Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hôn nhân của người sán chay ở xã tức tranh, huyện phú lương, tỉnh thái nguyên...

Tài liệu Hôn nhân của người sán chay ở xã tức tranh, huyện phú lương, tỉnh thái nguyên

.PDF
125
430
125

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGHIÊM THỊ MINH HẰNG HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN CHAY Ở Xà TỨC TRANH HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành : Dân tộc học Mã số : 60 31 03 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH PHÚC HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đều đã được ghi rõ nguồn gốc. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thiện luận văn này đều đã được cảm ơn. Hà nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017 Tác giả luận văn Nghiêm Thị Minh Hằng LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện Luận văn thạc sĩ Dân tộc học với đề tài: “Hôn nhân của người Sán Chay ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu, hiệu quả của nhiều cơ quan, tập thể và cá nhân. Đặc biệt, để hoàn thành tốt luận văn này, tôi đã thường xuyên nhận được sự khích lệ, động viên, chỉ bảo của các thầy, cô giáo Khoa Dân tộc học và Nhân học, sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn là TS. Phạm Minh Phúc. Nhân dịp này, cho phép tôi được gửi tới thầy hướng dẫn lòng biết ơn sâu sắc nhất. Cũng nhân dịp hoàn thành luận văn, tôi xin chân thành cảm ơn: Ban lãnh đạo Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam - nơi tôi công tác; Ban giám đốc, Khoa Dân tộc học và Nhân học, Phòng Quản lý đào tạo của Học viện Khoa học xã hội, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được học tập và hoàn thành các chương trình thạc sĩ khóa 2015 - 2017, cũng như giúp đỡ tôi các thủ tục cần thiết trong quá trình học tập và bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo các đơn vị: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên, Ban Dân tộc tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban Nhân dân huyện Phú Lương, Phòng Văn hóa-Thông tin huyện Phú Lương, Ủy ban Nhân dân xã Tức Tranh. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn đồng bào dân tộc Sán Chay, nơi tôi đến nghiên cứu điền dã, đã giúp đỡ nhiệt tình, cung cấp cho tôi những thông tin, tư liệu quý báu để tôi hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017 Tác giả luận văn Nghiêm Thị Minh Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ................. 9 1.1. Cơ sở lý luận.........................................................................................................9 1.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu..............................................................................14 Tiểu kết chương 1.......................................................................................................... 26 Chương 2. HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI SÁN CHAY Ở Xà TỨC TRANH.......................................................................................................................... 27 2.1. Một số đặc điểm trong hôn nhân truyền thống của người Sán Chay .................. 27 2.2. Nguyên tắc và hình thức kết hôn.........................................................................32 2.3. Diễn trình lễ cưới truyền thống.………………………………..........................36 2.4. Các trường hợp hôn nhân khác…………………………………………………45 Tiểu kết chương 2.......................................................................................................... 48 Chương 3. GIÁ TRỊ VĂN HÓA TỘC NGƯỜI VÀ SỰ BIẾN ĐỔI TRONG HÔN NHÂN:........................................................................................................................... 49 3.1. Giá trị văn hóa trong hôn nhân của người Sán Chay...........................................49 3.2. Biến đổi trong hôn nhân hiện nay của người Sán Chay ở Tức Tranh..................59 3.3. Một số nguyên nhân tác động đến sự biến đổi trong hôn nhân ...........................65 3.4. Một số bất cập trong hôn nhân của người Sán Chay hiện nay..............................70 3.5. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa trong hôn nhân của người Sán Chay...............73 Tiểu kết chương 3.......................................................................................................... 76 KẾT LUẬN ...............................................................................................................77 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU BVHTT: Bộ Văn hoá Thông tin BVHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch CNH-HĐH: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá DTH: Dân tộc học H: Hà Nội KHXH: Khoa học xã hội NXB: Nhà xuất bản GS: Giáo sư PGS: Phó giáo sư TS: Tiến sĩ Ths: Thạc sĩ [24, tr.59]: Tài liệu số thứ tự 24, trang 59 VHDT: Văn hóa dân tộc UBND Ủy ban Nhân dân HNGĐ Hôn nhân gia đình MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hôn nhân vừa là một thiết chế xã hội có quan hệ chặt chẽ tới các vấn đề kinh tế, xã hội vừa là biểu hiện sinh động sắc thái văn hóa của từng tộc người, từng vùng miền qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy, nghiên cứu hôn nhân sẽ cho chúng ta thấy được đặc trưng văn hóa, đặc điểm quá trình tộc người, từ đó giúp chúng ta thấy được những nét văn hóa có giá trị thuần phong, mỹ tục cần phát huy trong đời sống đương đại, đồng thời phát hiện ra những mặt còn hạn chế cần phải có giải pháp để khắc phục. Thêm vào đó, nghiên cứu hôn nhân còn chỉ ra phương thức xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển gia đình; góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn về đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi tộc người trước đây và hiện nay, qua đó cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho công tác xây dựng và thực hiện chính sách, nhất là việc thực hiện Luật hôn nhân gia đình. Người Sán Chay ở Việt Nam thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, có 169.410 người [3], cư trú tập trung ở các tỉnh đông bắc Bắc Bộ như Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang, rải rác ở các tỉnh: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn. Gần đây, có một bộ phận người Sán Chay vào Tây Nguyên lập nghiệp được tổ chức thành các làng. Tại Thái Nguyên có 32.483 người (chiếm 19,2% tổng số người Sán Chay tại Việt Nam). Hôn nhân của người Sán Chay đã được nghiên cứu và công bố ở những dạng thức khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và chuyên sâu về hôn nhân truyền thống cũng như những biến đổi trong hôn nhân của người Sán Chay ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương. Đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn như hiện nay, các lĩnh vực văn hóa nói chung, hôn nhân gia đình nói riêng ít nhiều chịu sự tác động và biến đổi theo xu thế chung của đất nước. Nếu không quan tâm nghiên cứu hôn nhân truyền thống của người Sán Chay thì những giá trị văn hóa truyền thống sẽ rất khó nhận diện và dần mất đi trong xã hội hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu hôn nhân của người Sán Chay ở xã Tức Tranh là rất cần thiết trong bối cảnh đất nước đang đổi mới, phát triển như hiện nay. Luận văn được 1 thực hiện sẽ góp thêm những hiểu biết đa dạng về văn hoá người Sán Chay. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của người Sán Chay, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về việc “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Từ những lý do khoa học và thực tiễn đó, tôi chọn vấn đề: “Hôn nhân của người Sán Chay ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Dân tộc học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đến nay, một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề hôn nhân của người Sán Chay. Tuy nhiên, chưa có chuyên khảo nào đi sâu nghiên cứu về hôn nhân và những biến đổi trong hôn nhân của người Sán Chay ở Tức Tranh. Trong số các công trình nghiên cứu đó, tiêu biểu phải kể đến các ấn phẩm như: Cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học đã trình bày một cách khái quát về nguồn gốc lịch sử, dân cư, dân số, trang phục, một số loại hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán của các tộc người cư trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Vấn đề hôn nhân của người Sán Chay được giới thiệu sơ lược từ trang 230 đến 231. Công trình “Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam”(2003) do tác giả Khổng Diễn chủ biên, đã đề cập khá toàn diện về người Sán Chay. Trong đó tác giả dành 22 trang (từ trang 81 đến trang 84, trang 205 đến trang 218 và từ trang 236 đến trang 240) viết về: Quan hệ hôn nhân, xem lá số, tuổi kết hôn, tục nhận con rể, ở rể, quy tắc ứng xử của con dâu mới về nhà chồng và vai trò của ông mối trong hôn nhân, các bước trong đám cưới….nhưng chưa có sự so sánh, phân tích các giá trị văn hóa của tộc người thông qua nghi lễ; đặc biệt chưa chú ý đến sự biến đổi trong hôn nhân và chỉ ra nguyên nhân của sự biến đổi đó. Năm 2011, tác giả Trần Văn Ái cho ra mắt cuốn sách Văn hóa dân gian của người Sán Chí ở tỉnh Thái Nguyên. Công trình gồm 5 chương, giới thiệu về môi trường tự nhiên, lịch sử tộc người Sán Chí ở Thái Nguyên, tín ngưỡng, lễ hội, văn 2 học nghệ thuận dân gian. Đặc biệt từ trang 67 đến trang 89 có đề cập đến quan hệ hôn nhân của người Sán Chí, tiến trình một đám cưới truyền thống từ việc đi nhờ ông mối, lễ ăn hỏi, hẹn ngày cưới và tổ chức lễ cưới. Cuốn sách mới chỉ dừng ở việc mô tả diễn trình một đám cưới truyền thống chưa đề cập đến những biến đổi trong hôn nhân hiện nay của người Sán Chí. Năm 2013, cuốn sách Tổng quan văn hóa truyền thống các dân tộc Việt Nam (quyển 2) của tác giả Hoàng Nam, từ trang 383 - 424 có giới thiệu khái quát về dân số, lịch sử cư trú,kinh tế, văn hóa truyền thống của người Sán Chay (ăn, mặc, ở, ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, phong tục tập quán…). Ngoài ra, còn một số đề tài, luận văn, bài viết nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tục cưới của người Sán Chí, Sơn Động, Bắc Giang của tác giả Nguyễn Thị Song Hà đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (2005), đã đề cập đến độ tuổi kết hôn, các bước trong đám cưới: lễ xin lá số - đặt trầu, lễ đặt gánh, lễ cưới, lại mặt, mỗi bước đều mang những sắc thái văn hóa riêng của người Sán Chí ở Sơn Động, Bắc Giang; Tìm hiểu tục cưới xin của người Cao Lan ở xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang của tác giả Đặng Chí Thông đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian số 2 (2006) đề cập đến các nghi lễ tiến hành trong đám cưới của người Cao Lan xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang như lễ dạm hỏi, lễ đón dâu, lễ lại mặt, đồng thời giới thiệu về hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian trong đám cưới: hát Sấng cọ; bài viết Nghi lễ chính trong vòng đời của người Sán Chay, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang của tác giả Hà Thị Hương đăng trên Thông báo Văn hóa dân gian (2003), giới thiệu nghi lễ sinh đẻ, lễ nhập hội đồng niên, đám cưới, tang ma; Tục múa hát nghi lễ của người Cao Lan của tác giả Lê Ngọc Can đăng trên tạp chí Dân tộc học số 4 (1997) viết về tục hát trong ngày tết, hát giao duyên, hát trong nghi lễ tang ma và các sinh hoạt nghệ thuật khác trong đó có tục hát trong đám cưới của dân tộc Cao Lan; bài viết Những nghi lễ chính trong vòng đời của người Cao Lan của tác giả Phù Vân đăng trên tạp chí Dân tộc học số 4 (2002) nói về nghi lễ sinh đẻ, cưới xin, tang ma. Bên cạnh đó, còn có một số cuốn sách, bài viết nói về nguồn gốc và quá trình di cư của người Cao Lan - Sán Chỉ, về thành phần dân tộc và mối quan hệ tộc người 3 giữa hai nhóm Cao Lan - Sán Chí của nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Tiến, lễ hội truyền thống và văn hóa văn nghệ dân gian của người Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ)…Đáng kể nhất là Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Sử học của tác giả Hà Đức Dương “Hôn nhân truyền thống của người Sán Chí ở xã Phú Đô – Phú Lương – Thái Nguyên. Luận văn đã cung cấp nhiều thông tin về hôn nhân truyền thống, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các bước trong hôn nhân, chưa chỉ ra được những biến đổi và lý giải nguyên nhân của sự biến đổi đó. Có thể nói, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về nguồn gốc lịch sử, dân cư, dân số, trang phục, một số loại hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán, điều kiện tự nhiên, đời sống kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Sán Chay. Vấn đề hôn nhân của người Sán Chay cũng đã được quan tâm nghiên cứu, nhưng chưa làm nổi bật vai trò, ý nghĩa của hôn nhân đối với đời sống của tộc người, chưa đề cập đến sự biến đổi và các nguyên nhân của sự biến đổi. Đó là khoảng trống cần được nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo quý giá, giúp chúng tôi có cái nhìn bao quát về tộc người và hôn nhân của người Sán Chay trong bối cảnh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Cung cấp các tư liệu một cách có hệ thống về đặc điểm, nguyên tắc, tập quán, hình thức, phong tục, nghi lễ trong hôn nhân của người Sán Chay ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. - Chỉ ra những biến đổi trong hôn nhân của người Sán Chay, nguyên nhân của biến đổi, qua đó thấy được các giá trị văn hoá tộc người được thể hiện qua hôn nhân. - Đề ra giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong hôn nhân, nhằm góp phần xây dựng đời sống văn hoá mới ở địa phương hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày có hệ thống các nghi lễ chủ yếu trong hôn nhân truyền thống của người Sán Chay ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. 4 - Chỉ ra những biến đổi trong hôn nhân truyền thống và những nguyên nhân của sự biến đổi đó. - Dự báo xu hướng cũng như đưa ra các khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị trong hôn nhân của tộc người Sán Chay tại địa phương và tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hôn nhân của người Sán Chay (nhóm Sán Chí) ở xã Tức Tranh, Phú Lương, Thái Nguyên. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến hôn nhân của người Sán Chay gồm: các quan niệm, nghi lễ trong hôn nhân truyền thống và những biến đổi trong hôn nhân của người Sán Chay hiện nay - Về thời gian: Truyền thống (trước 1986) và sự biến đổi được giới hạn từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay. - Về không gian: Nghiên cứu chủ yếu tại xóm Đồng Tâm và xóm Gốc Cọ xã Tức Tranh, Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên (nơi có 95% người Sán Chay sinh sống). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trong quá trình viết luận văn, tác giả dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận diện, xem xét, đánh giá về hôn nhân hiện nay trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Cụ thể, đặt hôn nhân nói chung và các vấn đề liên quan đến hôn nhân trong bối cảnh lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở cộng đồng nghiên cứu có liên quan và tương tác lẫn nhau. Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hôn nhân và gia đình, nhất là Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và 2014 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình viết luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp chính sau: - Phương pháp tổng quan tài liệu giúp tác giả đọc và tổng hợp các công trình nghiên cứu viết về người Sán Chay, bao gồm các ấn phẩm, sách, bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành, các luận văn, luận án, báo cáo khoa học tại hội nghị, hội thảo 5 có nội dung liên quan đến người Sán Chay, đặc biệt là các công trình đề cập đến hôn nhân và gia đình của người Sán Chay. Ngoài ra luận văn còn tổng hợp tư liệu từ các tài liệu thứ cấp như các báo cáo của tỉnh, địa phương về điều kiện tự nhiên, địa lý, đặc điểm dân cư, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, niên giám thống kê liên quan đến người Sán Chay tại huyện Phú Lương và tỉnh Thái Nguyên... Đó là nguồn tài liệu tham khảo hết sức ý nghĩa trong luận văn này. - Phương pháp điền dã dân tộc học: Đây là phương pháp chủ đạo, giúp tác giả khảo sát, đánh giá đối tượng nghiên cứu, thu thập tư liệu với các kỹ thuật như: + Quan sát tham dự tại thực địa với các đối tượng chủ yếu là sinh hoạt văn hóa, hoạt động kinh tế, các nghi lễ trong đám cưới của người Sán Chay làm cơ sở để ghi chép và mô tả bằng văn bản, phân tích lại sau khi công việc trên thực địa hoàn tất. Quá trình phân tích được xác định trên cơ sở những câu hỏi nghiên cứu về bối cảnh có đặc điểm khác nhau và hướng tìm hiểu chính về đối tượng nghiên cứu. Trong thời gian này, tác giả tham dự 2 đám cưới. Một đám cưới cô dâu người Sán Chay ở xóm Đồng Tâm lấy chú rể người Kinh ở Hà Nội, một đám cưới cô dâu và chú rể là người Sán Chay, ở cùng xã, khác xóm. Chính điều này giúp cho tác giả có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về hôn nhân và sự biến đổi trong hôn nhân của người Sán Chay cũng như sự khác nhau trong hôn nhân hôn hợp dân tộc và nội hôn tộc người. + Phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm: Được sử dụng tuỳ thuộc vào nhóm đối tượng, trong đó chú trọng đến người già, thầy cúng, giới trẻ trong độ tuổi kết hôn. Đây là những người am hiểu phong tục tập quán, đã và đang tham dự và thực hành các nghi lễ liên quan đến hôn nhân của người Sán Chay ở địa phương để tìm hiểu chi tiết. Tác giả đã tiến hành điền dã 2 đợt tại xóm Đồng Tâm và xóm Gốc Cọ, xã Tức Tranh. Đợt 1 vào tháng 1 năm 2017 và đợt 2 vào tháng 3 năm 2017. Mỗi đợt từ 5 – 7 ngày. Trong thời gian này,tác giảđã điều tra bằng phiếu xã hội học (phát 50 phiếu điều tra/1 xóm, mỗi phiếu 37 tiêu chí). Bên cạnh đó,tác giả còn thực hiện 15 cuộc phỏng vấn sâu, 05 cuộc thảo luận nhóm với các đối tượng nghiên cứu khác nhau gồm: người lớn tuổi, người trẻ tuổi đang ở độ tuổi kết hôn, thầy cúng, cán bộ quản lý, công chức phụ trách văn hóa và những người dân cùng sống trên địa bàn. 6 Điều này đã giúp cho tác giả đã thu thập được các tư liệu cần thiết để so sánh giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và biến đổi (lịch đại) và so sánh đối chiếu giữa 2 đám cưới trong cùng một thời điểm (đồng đại)… Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng để thu thập thông tin chung của cộng đồng và các ý kiến đánh giá dựa vào cộng đồng. + Chụp ảnh, khảo tả trong suốt quá trình điền dã Dân tộc học giúp tác giả có được những tài liệu sinh động góp phần làm sáng tỏ các vấn đề trong hôn nhân của người Sán Chay. - Phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích cũng được tác giả sử dụng để có thể chọn lọc, đối chiếu nguồn tài liệu nhằm rút ra các nhận định, các điểm riêng và chung để có thể hoàn thành mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra. Một số vấn đề trong luận văn được so sánh cả lịch đại và đồng đại. Lịch đại là đám cưới truyền thống và hiện đại của người Sán Chay ở xã Tức Tranh. Đồng đại là so sánh đám cưới giữa người Sán Chay lấy dân tộc khác với đám cưới cùng dân tộc Sán Chay ở cùng thời điểm nhằm tìm ra sự biến đổi và những tác động của nó trong đời sống xã hội của người Sán Chay. - Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp bảo tàng học trong quá trình nghiên cứu tài liệu hiện vật hiện có trong cộng đồng và tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Các phương pháp này đã giúp tôi nhìn nhận đúng đắn và cụ thể về nội dung tư liệu thu được, các vấn đề về hôn nhân của người Sán Chay từ đó đưa ra luận điểm, luận cứ chính xác và đáng tin cậy trong quá trình nghiên cứu về hôn nhân của người Sán Chay ở xã Tức Tranh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống, đầu tiên về hôn nhân của tộc người Sán Chay, các quy tắc ứng xử trong hôn nhân, vai trò của cộng đồng người Sán Chay tại xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên trong hôn nhân. 7 Luận văn cung cấp tư liệu điền dã mới, góp phần nhận diện đầy đủ hơn về hôn nhân hiện nay của người Sán Chay, xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Qua đó, rút ra những giá trị văn hóa tộc người được thể hiện trong lĩnh vực hôn nhân. Đề xuất một số giải pháp để kế thừa và phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực trong hôn nhân hiện nay của người Sán Chay, góp phần đánh giá việc thực hiện luật hôn nhân gia đình và xây dựng nếp sống mới trong cộng đồng Sán Chay ở Thái Nguyên hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Góp thêm nguồn tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương trong việc tìm hiểu phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục phù hợp với cộng đồng người Sán Chay tại địa phương. Với Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam: đây sẽ là nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu, sưu tầm tài liệu hiện vật, trưng bày chuyên đề về văn hóa của dân tộc Sán Chay tại Bảo tàng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận, khái quát về địa bàn nghiên cứu. Chương 2: Hôn nhân truyền thống của người Sán Chay ở xã Tức Tranh Chương 3. Giá trị văn hóa tộc người và sự biến đổi trong hôn nhân. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1.Các khái niệm cơ bản Trong luận văn này, tác giả sẽ tiếp cận và làm rõ nội hàm các khái niệm sau: - Hôn nhân: Trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1992) đưa ra một khái niệm rất ngắn gọn “Hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau thành vợ chồng”[39, tr.86]. Từ điển Tiếng Việt (2000)cũng định nghĩa: “Hôn nhân là việc kết hôn giữa nam và nữ... [59, tr. 712].Từ điển Nhân học coi “Hôn nhân là mối quan hệ gắn bó, được thừa nhận về mặt xã hội giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhằm mục đích duy trì nòi giống một cách hợp pháp lập gia đình hạt nhân mới hoặc nhằm tạo ra hộ gia đình mới”[44, tr.519]. Theo Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. [33] Tác giả Diệp Trung Bình trong cuốn Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam cho rằng: “Hôn nhân là một khái niệm bao gồm các quan niệm và các lễ thức chứng nhận mối quan hệ giữa nam và nữ” [6, tr.136]. Tác giả Nguyễn Thị Song Hà trong cuốn Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Mường ở Hòa Bình cho rằng: “Hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của con cháu. Một hôn nhân đòi hỏi phải có một người nam và một người nữ và quy định mức độ quan hệ tính giao các thành viên trong hôn nhân có thể có với nhau” [25,tr.35] Tuy nhiên, trong luận văn này, khái niệm hôn nhân được hiểu theo cách diễn đạt của nhóm tác giả Nguyễn Khắc Cảnh, Đặng Thị Kim Oanh:“Hôn nhân là sự kết hợp giới tính tuân thủ những nguyên tắc, quy định, thủ tục, lễ nghi…theo tập quán pháp hay luật pháp để được cộng đồng xã hội thừa nhận là hợp pháp và có giá trị lâu dài, trên cơ sở đó hình thành nên gia đình với những chức năng nhất định. Hôn nhân luôn là đối tượng kiểm soát của xã hội và diễn ra theo nhiều hình thái khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội và những yếu tố văn hóa tộc người, vừa phản ánh quy luật chung sự phát triển của xã hội loài người qua các giai đoạn 9 lịch sử, vừa mang những đặc thù của văn hóa tộc người” [9, tr.78] - Nội hôn:Tác giả Emily A schultz và Robobert H. Lavenda trong cuốn Nhân học-một quan điểm về tình trạng nhân sinh cho rằng “Nội hôn là khi người ra chỉ được phép lấy người thuộc cùng một nhóm xã hội với mình” [22,tr.308]. Trong đó, nội hôn tộc người là quy tắc chỉ kết hôn với người đồng tộc trong nhóm xã hội của mình, là sự lựa chọn người đối ngẫu trong đồng tộc để kết hôn theo luật tục hoặc tập quán quy định rõ. - Ngoại hôn: Tác giả Emily A schultz và Robobert H. Lavenda trong cuốn Nhân học- một quan điểm về tình trạng nhân sinh cho rằng “Ngoại hôn là khi người ta kết hôn với một người ở ngoài nhóm xã hội với mình” và hôn nhân hỗn hợp tộc người là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn giữa hai người không cùng dân tộc [22,tr.308] -Nghi lễ: Theo Từ điển Tiếng Việt (1992) “Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành một cuộc lễ” [39, tr. 866]. Theo Từ điển Nhân học: “Nghi lễ là những hành động nghi thức diễn ra trong bối cảnh thờ cúng tôn giáo - ví dụ một đại lễ Thiên chúa giáo hay một buổi hiến tế tổ tiên. Thông thường, các nhà nhân học sử dụng “nghi lễ”để nói về bất kỳ một hành động nào có nhiều nghi thức và với mục đích bình quân chủ nghĩa.Theo nghĩa rộng nhất, nghi lễ liên quan không chỉ đến một loại sự kiện cụ thể đặc biệt nào mà cả với khía cạnh thể hiện của toàn bộ hoạt động của con người. Trong chừng mực nó chuyển tải các thông điệp địa vị văn hóa và xã hội của các cá nhân, bất kỳ hành động nào của con người cũng có khía cạnh nghi lễ” [44, tr. 22-23] Victor Turner coi nghi lễ là hành vi được quy định có tính chất nghi thức dành cho những dịp, không liên quan đến các công việc có tính chất kỹ thuật hằng ngày, mà có quan hệ với các niềm tin vào đấng tối cao hay các sức mạnh thần bí. Những cuộc diễn trình nghi lễ như là những giai đoạn riêng biệt của quá trình xã hội mà qua đó các nhóm người điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi bên trong và thích ứng với môi trường bên ngoài [29, tr.242-243] Theo tác giả Nguyễn Thị Song Hà “Nghi lễ chính là những nghi thức bắt buộc phải tiến hành trong một buổi lễ, nó gắn liền với đời sống văn hóa tộc người, được cộng đồng xã hội thừa nhận [25, tr. 24] 10 - Nghi lễ hôn nhân: Khái niệm này được hiểu là các nghi lễ diễn ra theo phong tục, tập quán, hoặc quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Nghi lễ hôn nhân là thủ tục khẳng định cuộc hôn nhân đó là hợp pháp, làm thay đổi địa vị xã hội của con người. Để tiến tới hôn nhân cũng như khi đã đạt được cuộc hôn nhân, mỗi cá nhân ở mỗi tộc người kể cả mỗi nhóm địa phương tộc người đều trải qua những nghi lễ nhất định theo quy định mang tính tập quán của tộc người hay nhóm tộc người đó. Nghi lễ hôn nhân ngoài mục đích không chỉ đảm bảo cho việc chứng kiến và có được sự công nhận từ phía cộng đồng về việc hôn nhân mà còn để thực hiện một số yếu tố tâm linh gắn với cuộc hôn nhân. Thông qua nghi lễ hôn nhân thấy được bản sắc văn hóa tộc người và giá trị văn hóa được thể hiện thông qua nghi lễ. Một nghi lễ không thể tách riêng khỏi gia đình, cộng đồng, mà thể thức hôn nhân chỉ có thể liên hoàn trong các cụm từ gia đình, cộng đồng, thông gia, bên nội, bên ngoại, ông cậu, ông mối, quan lang, cô dâu, chú rể, phù dâu, phù rể. Đó là cơ sở để tạo ra hệ thống nghi lễ trong hôn nhân của người Sán Chay nói riêng và hôn nhân nói chung. -Văn hóa tộc người: Là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc trưng và đặc thù tộc người, nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc người khác. Các yếu tố văn hoá tộc người là: ngôn ngữ mẹ đẻ, trang phục, các tín ngưỡng và nghi lễ, là vốn dân gian truyền miệng, tri thức dân gian về tự nhiên, xã hội, về bản thân con người, tâm lý dân tộc… Mỗi tộc người có nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ, hoạt động sinh kế, lối sống, nghi lễ, tôn giáo tín ngưỡng riêng, tạo thành đặc trưng của mỗi tộc người và để phân biệt tộc người này với tộc người khác [45, tr. 229, 230]. -Bản sắc văn hóa tộc người: Là những biểu hiện cụ thể ở lối làm ăn, nếp sống, thế ứng xử thông qua các quan hệ và hoạt động xã hội tâm lý và ngôn ngữ.. trong một hoàn cảnh tự nhiên và “không gian xã hội” cụ thể [43, tr6] -Truyền thống: Là thói quen được hình thành từ lâu trong lối sống và nếp nghĩ của con người, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác [39, tr1055]. Chẳng hạn, quan niệm hôn nhân, nguyên tắc, tính chất của hôn nhân, nghi lễ trong hôn nhân biểu thị những giá trị truyền thống, văn hóa còn được lưu giữ ở mỗi tộc người. 11 -Biến đổi: Là sự thay đổi khác trước [39, tr536]. Chẳng hạn: Biến đổi về quan niệm, nhận thức, các bước cũng như các nghi lễ trong hôn nhân của người Sán Chay. Theo đó, nghi lễ hôn nhân là giá trị văn hóa phi vật thể, không phải là yếu tố bất biến mà luôn luôn có sự vận động để thích hợp với hoàn cảnh và yêu cầu của thực tiễn hay nói cách khác biến đổi trong hôn nhân thường chịu ảnh hưởng của sự biến đổi kinh tế, xã hội, chính sách và luật pháp. 1.1.2. Cơ sở lý thuyết Cơ sở lý thuyết của luận văn không chỉ dựa trên khái niệm mà tác giả còn bám sát các thuyết nghiên cứu như: Thuyết chức năng, thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa, thuyết bản sắc văn hóa: -Thuyết chức năng: Theo Bronislaw Malinowski, văn hóa là tổng thể những đáp ứng đối với nhu cầu cơ bản của con người và nhu cầu sản xuất. Theo thuyết chức năng của Malinowski, một nền văn hóa không phải là tổng của các thành tố, mà tất cả các thành tố văn hóa của một nền văn hóa đều có sự kết nối chặt chẽ, hữu cơ với nhau và mỗi thành tố đều có giá trị, chức năng nào đó trong tổng thể nền văn hóa chúng tồn tại [35, tr 15] Trong luận văn này, lý thuyết chức năng được tác giả vận dụng để xem xét các giá trị văn hóa của người Sán Chay thông qua các bước và nghi lễ trong hôn nhân nhằm làm rõ sự tác động qua lại của nghi lễ hôn nhân và mối quan hệ giữa con người – môi trường tự nhiên – xã hội (cả ở góc độ truyền thống và biến đổi) đối với cá nhân và cộng đồng trong suốt quá trình thực hiện nghi lễ hôn nhân của người Sán Chay ở Tức Tranh. Khi nghiên cứu về hôn nhân của người Sán Chay, tác giả cũng quan tâm đến các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của cộng đồng nơi thực hành văn hóa với hệ thống lễ nghi, quy định, quy trình tương đối chặt chẽ, khá riêng biệt so với hôn nhân của các tộc người khác. Chính sự khác nhau đó là nên bản sắc văn hóa của người Sán Chay. -Lý thuyết về giao lưu tiếp, biến văn hóa: Giao lưu, tiếp biến văn hóa là khái niệm do các nhà nhân học Anglo Saxon đưa ra vào cuối thế kỷ XIX để chỉ sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi ở cả hai nền 12 văn hóa đó. Theo các nhà nhân học Mỹ, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình, trong đó một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng. Sự giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi những đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Các thành tố của các nền văn hóa tuy có biến đổi, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính riêng biệt của mình... Qua quá trình tiếp xúc giao lưu giữa hai nền văn hóa thì xã hội yếu hơn sẽ bị xã hội mạnh tác động thay đổi [21, tr. 107,108]. Ngoài ra, Tiếp biến văn hóa trong Từ điển Nhân học còn được hiểu là quá trình biến đổi văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày càng trở nên giống nhau hơn. Và cũng từ sự tiếp xúc đó đã làm tăng đặc tính của nền văn hóa này trong nền văn hóa kia. Khi các nền văn hóa tiếp xúc với nhau, nền văn hóa trao tặng không thể đưa ra được đầy đủ các yếu tố văn hóa của mình và hệ thống giá trị riêng của nền văn hóa tiếp nhận có thể đóng vai trò che chắn hoặc thay đổi những yếu tố nào đó. Tiếp biến văn hóa gồm nhiều quá trình khác nhau như truyền bá, thích nghi, phản ứng lại, gồm nhiều kiểu tái tổ chức văn hóa xã hội sau quá trình tiếp xúc. Phạm vi điều chỉnh trong đó có giữ lại đặc điểm văn hóa chủ đạo[39, tr12]. Luận văn áp dụng lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa để nghiên cứu bản sắc văn hóa, những biến đổi trong nghi lễ hôn nhân của người Sán Chay từ truyền thống đến hiện nay, nhất là để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi trước khi đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy tập tục hôn nhân của người Sán Chay. - Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người: Được Franz Boas (người sáng lập ra Hiệp hội Nhân học Mỹ (AAA) đề cập đến trong khái niệm “nhân học văn hóa”. Qua đó chỉ ra tính đặc thù văn hóa tộc người. Bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần mang tính đặc trưng và đặc thù của tộc người, giúp phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác, giữa các nhóm khác. Bản sắc văn hóa tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và môi trường địa lý tự nhiên trong đời sống của từng tộc người và chúng có sức sống lâu bền, thậm chí ngay cả khi hoàn cảnh sống của tộc người 13 có những đổi thay mạnh mẽ. Bản sắc văn hóa tộc người còn thể hiện bản lĩnh của tộc người, yếu tố tộc người. Trong quá trình phát triển, không ít hiện tượng văn hóa lúc đầu chỉ là yếu tố vay mượn, nhưng dần dần, qua thời gian, chúng được “dân tộc hóa”, được sử dụng và tái tạo theo cách riêng của tộc người vay mượn, ít nhiều mang bản sắc vãn hóa của tộc người mới. Vì vậy, áp dụng lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người đã giúp tác giả nhìn nhận những sắc thái riêng trong nghi lễ hôn nhân của người Sán Chay. Xã hội phát triển, có sự giao lưu, trao đổi giữa các dân tộc mà ở đây cụ thể là người Sán Chay đã tiếp thu một số yếu tố văn hóa của người Kinh, Sán Dìu, Tày, Nùng trong vùng... Nhưng khi tiếp thu, các yếu tố văn hóa mới vẫn được họ tái tạo theo cách riêng, ít nhiều mang bản sắc văn hóa Sán Chay. Ví dụ như cách bố trí bàn thờ và phong tục cúng tổ tiên khi thực hiện nghi lễ cưới vẫn được họ duy trì theo văn hóa truyền thống người Sán Chay. 1.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu 1.2.1 Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý: Tức Tranh là một xã nằm ở phía Đông của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm huyện 11km. Theo số liệu năm 2016, xã Tức Tranh có diện tích đất tự nhiên 25,559km², tiếp giáp với xã Phú Đô ở phía Đông Bắc và Đông, xã Vô Tranh ở phía Nam, xã Phấn Mễ ở phía Tây Nam và xã Yên Lạc ở phía Tây và Tây Bắc. Tức Tranh giáp với sông Cầu ở một đoạn phía Đông Nam, bên kia sông là xã Minh Lập của huyện Đồng Hỷ. Địa hình: xã Tức Tranh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng núi thấp và vùng bát úp, có độ dốc trung bình 200-500m so với mặt nước biển. Thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam với độ dốc dưới 150, địa hình tương đối phức tạp bao gồm cả đồng bằng, đồi núi và núi đá. Đây là vùng địa hình mang tính chất của vùng trung du, nhiều đồi, ít ruộng [17, tr.972] Khí hậu: xã Tức Tranh có điều kiện khí hậu đa dạng mang đậm tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa đặc trưng của khí hậu Việt Nam. Trong năm, khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt; mùa nóng ẩm từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình khoảng 25270C; mùa đông khô hạn và giá lạnh, thời gian khô hạn kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. 14 Thuỷ văn:Tức Tranh là một trong 4 xã của huyện có dòng sông Cầu chảy qua. Đây là con sông quan trọng nhất của tỉnh Thái Nguyên được bắt nguồn từ tỉnh Bắc Cạn, chảy qua địa bàn huyện với tổng chiều dài 17km qua các xã Phú Đô, Tức Tranh, Vô Trang, Sơn Cẩm. Đây vừa là nơi phân chia địa giới giữa hai huyện Phú Lương và Đồng Hỷ vừa là nơi đem lại nguồn nước phong phú cho xã. Với điều kiện khí hậu, thuỷ văn như trên đã tác động rất lớn đến quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã. 1.2.2 Một số đặc điểm dân số, dân cư Cư dân Tức Tranh gồm nhiều bộ phận hợp thành. Bộ phận chiếm số đông là cư dân bản địa có mặt từ lâu đời. Số còn lại là người Kinh ở các tỉnh miền xuôi (Thái Bình, Nam Định) di cư lên khai phá đồi nương, mở rộng làng bản, sinh cơ lập nghiệp. Về dân số: theo số liệu năm 2016, xã Tức Tranh có dân số 8903 người, mật độ dân số 349 người/km2, gồm các dân tộc anh em cùng sinh sống như: Kinh, Sán Chay, Sán Dìu, Nùng, Tày, Dao. Người Sán Chay chiếm 25% dân số của xã, cư trú rải rác trong 10 xóm/tổng số 24 xóm: Đồng Tâm, Đồng Lường, Gốc Cọ, Gốc Mít, Khe Cốc, Đồng Húp, Thâm Găng, Đan Khê, Đồng Lòng, Ngoài Tranh. Trong tổng số 10 xóm có người Sán Chay sinh sống, tập trung đông nhất là xóm Đồng Tâm (chiếm 95% dân số của xóm) [Nguồn: UBND xã Tức Tranh cung cấp] Từ điều kiện lịch sử tự nhiên và dân cư đã hình thành nên đặc điểm văn hóa của người Sán Chay nói chung và đặc điểm trong hôn nhân nói riêng gắn liền với văn hóa, đồng thời tạo sự giao thoa, kết nối, mở rộng giữa các dân tộc trong vùng 1.2.3. Vài nét về lịch sử tộc người Sán Chay Về tên gọi: Theo kết quả điền dã tại các xóm thuộc xã Tức Tranh, người Sán Chay ở đây tự gọi mình là Sán Chí hay Sán Chấy. Tên gọi này khá thống nhất với tên gọi trong các công trình chuyên khảo về nhóm Sán Chí. Khi nói về người Sán Chay, một trong các nguồn thư tịch sớm nhất phải kể đến cuốn Kiến Văn tiểu lục của Lê Quý Đôn. Khi viết về xứ Tuyên Quang trong phần về các giống người, ông coi Sán Chay là hai trong bảy chủng tộc Man [18,tr 393]. Trong Đại Nam nhất thống chí, ở mục “Phong tục tỉnh Thái Nguyên”, khi viết về Cao Lan, Sán Chay cũng coi họ như những nhóm Mán Sơn Man, Mán Đại Bản, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan