Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hôn nhân của người sán dìu ở xã ninh lai, huyện sơn dương, tỉnh tuyên quang...

Tài liệu Hôn nhân của người sán dìu ở xã ninh lai, huyện sơn dương, tỉnh tuyên quang

.PDF
123
220
56

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THU HIỀN HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI, HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG Chuyên ngành: Dân tộc học Mã số : 60 31 03 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ HÀ NỘI, 2017 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THU HIỀN HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI, HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG Chuyên ngành: Dân tộc học Mã số : 60 31 03 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ HÀ NỘI, 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................................1 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ............9 1. 1. Cơ sở lý luận ..........................................................................................................9 1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ...........................................................................12 Chương 2. HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI TRƯỚC ĐỔI MỚI (1986) ..................................................................................................................20 2.1. Quan niệm về hôn nhân ........................................................................................20 2.2. Nguyên tắc hôn nhân.............................................................................................20 2.3. Nguyên tắc và hình thức kết hôn ..........................................................................24 2.4. Nghi lễ trong hôn nhân .........................................................................................30 CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỔI TRONG HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY ...........................................................................................................57 3.1. Biến đổi trong đặc điểm và quan niệm hôn nhân của người Sán Dìu ..................57 3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi ................................................................................66 3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị hôn nhân ..............................................................71 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU GS Giáo sư H Hà Nội KHXH Khoa học Xã hội NXB Nhà xuất bản PGS Phó Giáo sư Ths Thạc sĩ TS Tiến sĩ VHDT Văn hóa dân tộc UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hóa Việt Nam đã hình thành và phát triển, thông qua các hoạt động lao động sáng tạo, nhân dân ta đã xây đắp, tạo dựng nên một nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc, minh chứng cho sức sống mãnh liệt và trường tồn của dân tộc qua hàng nghìn năm. Do vậy, bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa luôn là một chiến lược quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế - xã hội trong cả nước nói chung cũng như vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Người Sán Dìu là một trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú lâu đời và sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi phía Bắc. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Sán Dìu ở Việt Nam có dân số 146.821 người. Địa bàn cư trú chủ yếu là tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Dương... Ở Tuyên Quang, người Sán Dìu sống tập trung đông nhất ở các xã Hợp Thành, Sơn Nam, Ninh Lai của huyện Sơn Dương và Sán Dìu là một trong 22 dân tộc các dân tộc thiểu số nói chung, người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng sinh sống từ rất lâu đời, và gắn bó với mảnh đất Tuyên Quang. Trong quá trình phát triển, đồng bào đã hình thành các cách ứng xử hài hòa với con người, xã hội và thiên nhiên, thực hành nhiều sinh hoạt văn hóa và phong tục tập, quán độc đáo, góp phần tạo nên nền văn hóa riêng của tộc người và nền văn hóa chung của quốc gia đa dân tộc. Khi nói đến hôn nhân là đề cập tới những lĩnh vực liên quan như: Đặc điểm lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, nghi lễ của các dân tộc. Tùy theo từng tộc người mà có những đặc trưng chung và riêng, phản ánh đậm nét nhiều mặt trong đời sống vật chất và tinh thần của tộc người. Với người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, từ lâu hôn nhân đã trở thành một nét đẹp văn hóa, những nghi lễ trong hôn nhân cũng rất được coi trọng, bởi nó chứa đựng các giá trị văn hóa cội nguồn của tộc người Sán Dìu. Với người Sán Dìu, hôn nhân không chỉ gắn liền với đời sống tâm linh mà còn đánh dấu một sự kiện quan trọng trong bước đường đời của mỗi dân tộc. Từ trước đến nay có rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu về hôn nhân của người Sán Dìu, song do người Sán Dìu sống ở từng vùng miền khác nhau trong cả nước nên văn hóa, nghi lễ trong hôn nhân cũng có những nét khác nhau. 1 Bên cạnh đó, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của các tộc người trong đó có hôn nhân của người Sán Dìu, họ phải tự mình thay đổi để bắt kịp với xu hướng của thời đại mới. Nhưng sự biến đổi không đồng nghĩa với việc đánh mất hay bị lãng quên đi những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Do đó, nghiên cứu về hôn nhân để có giải pháp bảo tồn, gìn giữ những tập quán mang giá trị nhân văn cao đẹp góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là việc hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Là người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tuyên Quang, hiện đang công tác tại Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu, tìm hiểu phong tục tập quán của người Sán Dìu, song những hiểu biết về văn hóa truyền thống của người Sán Dìu vẫn còn hạn chế, đặc biệt mình là cán bộ làm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của 22 dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang nên tôi quyết định chọn đề tài luận văn: “Hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang” để làm đề tài tốt nghiệp thạc sĩ, với mong muốn nghiên cứu và tìm hiểu về hôn nhân của tộc người Sán Dìu, giúp tôi bổ sung thêm kiến thức về phong tục, tập quán, nghi thức, nghi lễ cưới xin của dân tộc Sán Dìu một cách có hệ thống. Đồng thời, qua đó có những đề xuất và giải pháp cụ thể trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của tộc người, để hôn nhân của người Sán Dìu vừa mang màu sắc tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc thiểu số có nền văn hóa đặc sắc, mang giá trị nhân văn cao đẹp, thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là qua các phong tục, tập quán, nghi lễ của tộc người. Do vậy, đã có nhiều tác giả, nhà nghiên cứu dân tộc học, nhà khoa học quan tâm và dày công nghiên cứu về tộc người này. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, kể cả sách báo cũng như các tạp chí đã nêu bật được tổng tổng thể bức tranh văn hóa của người Sán Dìu trên các vùng miền của cả nước, trong đó có hôn nhân của người Sán Dìu. 2.1. Tình hình nghiên cứu các tác giả nước ngoài Vấn đề hôn nhân của con người từ lâu đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin đề cập đến tong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và 2 của nhà nước” [2]. Trong tác phẩm này, F. Ăng ghen đã khái quát hôn nhân gắn với các giai đoạn lịch sử của nhân loại, từ thời kỳ tiền sử đến thời kỳ bộ lạc, thời kỳ phát sinh nhà nước đầu tiên cho đến khi hình thành nhà nước hoàn chỉnh. Qua sự phân tích và khái quát của F. Ăng ghen về hôn nhân và gia đình gắn liền với sự biến đổi và phát triển của các giai đoạn lịch sử cho thấy, có ba thời kỳ gắn với ba hình thức đó là: Thời kỳ mông muội là chế độ quần hôn; thời đại dã man là chế độ hôn nhân đối ngẫu; và thời đại văn minh là hôn nhân một vợ một chồng. Có thể nói, đây là một tác phẩm nghiên cứu về hôn nhân tổng quan nhất, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về hôn nhân. 2.2. Tình hình nghiên cứu của các tác giả trong nước về văn hóa của người Sán Dìu 2.2.1. Các nghiên cứu về văn hóa, gia đình của người Sán Dìu Một trong những công trình nghiên cứu sớm nhất có đề cập đến người Sán Dìu là Kiến văn tiểu lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (1723-1782). Trong công trình này tác giả có nhắc đến các tộc người ở xứ Tuyên Quang. Trong 07 chủng tộc người Man, có chủng tộc Sơn Man1, được các nhà khoa học lý giải rằng: “Man tức là Dao, và như vậy Sơn Man tức là Sơn Dao hay cũng chính là Sán Dìu2". Cuốn sách Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) được Viện Dân tộc học xuất bản năm 1979 đã trình bày cơ bản một cách khái quát về bức tranh tộc người Sán Dìu ở Việt Nam như: Lịch sử tộc người, văn hóa mưu sinh, văn hóa vật chất qua nhà ở, trang phục, ẩm thực và văn hóa tinh thần: Cưới xin, ma chay... Năm 2003, tác giả Ngô Văn Trụ và Nguyễn Xuân Cần đã (Chủ biên) cho xuất bản cuốn sách Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang. Cuốn sách này bước đầu đã mô tả một bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Bắc Giang: Từ nguồn gốc, tên gọi, địa bàn cư trú đến các hoạt động kinh tế truyền thống, ẩm thực, trang phục truyền thống, các phong tục nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người. Tác giả Diệp Trung Bình với Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam (2005) đã mô tả một cách toàn diện các nghi lễ trong chu kỳ đời người người Sán Dìu nói chung từ khi sinh ra đến khi mất đi. Đồng thời tác giả cũng đã có những ý kiến đánh giá về giá trị văn hóa và những biến đổi về văn hóa của tộc người Sán Dìu được thể hiện qua nghi lễ vòng đời người. Trên tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 89, năm 2006, hai tác giả Đàm Thị Uyên và Nguyễn Thị Hải đã có bài viết Tín ngưỡng trong cư trú của người Sán Dìu ở Thái 1 2 Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn Tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.335. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.9. 3 Nguyên. Bài báo đề cập đến các vấn đề tổ chức xã hội và những quan niệm ý thức và niềm tin, các nghi lễ thực hành tín ngưỡng của người Sán Dìu trong tập quán cư trú gắn với môi trường, cảnh quan cư trú của họ. Trong cuốn Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người Sán Dìu ở Việt Nam, tác giả Diệp Trung Bình (2011) đã giới thiệu những đặc trưng văn hóa của tộc người Sán Dìu ở Việt Nam qua hệ thống những tri thức dân gian của đồng bào liên quan đến sinh đẻ, nuôi dạy con cái và sự trưởng thành, cưới xin, tang ma. Tác giả cũng đưa ra những so sánh và những giá trị truyền thống và hiện đại, những biến đổi lớn trong bản sắc văn hóa của người Sán Dìu ở nước ta hiện nay. Diệp Trung Bình cũng đã sưu tầm và biên dịch những làn điệu dân ca của tộc người Sán Dìu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày và những lời hát đối đáp trong đám cưới. Cuốn Người Sán Dìu ở Việt Nam của tác giả Ma Khánh Bằng, xuất bản năm 1983 là một bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu và trình bày một cách khái quát tổng thể về dân tộc Sán Dìu: Từ tên gọi, lịch sử hình thành và phát triển đến cách tổ chức đời sống, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần cùng các phong tục tập quán làm nên các giá trị văn hóa riêng của tộc người Sán Dìu ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định tộc người Sán Dìu là “Một tộc người với dân số ít, tiếp thu văn hóa của nhiều dân tộc khác, song vẫn luôn ý thức được mình là một dân tộc”. Trong cuốn “Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc” (2009) của tác giả Lâm Quý, đã khảo cứu dân tộc học về lịch sử dân cư, tập quán sản xuất, sinh hoạt xã hội, ngôn ngữ, chữ viết, kiến trúc, mỹ thuật, âm nhạc dân gian, phong tục, lễ hội... nhằm giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về văn hóa các dân tộc ở Vĩnh Phúc với bản sắc truyền thống riêng. Đồng thời, tác giả cũng cảnh báo những nguy cơ làm mai một bản sắc các dân tộc thiểu số. Từ đó, đưa ra một vài khuyến nghị về vấn đề về giữ gìn, bảo tồn, khai thác, phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc: Sán Dìu, Cao Lan và Dao ở Vĩnh Phúc. Năm 2011, tác giả Chu Thái Sơn đã xuất bản cuốn sách Dân tộc Sán Dìu, giới thiệu sơ lược lịch sử dân tộc, cuộc sống lao động, tập quán sinh hoạt, phong tục cổ truyền, đời sống tâm linh và cuộc sống hiện nay của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Tác giả Nguyễn Thị Quế Loan cũng đã dày công nghiên cứu một khía cạnh văn hóa của người Sán Dìu Thái Nguyên trong luận án tiến sĩ Tập quán ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên. Luận án đã trình bày về nguồn gốc lương thực và thực 4 phẩm truyền thống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, cách chế biến các món ăn, đồ uống, đồ hút truyền thống, sự tiếp thu các món ăn, đồ uống, đồ hút của các dân tộc khác, các yếu tố xã hội trong ăn uống, những biến đổi trong tập quán ăn uống của người Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Cùng một vấn đề trên, tác giả Nguyễn Thị Quế Loan còn có bài viết Biến đổi trong tập quán ăn uống của người Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên trên Tạp chí Dân tộc học, số 2, trang 13, năm 2008. Lê Minh Chính cũng có công trình nghiên cứu về người Sán Dìu huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên dưới góc độ y học: Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp. Trên cơ sơ đó, các bài viết của Nguyễn Thị Quế Loan và Lê Minh Chính đã cung cấp cho người đọc những sắc thái văn hóa của tộc người. 2.2.2. Các nghiên cứu về gia đình và hôn nhân của người Sán Dìu ở Tuyên Quang Năm 2007, Sở Văn hóa - Thông tin Tuyên Quang đã xuất bản cuốn sách Bước đầu tìm hiểu dân ca dân tộc Tày, Sán Dìu và Cao Lan. Trong cuốn sách này đã đề cập tới những làn điệu hát Soọng cô của tộc người Sán Dìu trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và những lời hát đối đáp trong lễ cưới để từ đó đưa ra những khuyến nghị về việc bảo tồn, phát huy các làn điệu dân ca của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cuốn sách này cũng là một nguồn tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo, hoàn thiện bản luận văn này. Năm 2016, tác giả Hoàng Phương Mai cũng đã dày công nghiên cứu một khía cạnh gia đình của người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo, trong luận án tiến sĩ nhân học Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo; các bài viết đăng trên tạp chí Dân tộc học: Các chức năng cơ bản của gia đình người Sán Dìu ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (2012), Tạp chí Dân tộc học, Số 5&6; Truyền thống và những biến đổi trong nghi lễ cưới xin của người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang (2013), Tạp chí Văn hóa học, số 2; Phân loại cấu trúc, quy mô của gia đình người Sán Dìu (Nghiên cứu tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, 2015), Tạp chí Dân tộc học, Số 1&2. Thông qua bài viết của mình, tác giả đã trình bày về gia đình truyền thống và những biến đổi của người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo, chỉ rõ những biến đổi của gia đình người Sán Dìu, đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến biến đổi; làm rõ vai trò của gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tộc người Sán Dìu. 5 Có thể nói, tất cả các công trình đã đề cập nêu trên là nguồn tư liệu có giá trị để luận văn này tham khảo, song vấn đề đặt ra là các công trình nêu trên chủ yếu chỉ là những mô tả dân tộc học, đã có ít nhiều công trình chú ý phân tích để làm rõ đặc trưng văn hóa của tộc người Sán Dìu, những vấn đề biến đổi đang đặt ra trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa song nghiên cứu về hôn nhân của người Sán Dìu tại một địa bàn cụ thể là xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang để thấy được các giá trị văn hóa tộc người, truyền thống và biến đổi; và những vấn đề đặt ra của hôn nhân đối với Luật Hôn nhân và gia đình; công cuộc xây dựng đời sống nông thôn mới mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện thì chưa được quan tâm và nghiên cứu một cách sâu sắc, triệt để. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Giới thiệu tương đối toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những đặc điểm và nghi lễ trong hôn nhân truyền thống và biến đổi của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trước và sau khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới (1986), để từ đó thấy được đặc trưng văn hóa của tộc người. - Nêu lên những biến đổi và một số yếu tố tác động đến sự biến đổi trong hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bước đầu, đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trong xây dựng nông thôn mới và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trong đó, các đối tượng cụ thể được quan tâm hơn là những người trong độ tuổi hôn nhân, những người cao tuổi hiểu biết rõ về các phong tục, tập quán, nghi lễ trong hôn nhân và các nhà tuyên truyền, thực hiện và hoạch định chính sách. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu chính của luận văn là tập trung nghiên cứu các vấn đề về đặc điểm, nghi thức, phong tục, tập quán kiêng kị, nghi lễ truyền thống và hiện nay, xu hướng biến đổi liên quan đến hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. 6 Về phạm vi thời gian, nghiên cứu tập trung miêu tả hôn nhân của người Sán Dìu trước, trong và sau thời kỳ đổi mới (1986). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài căn cứ vào những quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc. Bên cạnh đó để phân tích và lí giải rõ hơn về hôn nhân của người Sán Dìu, đề tài hướng tới sử dụng 2 lý thuyết cơ bản là lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa, lý thuyết chức năng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: - Để thực hiện luận văn này, tác giả đã thực hiện 05 cuộc điền dã, tham dự 03 đám cưới tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017. Tại địa bàn nghiên cứu, tác giả đã cùng ăn, cùng ở và tham dự một số lễ dạm ngõ, ăn hỏi đến kết thúc một đám cưới của người Sán Dìu. Trong thời gian đó, tác giả luôn tận dụng thời gian có thể, áp dụng các công cụ như phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đối với các đối tượng liên quan, trong đó chú trọng đến những người am hiểu về phong tục tập quán trong hôn nhân, những người làm nghề thầy cúng, các ông mối, bà mối, những người là cô dâu chú rể, bố mẹ cô dâu chú rể, trưởng các dòng họ, người trong hai đoàn đưa đón dâu, những người tham dự đám cưới... đồng thời, chụp ảnh về các sự kiện diễn ra xung quanh hôn lễ của người Sán Dìu. - Tổng quan, kế thừa các tư liệu sẵn có như: Luận văn đã tham khảo, kế thừa những công trình nghiên cứu trước, luận án, luận văn, tài liệu của tác giả trong và ngoài nước, nhất là các cuốn sách, ấn phẩm về hôn nhân nói chung và hôn nhân của người Sán Dìu nói riêng đã công bố thông qua nguồn tư liệu tham khảo này, tác giả luận văn có thêm luận cứ để so sánh, đối chiếu nhằm thấy được sự tương đồng và khác biệt với một số cộng đồng người Mường, Kinh, Thái sống cộng cư. Đồng thời, tác giả sử dụng nguồn tài liệu của địa phương mà tác giả có thể tiếp cận được trong quá trình điền dã tại địa bàn nghiên cứu, nhất là các báo cáo của địa phương về điều kiện địa lý, đặc điểm dân cư, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của xã Ninh Lai, của huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Tác giả thực hiện các cuộc trao đổi trực tiếp với cán bộ phụ trách về Tư pháp; Văn hóa, những người làm công tác Đảng và công tác chính quyền, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ... (cấp xã, bản), các cụ già, trưởng họ, 7 những người trong độ tuổi kết hôn, những người am hiểu về phong tục, tập quán và những kinh nghiệm của họ đối với vấn đề nghiên cứu; đồng nghiệp ở cơ quan. - Sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn thông tin, số liệu thu thập được để hoàn thành luận văn theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về các nghi thức, nghi lễ trong hôn nhân của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Phản ánh chân thực đời sống văn hóa của dân tộc này thông qua các nguyên tắc, đặc điểm, các nghi lễ biến đổi trong hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai được luận văn đặc biệt chú trọng và tập trung phân tích. Đồng thời, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đạt được luận văn khẳng định những giá trị tốt đẹp, những mặt hạn chế, lạc hậu trong hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Từ nghiên cứu về nghi thức hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Luận văn sẽ góp phần bổ sung nhiều tư liệu mới và chỉ ra những yếu tố nội sinh cũng như quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa trong lĩnh vực hôn nhân của người Sán Dìu. - Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp là cơ sở khoa học quan trọng giúp chính quyền địa phương trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của tộc người Sán Dìu trong bối cảnh CHH - HĐH và xây dựng đời sống nông thôn mới hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục, luận văn được cơ cấu gồm 3 chương: Chương 1 - Cơ sở lý luận và khái quát về địa bàn nghiên cứu. Chương 2 - Hôn nhân của người Sán Dìu (trước thời kỳ đổi mới 1986). Chương 3 - Hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai từ đổi mới đến nay Quá trình biến đổi, nguyên nhân và những vấn đề đang đặt ra. 8 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1. 1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản - Hôn nhân: Khi nghiên cứu về hôn nhân, Emily A.schultz và Robobert H.Lavenda (2001) cho rằng: “Hôn nhân là một quá trình xã hội mà mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà, là một sự kiện làm biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và những khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm" [28, tr. 342]. Theo hai tác giả, hôn nhân cũng nên tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng [28, tr. 343]. Trong Từ điển tiếng Việt, hôn nhân được định nghĩa là việc kết hôn giữa nam và nữ [70, tr. 712]. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của nước ta, tại Điều 8, khẳng định: "Hôn nhân là là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn" [46, tr. 12]. Còn theo Từ điển Nhân học, "Hôn nhân là mối quan hệ gắn bó được thừa nhận về mặt xã hội giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm mục đích duy trì nòi giống một cách hợp pháp lập gia đình hạt nhân mới hoặc tạo ra hộ gia đình mới" [69, tr. 519]. Do vậy, có thể nói hôn nhân là hiện tượng xã hội, là một trong những đặc trưng cơ bản của văn hóa tộc người. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử hôn nhân đều trải qua những hình thức và tính chất khác nhau. - Nội hôn tộc người: Tác giả Emily A.Schultz và Robobert H. Lavenda (2001) cho rằng: "Nội hôn là khi người ta chỉ cho phép lấy người cùng một nhóm xã hội với mình" [28, tr. 308]. Trong đó, nội hôn tộc người là quy tắc chỉ kết hôn với người đồng tộc trong nhóm xã hội của mình. - Ngoại hôn dòng họ: Tác giả Emily A. Schultz và Robobert H. Laenda (2001) cho rằng: "Ngoại hôn là khi người ta kết hôn với người thuộc ngoài nhóm xã hội với mình. Và hôn nhân hỗn hợp tộc người là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn giữa hai người không cùng dân tộc" [28, tr. 308]. Trong đó, ngoại hôn dòng họ là quy tắc kết hôn ngoài dòng họ được luật tục hay tập quán quy định, khi người ta kết hôn với người ngoài nhóm xã hội với mình. - Hôn nhân đa thê: Là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn của khi người đàn ông cùng một lúc có hơn một vợ cùng một thời điểm, thì mối quan hệ này được gọi là đa thê. 9 - Hôn nhân phụ hệ: Là hình thức hôn nhân ra đời vào giai đoạn thị tộc phụ quyền phát triển. Trong hôn nhân phụ hệ vai trò của người đàn ông, chủ của gia đình được đề cao. - Hôn nhân đơn hôn: Là hình thái hôn nhân cá thể, hôn nhân 1 vợ 1 chồng. Hôn nhân đơn hôn có ở chế độ mẫu hệ và phụ hệ. Trong hôn nhân đơn hôn tính lợi ích giới được xem là một hình thái tiến bộ của nhân loại. Song, hiện nay trong hình thái hôn nhân đơn hôn phải tính tới tính bền vững cũng như sự xuất hiện của các yếu tố mới chẳng hạn như hôn nhân đồng tính [55, tr. 224]. - Hôn nhân 1 vợ 1 chồng: Là phong tục kết hôn chỉ với một người sống thủy chung một lần, được xác lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, theo đó, cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng. Đồng thời, trong thời kỳ hôn nhân, nam/nữ không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. - Nghi lễ hôn nhân: Nghi lễ hôn nhân được hiểu là các nghi lễ, nghi thức diễn ra theo phong tục, tập quán hoặc quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Nghi lễ hôn nhân là một thủ tục để khẳng định cuộc hôn nhân đó là hợp pháp, được gia đình, họ hàng, dòng tộc, cộng đồng công nhận, nó làm thay đổi địa vị xã hội của con người. Để tiến tới hôn nhân cũng như khi đã đạt được cuộc hôn nhân thì mỗi người đều phải trải qua những nghi lễ nhất định theo quy định mang tính tập tục, tập quán của tộc người hay nhóm tộc người mà mình là thành viên. Nghi lễ hôn nhân nhằm mục đích đảm bảo cho sự chứng kiến và sự công nhận từ phía cộng đồng, ngoài ra nó còn thực hiện các yếu tố tâm linh nhằm bảo đảm cho cuộc hôn nhân thuận lợi và bền vững. - Truyền thống: Thói quen hình thành đã lâu trong cuộc sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác [70, tr. 1055]. - Biến đổi: Là sự thay đổi thành khác trước hoặc sự thay đổi, điều thay đổi khác với trước [69, tr. 64]. Hôn nhân thuộc về những giá trị văn hóa phi vật thể, do đó nó cũng không phải yếu tố bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn. Trong bối cảnh hội nhập, cư trú đan xen hiện nay, biến đổi văn hóa của các tộc người, trong đó có hôn nhân là hoàn toàn tất yếu. - Bản sắc văn hóa tộc người: Bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần mang đặc tính chung và riêng của tộc người, giúp phân biệt tộc người này với tộc người khác và giữa nhóm địa phương trong cùng tộc người với nhau. Bản sắc văn hóa tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường tự nhiên trong đời sống của từng tộc 10 người và chúng có sức sống lâu bền, thậm chí ngay cả khi đời sống của tộc người có những thay đổi mạnh mẽ. Bản sắc văn hóa của tộc người còn thể hiện bản lĩnh của tộc người, yếu tố đặc trưng của tộc người. Trong quá trình phát triển, không ít hiện tượng văn hóa lúc đầu chỉ vay mượn, nhưng dần dần qua thời gian được “dân tộc hoá” “địa phương hóa”, được sử dụng và tái tạo theo cách riêng của tộc người để ít nhiều mang bản sắc văn hóa của tộc người đó. 1.1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu - Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa: Giao lưu, tiếp biến văn hóa là khái niệm được trường phái nhân học Anglo Saxon đưa ra vào cuối thế kỷ XIX, nhằm chỉ sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác, hệ quả của sự tiếp xúc này là sự thay đổi hay biến đổi của một số loại hình văn hóa ở cả hai nền văn hóa đó. Theo đó, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Vì thế, sự giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Các thành tố của nền văn hóa tuy có biến đổi, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính riêng biệt của mình… Qua quá trình tiếp xúc và giao lưu giữa hai nền văn hóa thì xã hội yếu hơn thường sẽ bị xã hội mạnh hơn tác động làm thay đổi [28, tr. 107-108]. Tiếp biến văn hóa còn được hiểu là quá trình biến đổi văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày cành trở nên giống nhau hơn. Quá trình này luôn có liên quan tới sự tương tác phức tạp với quá trình biến đổi xã hội [69, tr.12]. Như vậy, lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa cho thấy biến đổi là quá trình tất yếu của mọi sự vật và hiện tượng, trong đó bao gồm cả văn hóa tộc người. Ngày nay, dưới sự tác động của quá trình phát triển hiện đại hóa, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ thì sự giao lưu, biến đổi của các tộc người, các nền văn hóa là không tránh khỏi. Do đó, về mặt phương pháp luận, khi nghiên cứu về văn hóa tộc người Sán Dìu, trong đó bao gồm các quan niệm, nguyên tắc, hình thức, tập quán và nghi lễ hôn nhân thì chúng ta không chỉ xem xét như những đối tượng một cách biệt lập hay trong trạng thái tính, mà phải đặt chúng trong trạng thái động, liên tục biến đổi gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tộc người và của đất nước. - Thuyết chức năng: Theo Malinowski, văn hóa là cái nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh vật của mình, hơn nữa nó cải tạo môi trường xung quanh và tạo ra môi trường sản 11 xuất. Văn hóa là tổng thể những đáp ứng đối với nhu cầu cơ bản và nhu cầu sản xuất. Chính vì vậy, bất kì văn hóa nào trong tiến trình phát triển đều tạo ra một hệ thống cân bằng, ổn định, trong đó mỗi bộ phận của chỉnh thể đều được thực hiện chức năng của nó. Như vậy, thuyết này nhìn nhận chức năng cơ bản của văn hóa là để thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân về cả vật chất (kế sinh nhai, nhà ở, quần áo...) lẫn tâm lý (nghi lễ, tôn giáo, truyền thuyết...). Chính vì thế, nếu triệt tiêu một yếu tố nào đó trong văn hóa thì toàn bộ hệ thống văn hóa tộc người sẽ bị suy thoái và hủy hoại; truyền thống theo cách nhìn sinh học là hình thức thích nghi của tập thể cộng đồng đối với môi trường của nó; tiêu diệt truyền thống kéo theo tổ chức xã hội mất đi sẽ dẫn đến cái chết là không tránh khỏi. Song điểm hạn chế trong thuyết chức năng là không nghiên cứu nguồn gốc, không giải thích được sự biến đổi văn hóa và lịch sử cụ thể của từng tộc người, chỉ xem tập tục đó còn giữ lại và thể hiện thế nào, chức năng, tác dụng của nó ra sao mà không cần biết trước đây nó đã hình thành như thế nào [65, tr.14]. Những yếu tố hợp lý của thuyết chức năng được chúng tôi sử dụng như một công cụ để xem xét văn hóa tộc người thông qua các lễ nghi hôn nhân của người Sán Dìu. Sử dụng lý thuyết chức năng khi nghiên cứu về hôn nhân không chỉ đơn giản là chỉ để miêu tả quá trình thực hành các nghi lễ mà thông qua đó, con người thỏa mãn nhu cầu cá nhân, cộng đồng, đặc biệt về nhu cầu tâm lý, tình cảm, gắn kết con người với con người. 1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 1.2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên huyện Sơn Dương. Sơn Dương là một huyện miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên Quang, có vị trí địa lý từ 21030' đến 21050' vĩ bắc, từ 105015' đến 105035' kinh đông, từ thành phố Tuyên Quang đi dọc theo quốc lộ 37 khoảng 30km sẽ đến huyện Sơn Dương. Trước năm 1976 Sơn Dương thuộc tỉnh Tuyên Quang, sau năm 1976, Hà Giang và Tuyên Quang sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên. Đến năm 1991, tỉnh Hà Tuyên lại tách ra thành 2 tỉnh: Tuyên Quang và Hà Giang, lúc này Sơn Dương trở thành huyện của tỉnh Tuyên Quang. Phía bắc giáp huyện Yên Sơn; phía nam và phía tây nam giáp các huyện Đoan Hùng, Phù Ninh (Phú Thọ), Lập Thạch, Sông Lô (Vĩnh Phúc); phía đông giáp với 2 huyện Đại Từ và Định Hóa (Thái Nguyên). Huyện lỵ là thị trấn Sơn Dương cách trung tâm thành phố Tuyên Quang 30km. Tổng diện tích tự nhiên của huyện Sơn Dương là 78.863 ha, trong đó đất nông nghiệp 19.577 ha chiếm 24,80%, đất lâm nghiệp 39.681ha 50,27%, còn lại là các loại đất khác 19.605 ha chiếm 24,93% [18, tr.1418]. 12 Dân số toàn huyện Sơn Dương là 43.588 hộ, 171.694 nhân khẩu (theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009), người Sán Dìu là 12.367 chiếm 7,2% dân số toàn huyện (có những xã người Sán Dìu chiếm 60- 80% dân số như xã Ninh Lai, Thiện Kế, ...). Tính đến năm 2010, huyện Sơn Dương có 01 thị trấn và 32 xã, là nơi sinh sống của các dân tộc: Kinh, Tày, Sán Dìu, Sán Chay, Nùng, Dao, Hoa, Mông, Mường... Địa hình huyện Sơn Dương khá phức tạp. Rừng núi chiếm ¾ diện tích toàn huyện và chi phối điều kiện tự nhiên bởi bốn dãy núi lớn: Hai dãy núi Hồng và Tam Đảo (phía đông bắc) theo hướng bắc - nam tạo thành ranh giới giữa Sơn Dương và Thái Nguyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,80C, lượng mưa trung bình hàng năm là 1.627mm. Sự đa dạng về địa hình đã đem lại cho Sơn Dương sự phong phú về về các loại động, thực vật. Trước đây trên địa bàn có nhiều loại gỗ quý như đinh, lim, sến, táu; các loại cây có giá trị như ba kích, thiện niên kiện, sa nhân, trầm hương...; các loại muông thú quý như hươu, tắc kè, gấu, lợn rừng...; khoáng sản như thiếc, chì, đồng, quặng, cao lanh... đã được phát hiện và khai thác. Thổ nhưỡng khá màu mỡ, thích hợp với việc phát triển các loại cây lương thực như lúa, khoai, ngô, sắn...; các loại cây ăn quả như vải, nhãn... và một số cây lâm nghiệp, công nghiệp có giá trị kinh tế cao như chè, mía, lạc, đỗ tương, cây nguyên liệu giấy... Trên địa bàn huyện có 28 dân tộc cư trú, sinh sống xen kẽ tại 33 xã, thị trấn ở 242 thôn bản, mỗi dân tộc lại mang một nét văn hóa đặc sắc riêng, thể hiện ở phong tục, tập quán, thói quen canh tác như người Sán Dìu, Tày, Dao... ngoài ra mỗi tộc người còn có kho tàng văn học nghệ thuật dân gian như hát đồng giao, hát giao duyên, kể chuyện, tục ngữ, thành ngữ, câu đố... phong phú về nội dung và thể loại, mang sắc thái riêng độc đáo và giàu tính nhân văn, tính giáo dục sâu sắc. Dân tộc Sán Dìu có điệu hát Soọng cô, dân tộc Sán Chay ngành Cao Lan có làn điệu hát Sình ca... Bên cạnh kho tàng về văn hóa, nghệ thuật dân gian, mỗi tộc người còn có những món ăn truyền thống mang tính văn hóa ẩm thực đặc sắc: Cá thính (người Sán Dìu), mắm cá ruộng, thịt ướp chua, bánh trứng kiến (người Tày)... Huyện Sơn Dương còn có tiềm năng về du lịch, địa điểm du lịch lịch sử cách mạng hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh. Tân Trào vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ chọn là "Thủ đô Khu giải phóng" và "Thủ đô kháng chiến" [54, tr. 22]. 13 Trên địa bàn huyện có 2 tuyến đường quan trọng là quốc lộ 37 từ Thái Nguyên đi qua Sơn Dương và quốc lộ 2 từ thị xã Vĩnh Yên đi lên Sơn Dương, có thể nói giao thông đã từng bước phát triển, đường liên thôn, liên xã, đường dân sinh đã đi đến 33/33 xã của huyện, tạo đà cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và du lịch phát triển. 1.2.2. Khái quát về lịch sử tộc người. Người Sán Dìu ở Việt Nam vẫn tự gọi dân tộc mình là San Dáo Nhín (Sơn Dao Nhân) tức là người Sán Dìu. Các dân tộc lân cận dựa vào đặc điểm cư trú, phương thức canh tác, y phục truyền thồng của tộc người Sán Dìu mà gọi họ bằng những tên gọi khác nhau như: Trại Đất (người Trại ở nhà đất), Trại Ruộng (người Trại làm ruộng), Trại Cộc, Mán Quần Cộc (người Mán mặc quần cộc), Mán Váy Xẻ (người phụ nữ Mán mặc váy xẻ), Slán Dảo, Sán Nhiêu... Tháng 3 năm 1960, Tổng cục Thống kê Việt Nam ghi nhận tên gọi chính thức của dân tộc trong các văn bản của Nhà nước là Sán Dìu. Căn cứ vào ngôn ngữ và một số phong tục tập quán, người Sán Dìu được xếp vào hệ ngôn ngữ Hán - Tạng [68, tr.18]. Đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu người Pháp là Bonifacy cho rằng: Người Sán Dìu, dưới sự đàn áp của triều đại Mãn Thanh, đã từ tỉnh Quảng Đông di cư vào Việt Nam theo đường biển và dừng chân tại Hải Dương, sau đó họ tiếp tục chuyển cư đến một số tỉnh thuộc miền núi phía bắc như Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang [4, tr.19]. Người Sán Dìu ở Tuyên Quang, khi nói về nguồn gốc của dân tộc mình, đồng bào cho rằng: “Người Sán Dìu vốn là một bộ tộc cư trú bên Quảng Đông (Trung Quốc) nhưng do bên đó xảy ra các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc sinh ra cảnh loạn lạc, nên phải di cư sang Việt Nam từ thế kỷ trước. Trước khi đến Tuyên Quang, người Sán Dìu đã định cư ở Móng Cái, Bắc Giang, Thái Nguyên và đến Tuyên Quang được 5, 6 đời” 3. Như vậy, có thể người Sán Dìu đã định cư ở Tuyên Quang khoảng 200 - 300 năm, đồng bào cư trú tập trung ở các xã Ninh Lai, Thiện Kế, Sơn Nam của huyện Sơn Dương. Nhưng từ khi di cư sang Việt Nam, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam qua nhiều thế hệ, người dân Sán Dìu đã ý thức được mình là một trong các dân tộc thiểu số của Việt Nam. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, tộc người Sán Dìu đã cùng với các dân tộc anh em khác tạo dựng nhiều truyền thống tốt đẹp nhưng vẫn bảo lưu được những nét đặc sắc của văn hóa tộc người mình ở Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung. 3 Ban Dân tộc Tuyên Quang. Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang. Tuyên Quang, năm 1972. 14 1.2.3. Khái quát về đặc điểm tự nhiên của xã Ninh Lai. 1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên. Xã Ninh Lai nằm ở phía Nam của huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, cách trung tâm huyện khoảng 35km, cách thành phố Tuyên Quang khoảng 65km. Phía bắc giáp xã Thiện Kế, phía nam giáp xã Đạo Trù (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc), phía đông là dãy núi Tam Đảo giáp với tỉnh Thái Nguyên, phía Tây giáp xã Sơn Nam (huyện Sơn Dương). Hiện nay, xã Ninh Lai gồm có 20 thôn: Hợp Thịnh, Ninh Lai, Ninh Phú, Cây Đa 1, Cây Đa 2, Nhật Tân, Hội Tiến, Hội Kế, Hội Tân, Hợp Hòa, Hoàng Tân 1, Hoàng Tân 2, Ninh Quý, Ấp Mới, Ninh Bình, Ninh Thuận, Ninh Hòa 1, Ninh Hòa 2, Hoàng La 1, Hoàng La 2. Tổng diện tích đất tự nhiên là 2.468 ha, với tổng chiều dài của xã hơn 4km, chiều rộng hơn 6km. Dân số là 2.061 hộ với 8.493 nhân khẩu, gồm 03 dân tộc anh em cùng chung sống: Sán Dìu, Kinh, Dao. Trong đó, người Sán Dìu đông nhất chiếm 75% dân số toàn xã [53, tr 5,7,123]. Hệ thống sông, suối của xã khá phong phú. Lớn nhất là sông Phó Đáy từ Sơn Dương chảy qua ranh giới giữa xã Ninh Lai và xã Sơn Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, sông Phó Đáy là con đường quan trọng nối liền giữa đồng bằng, trung du với Liên khu X, Liên khu Việt Bắc và tới Trung ương. Ngoài ra, còn có suối Thai Hang, Lống Chấy và một số con suối nhỏ khác. Đó là những nguồn nước quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc canh tác nông, lâm nghiệp và dân sinh. 1.2.3.2. Một số đặc điểm kinh tế. Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, bằng sức lao động cần cù, nhân dân các dân tộc trong tỉnh Tuyên Quang nói chung, dân tộc Sán Dìu tại xã Ninh Lai nói riêng không ngừng cải tạo tự nhiên, biến những đồi cằn, núi hoang, gò bãi, đầm lầy… thành các tràn ruộng, cánh đồng, ao cá, vườn cây phục vụ đời sống con người. Người Sán Dìu ở đây sống chủ yếu bằng phương thức trồng trọt, chăn nuôi. Đồng bào khai phá nương rẫy từ rừng tự nhiên đất màu mỡ, thích hợp với từng loại cây trồng như lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, vừng, hoa màu các loại và rau xanh... Hệ thống đồi núi thấp và dải đất bằng là thế mạnh của xã Ninh Lai, thuận lợi cho việc trồng một số loại cây công nghiệp như mía, cây lấy gỗ và trồng một số giống lúa đặc sản, thơm ngon, đảm bảo cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp bền vững. Ngoài trồng trọt, đồng bào còn biết khai thác các nguồn lợi từ thiên nhiên: Trên rừng, dưới sông, suối, trong lòng đất, đó cũng là những nguồn thu nhập quan trọng. Không chỉ giỏi về chăn nuôi, trồng trọt, 15 người Sán Dìu ở Ninh Lai còn làm nhiều nghề thủ công như khai thác, chế biến nông lâm sản và dược liệu… Địa hình đa dạng đã đem đến cho xã Ninh Lai sự phong phú về động, thực vật. Về động vật có một số muông thú quý như: Hươu, nai, lợn rừng, tắc kè... Về thực vật có các loại gỗ quý như: Lim, sến, táu... cùng các cây dược liệu qúy như: Ba kích, thiên niên kiện, trầm hương, sa nhân... và một số cây nguyên liệu như: Nứa, giang, sặt... Thổ nhưỡng ở Ninh Lai khá màu mỡ. Diện tích đất dùng cho canh tác trồng lúa nước có 321,6 ha, chiếm 13% diện tích đất tự nhiên, có hệ thống kênh mương tưới tiêu chủ động từ nguồn dự trữ nước của hồ Hoàng Tân. Ngoài diện tích đất trồng lúa nước, còn có đất đồi rừng, soi bãi thích hợp sử dụng thích hợp cho việc phát triển cây lương thực như ngô, khoai, sắn, lạc, đậu đỗ tương và các loại cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và các loại cây ăn quả khác.Các điều kiện tự nhiên của xã đã tạo tiền đề thuận lợi để cho xã Ninh Lai xây dựng cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện. 1.2.3.3. Đời sống xã hội Hiện nay, tỉnh Tuyên Quang có 22 dân tộc anh em cùng cư trú, trong đó, tại xã Ninh Lai có 03 dân tộc (Sán Dìu, Kinh, Dao) cùng sinh sống quần tụ chan hoà trong khối đoàn kết gắn bó keo sơn. Tại xã Ninh Lai qua việc tìm hiểu gia phả và theo người gia kể lại, Sán Dìu là tộc người cư trú lâu đời nhất ở đây, sống tập trung thành từng làng, quanh làng trồng tre, chuối, cau và các cây ăn quả khác. Tổ chức làng bản, dòng họ và gia đình là ba hình thức cơ bản để cố kết cộng đồng. Mỗi hình thức tổ chức đều có những tập tục riêng để liên kết các thành viên với nhau, đó là cơ sở để duy trì đặc trưng văn hóa dân tộc Sán Dìu. Đơn vị cư trú của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai tương đương với một làng của người Kinh gọi là bản. Bản người Sán Dìu ở xã Ninh Lai thường được phân bố ở cạnh các sườn núi, các ngọn đồi thấp dọc theo sông, suối. Trước đây, mỗi bản người Sán Dìu ở xã Ninh Lai có từ 10 đến 15 nóc nhà. Hiện nay các bản lớn hơn và mật độ cư trú đông hơn có khoảng 30- 40 nóc nhà. Quan hệ xã hội giữa những người cùng sống trong bản làng người Sán Dìu luôn thân tình, cởi mở, đoàn kết, tương thân tương ái. Họ sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi gia đình nào có việc lớn như: Đám cưới, đám tang, dựng nhà... Mối quan hệ tốt đẹp này góp phần nâng cao năng suất lao động, đồng thời thắt chặt tình thân giữa hàng xóm láng giềng. Điều này được thể hiện ngay từ cách xưng hô như: Ông bà, cô dì, chú bác, anh chị em, con cháu... và tự mình xưng hô cũng vậy. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan