy đủ. Tuỳ theo tính chất của tổ chức, hợp đồng không chỉ có 2 bên chủ thể mà có nhiều bên cùng tham gia. 3.2 Căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng, hợp đồng kinh tế chia làm 2 loại : * Hợp đồng kinh tế dài hạn : 9 Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở lên nhằm thực hiện kế hoạch dài hạn * Hợp đồng kinh tế ngắn hạn : Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở xuống, gồm hợp đồng năm, nửa năm, quý, tháng để thực hiện kế hoạch năm và những phần kế hoạch trong năm. Như vậy, tuỳ theo đối tượng của hợp đồng, tính chất của mối quan hệ, giá cả thị trường.... mà các chủ thể có thể ký kết hợp đồng ngắn hạn hay dài hạn. 3.3. Căn cứ vào tính kế hoạch của hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm: * Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh : Là những hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho các doanh nghiệp Nhà nước. Việc ký kết hợp đồng kinh tế giữa những đơn vị kinh tế được giao nhiệm vụ kế hoạch là nghĩa vụ, là kỷ luật của Nhà nước. Hợp đồng này mang tính kế hoạch cao, vì thế, tính tự nguyện và bình đẳng giữa các chủ thể của hợp đồng bị hạn chế. Tuy nhiên, trong cơ chế mới loại hợp đồng này không còn được áp dụng phổ biến nữa mà chỉ những doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích mới thực hiện nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao. * Hợp đồng kinh tế thông thường : Loại hợp đồng này được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi . Việc ký kết hợp đồng là quyền tự do ý chí của các đơn vị kinh tế , không một tổ chức hay cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho các đơn vị kinh tế khác. Trong cơ chế mới này, loại hợp đồng này được áp dụng rất phổ biến. 3.4 Căn cứ vào nội dung giao dịch của quan hệ hợp đồng gồm: * Hợp đồng mua bán hàng hoá Là hợp đồng mà theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá và quyền sở hữu đối với hàng hoá đó cho bên mua theo đúng điều kiện đã thoả 10 thuận trong hợp đồng, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và thanh toán tiền hàng. Quan hệ hợp đồng này là quan hệ trao đổi hàng hoá, gọi là quan hệ hàng hoá - tiền tệ * Hợp đồng vận chuyển hàng hoá Là hợp đồng mà theo đó bên vận tải hàng hoá có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá nhất định đến địa điểm đã ấn định để giao cho bên nhận hàng, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cho bên vận tải một khoản tiền nhất định gọi là cước phí vận chuyển. * Hợp đồng xây dựng cơ bản : Là hợp đồng kinh tế trong đó bên nhận thầu có nghĩa vụ xây dựng và bàn giao cho bên giao thầu toàn bộ công trình theo đúng đồ án thiết kế và thời hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng, còn ben giao thầu có nghĩa vụ bàn giao mặt bằng xây dựng , các bản thiết kế và đầu tư xây dựng đúng tiến độ đồng thời có nghĩa vụ nghiệm thu công trình và thanh toán cho bên nhận thầu. Hợp đồng này mang tính chất đền bù. * Hợp đồng dịch vụ : Là hợp đồng kinh tế theo đó bên cung cáp dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện hành vi nhất định phù hợp với ngành nghề đã đăng ký để thoả mãn nhu cầu của bên thuê dịch vụ và được hưởng khoản tiền công nhất định gọi là phí dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả dịch vụ và thanh toán cho bên thuê dịch vụ phí như đã thoả thuận. Tóm lại, trên đây là những hợp đồng kinh tế cụ thể được áp dụng phổ biến trong thực tiễn đời sống kinh tế của nước ta hiện nay. 4. Nguồn văn bản hiện hành của chế độ hợp đồng kinh tế 1- Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1960 ban hành điều lệ về hợp đồng kinh doanh. 2- Nghị định 04/TTg ngày 04/1/1960 ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. 11 3- Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế 4- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 5- Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng qui định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế 6- Quyết định 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ 1. Chế độ ký kết về hợp đồng kinh tế 1.1 Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế Theo điều 3 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế : "Để bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo vệ lợi ích của xã hội, việc ký kết hợp đồng kinh tế được pháp luật quy định, phải tuân theo những nguyên tắc nhất định được quy định trong chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế" thì ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân thủ các nguyên tắc sau : 1.1.1 Nguyên tắc tự nguyện Nguyên tắc này là quyền tự do ý chí (tự do khế ước) của các chủ thể kinh doanh được pháp luật cho phép để làm phát sinh quan hệ hợp đồng kinh tế mà không có sự áp đặt ý chí của các bên với nhau hoặc của tổ chức, cá nhân khác nhau. Việc tham gia hợp đồng hay không là do các bên toàn quyền định đoạt. Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng kinh tế giữa bên này đối với bên kia - đều làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu.Do đó, tự nguyện là nguyên tắc bắt buộc phải có và cũng là nguyên tắc của hầu hết các loại hợp đồng. Theo nguyên tắc này , việc ký kết hợp đồng kinh tế phải là mong muốn thực sự của các bên tham gia nhằm đạt được mục đích nhất định. Theo đó, các bên có quyền lựa chọn bạn hàng, lựa chọn địa chỉ cung ứng vật tư, thời điểm ký kết hợp đồng cũng như nội dung ký kết.... Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ được coi 12 là hình thành và có giá trị pháp lý nếu có sự thoả thuận giữa các bên được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên. Tại điều 4 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế qui định : "Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho đơn vị kinh tế khi ký kết hợp đồng. Không một đơn vị nào được phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật". Đây là một quy định thể hiện sự đổi mới rõ rệt của chế độ hợp đồng kinh tế , nhằm đảm bảo thực sự quyền tự chủ, tự do ký kết hợp đồng, đó là "quyền của các chủ thể - chứ không phải là "nghĩa vụ" của họ như trước đây. Nguyên tắc này không áp dụng đối với hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, bởi vì theo loại hợp đồng này bị chỉ tiêu pháp lệnh chi phối rất cao. Và hiện nay, quyền tự do giao kết hợp đồng kinh tế chỉ bị giới hạn bởi các điều kiện sau : - Việc ký kết hợp đồng kinh tế phải phục vụ hoạt động kinh doanh đã đăng ký, tức là các chủ thể chỉ được hoạt động kinh doanh trong phạm vi chức năng của mình. - Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật , có nghĩa các bên không được làm những gì mà pháp luật cấm. - Việc ký hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là bắt buộc, tức là các đơn vị kinh tế Nhà nước giao cho chỉ tiêu pháp lệnh thì có nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đó. Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay Nhà nước chỉ can thiệp vào các quan hệ hợp đồng kinh tế bằng pháp luật chứ không dùng mệnh lệnh hành chính như trước đây nữa. 1.1.2 Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi Theo nguyên tắc này, khi ký kết hợp đồng kinh tế , các chủ thể hợp đồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau mà pháp luật qui định để thoả thuận 13 những vấn đề mà các bênquan tâm nhằm đạt được mục đích cuối cùng là thiết lập quan hệ hợp đồng kinh tế, hay nói cách khác , các chủ thể có vai trò như nhau dù họ có địa vị pháp lý khác nhau. Biểu hiện của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên được thể hiện ngay trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Các bên đều có quyền đưa ra yêu cầu của mình và cũng có quyền chấp nhạn hay không chấp nhận ý kiến của bên kia. Thực hiện nguyên tắc này không phụ thuộc quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của các chủ thể hợp đồng, bát kể họ thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý, thì khi ký hợp đồng điều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ được coi là hình thành khi các bên thống nhất ý chí với nhau về tất cả các điều khoản trong hợp đồng. Tuy nhiên, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ở đây phải song hành với tư tưởng hai bên cùng có lợi nhưng không nhất thiết các bên phải lợi ích như nhau mà mỗi bên đều có lợi ích riêng theo mục đích của mình, đồng thời, nó đòi hỏi các bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau, không thể để lợi ích của bạn hàng lấn át lợi ích của mình và ngược lại không để lợi ích của mình lấn át lợi ích của bạn hàng. Vì thế, đây chính là tư tưởng giúp cho quan hệ được làm ăn lâu dài. 1.1.3 Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm vật chất và không trái pháp luật - Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản có nghĩa là nếu có vi phạm hợp đồng kinh tế, thì bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm trả tiền phạt và bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra) cho bên bị vi phạm bằng chính tài sản của mình mà không phụ thuộc vào cơ quan, tổ chức, cá nhân có lỗi đã gây ra vi phạm đó, trừ các trường hợp miễm giảm trách nhiệm vật chất. Có nghĩa là, khi hợp đồng kinh tế được ký kết thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Nguyên tắc này 14 được qui định trong Điều 29 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 21 Nghị định 17/HĐBT đã dẫn. Đây là một điểm mới của hợp đồng kinh tế theo pháp luật hiện hành. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp, nếu trong quan hệ hợp đồng kinh tế mà có vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm không chịu trách nhiệm với bên kia mà chịu trách nhiệm trước Nhà nước như là một hình thức vi phạm kỷ luật Nhà nước. - Nguyên tắc không trái pháp luật đòi hỏi chủ cụ thể, hình thức thủ tục ký két và nội dung hợp đồng kinh tế phải hợp pháp (tuân thủ đúng các quy định của pháp luật). Mọi vấn đề kể trên mà trái vơi squy định của pháp luật đều làm cho hợp đồng đó trở thành vô hiệu và có thể gây ra thiệt hại về mặt vật chất cho các bên và cho cả Nhà nước. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự kỷ cương pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế. Các bên được tự do thoả thuận ý chí nhưng điều đó không có nghĩa các bên muốn thoả thuận với nhau về điều gì cũng được. í chí đó phải phù hợp với pháp luật 1.2 Chủ thể hợp đồng kinh tế Những tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật tham gia hợp đồng kinh tế có quyền và nghĩa vụ đối với nhau gọi là chủ thể hợp đồng kinh tế. Theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế , chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong quan hệ hợp đồng kinh tế pháp nhân là một bên chủ thể ký kết hợp đồng, còn ben kia có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Pháp nhân phải là tổ chức có các điều kiện sau : + Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. + Có cơ cấu tổ chức thống nhất. + Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. 15 + Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật môt cách độc lập (điều 94, Bộ luật dân sự) Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đó là các hộ kinh doanh cá thẻ được qui định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ, hoặc các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh theo quy định của luật doanh nghiệp 12/6/1999. Như vậy, những hợp đồng được ký kết giữa các cá nhân với nhau không được gọi là hợp đồng kinh tế và nếu tranh chấp xẩy ra sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, theo qui định tại điều 42 , 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và thông tư số 11/TT/PL ngày 25/5/1992 của Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế mở rộng điều kiện cho phép pháp nhân có thể xác lập hợp đồng kinh tế với tổ chức, cá nhân nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam, các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh) , hộ kinh doanh cá thể, người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ nông dân, ngư dân ca thể nếu nội dung của hợp đồng không nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dùng, thuê lao động. Để hình thành quan hệ hợp đồng kinh tế thì phải có sự tham gia ký kết của các bên chủ thể hợp đồng kinh tế . Thay mặt cho các bên chủ thể hợp đồng kinh tế đó cần phải có một người đại diện để ký kết hợp đồng kinh tế. Theo điều 9 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì đại diện ký kết hợp đồng kinh tế có hai loại : * Đại diện thương nhân : Đó là người đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh . Đối với pháp nhân, đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và hiện đang giữ chức vụ gì đó (Điều 52 Nghị định 17/HĐBT ) . Đối với doanh 16 nghiệp tư nhân là chủ doanh nghiệp hoặc người được doanh nghiệp thuê làm giám đốc. Đối với cá nhân là chính người đó, đối với hộ kinh doanh cá thể, hộ kinh tế gia đình là chủ hộ. Người đứng tên đăng ký kinh doanh là người đứng tên xin cấp giấy phép đăng ký kinh doanh , được cấp giấy kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có tên. * Đại diện theo uỷ quyền Là người được đại diện đương nhiên uỷ quyền thay mình ký kết hợp đồng kinh tế theo quy định của pháp luật . Việc uỷ quyền này phải được thể hiện bằng văn bản. Trước khi ký kết hợp đồng kinh tế , người được uỷ quyền phải trình giấy uỷ quyền cho bên đối tác kiểm tra uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc thường xuyên. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về việc uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền chỉ được hành động trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba. 1.3. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế Để tuân thủ pháp luật, đảm bảo sự quảnlý của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của các bên ký kết hợp đồng, theo Điều 10 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì việc ký kết hợp đồng kinh tế phải dựa vào các căn cứ sau : 1.3.1 Định hướng kế hoạch Nhà nước, các chính sách , chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành. Đây là những mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc từng ngành kinh tế kỹ thuật hoặc cho từng địa phương xác định cho từng thời kỳ, và cũng là căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hay nói cách khác đây là căn cứ mang tính pháp lý thể hiện sự tuân thủ pháp luật của hợp đồng kinh tế. 1.3.2. Nhu cầu thị trường, đơn chào hàng, đơn đặt hàng của bạn hàng Các hoạt động kinh tế , quan hệ kinh tế trong nền kinh tế bị quy luật giá trị, quy luật cung cầu chi phối. Điều đó đòi hỏi hợp đồng kinh tế phải luôn luôn phù hợp với thị trường thì mới phát huy được vai trò của nó. Là cái cầu 17 nối giữa sản xuất với thị trường; giúp cho sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường tức là giúp cho cung cầu gặp nhau. Vì vậy, đòi hỏi các chủ thể hợp đồng kinh tế khi ký kết hợp đồng kinh tế phải lấy nhu cầu thị trường để làm căn cứ nội dung hợp đồng cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là căn cứ mang tính thực tiễn thể hiện nhu cầu thực sự của việc ký kết hợp đồng kinh tế, bảo đảm tính khả thi của hợp đồng. 1.3.3 Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mình. Nhà nước qui định căn cứ khả năng phát triển sản xuất kinh doanh để tránh tình trạng các chủ thể kinh doanh ký kết hợp đồng kinh tế chỉ vì lợi ích riêng mà bất chấp pháp luật, bất chấp khả năng và thực lực của mình . Đây cũng là căn cứ vào khả năng về vốn, vật tư, năng suất lao động hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ để làm cơ sở quyết định cho những cam kết trong hợp đồng được thực hiện. Căn cứ vào chức năng hoạt động kinh tế tức là căn cứ vào nội dung hoạt động trong các ngành nghề , lĩnh vực mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh. - Như vậy, đây là căn cứ để chứng minh địa vị pháp lý hợp pháp của các tổ chức kinh tế, đồng thời khẳng định tính thực tiễn bảo đảm của hợp đồng. 1.3.4. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo tài sản của cac bên cùng ký kết. Căn cứ này chứng minh hoạt động của các bên chủ thể tiến hành không trái với quy định của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc trực tiếp, chịu trách nhiệm tài sản theo qui định của pháp luật. Đây là căn cứ rất quan trọng đối với việc đảm bảo hiệu lực của hợp đồng kinh tế , tránh tình trạng vi phạm hợp đồng, chiếm dụng vốn của nhau. 1.4. Nội dung của hợp đồng kinh tế 18 Nội dung của hợp đồng kinh tế là toàn bộ những gì mà hai bên thoả thuận, thể hiện và nghĩa vụ của các bên ràng buộc với nhau trong quan hệ hợp đồng. Thông thường về mặt pháp lý, nội dung của hợp đồng kinh tế được thể hiện ở ba loại điều khoản. Một là, điều khoản thường lệ - Là những điều khoản mà nội dung đã được pháp luật qui định mà nếu các bên không ghi vào hợp đồng thì coi như mặc nhiên thừa nhận và phải có trách nhiệm thực hiện các qui định đó như đã thoả thuận . Ngược lại nếu ghi vào hợp đồng thì không được thoả thuận trái với quy định đó. Ví dụ : Điều khoản về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, về bồi thường thiệt hại.v.v.... Như vậy, các bên tham gia có thể thoả thuận hay không thoả thuận các điều khoản thường lệ thì hợp đồng vẫn hình thành khi đã có đủ các điều khoản chủ yếu. Hai là, điều khoản chủ yếu : Là những điều khoản cơ bản quan trọng nhất của hợp đồng mà bắt buộc các bên phải thoả thuận và ghi vào hợp đồng, nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý. Theo điều 12 pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đã dẫn) các điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm : - Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên; họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh. Điều khoản này gọi là điều khoản hình thức của hợp đồng, là điều khoản chủ yếu mà thiếu nó thì văn bản hợp đồng không có giá trị pháp lý, mà vấn đề pháp lý nổi bật nhằm đảm bảo cho hợp đồng các bên ký kết tuân theo chế độ hợp đồng kinh tế đó là điều kiện về địa vị pháp lý của các bên tham gia hợp đồng kinh tế. 19 - Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận: Điều khoản này nhằm trả lời câu hỏi cái gì? và bao nhiêu? khi các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế. - Chất lượng, chủng loại, qui cách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc, theo các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm thì chất lượng sản phẩm bao gồm các mặt như phẩm chất, qui cách , chủng loại, bao bì đóng gói kể cả màu sắc. Như vậy, các hàng hoá, công việc trong hợp đồng đã được xác định bởi các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, qui cách và chủng loại của Nhà nước thì các bên tham gia phải lấy đó làm cơ sở của việc ký kết, nếu thấy khác thì cần phải lấy đó làm cơ sở của việc ký kết, nếu thấy khác thì cần phải sửa đổi còn đối với các sản phẩm, hàng hoá, công việc trong hợp đồng mà chưa có tiêu chuẩn chất lượng cụ thể thì nhất thiết phải ghi rõ trong hợp đồng việc thoả thuận về chất lượng hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật công việc. - Giá cả: Điều khoản này là điều khoản mà các bên thoả thuận về đơn giá, các phụ phí, tỷ lệ phần trăm hoa hồng. Khi thoả thuận điều khoản này các bên có thể thoả thuận cả khả năng điều chỉnh giá khi đó biến động giá cả của thị trường. Trừ trường hợp, sản phẩm, hàng hoá đó do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quy định giá hoặc khung giá thoả thuận trong hợp đồng kinh tế. - Phương thức thanh toán : Đây là điều khoản các b ên cần thoả thuận về các hình thức và thể thức thanh toán cũng như thời hạn thanh toán trong hợp đồng kinh tế. Ngoài ra, các điều khoản khác liên quan trực tiếp đến đặc điểm của từng loại hợp đồng kinh tế cũng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế đó. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế, đặc biệt là điều khoản về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, công việc và về giá cả phải được ghi rõ ràng, cụ thể theo quy định của pháp luật. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan