ÑÔØI KYÕ NÖÕ
[Hồi Ức Một Geisha]
Tác Giả: Arthur Golden
Thể Loại: Tiểu Thuyết
Dịch Giả: Văn Hòa - Kim Thùy
Nguồn: vnthuquan.net
Ebook: daotieuvu.blogspot.com
Ebook được page hoàn thành với mục đích phi thương mại, nhằm chia
sẻ với những bạn ở xa hoặc không có điều kiện mua sách, khi sao lưu
xin ghi rõ nguồn.
Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản và
tác giả.
Mục Lục:
Lời ghi chú của người dịch
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương
18
Chương
19
Chương
20
Chương
21
Chương
22
Chương
23
Chương
24
Chương
25
Chương
26
Chương
27
Chương
28
Chương
29
Chương
30
Chương
31
Chương
32
Chương
33
Chương
34
Chương
35
Lời ghi chú của người dịch
Vào một buổi tối mùa xuân năm 1936, khi tôi còn là một chú bé 16 tuổi,
bố tôi dẫn tôi đi xem trình diễn ca nhạc múa ở Kyoto. Tôi chỉ nhớ hai
điều về buổi trình diễn đó. Điều thứ nhất là bố tôi và tôi là hai người
phương Tây duy nhất trong đám khán giả, chúng tôi mới từ quê nhà Hòa
Lan sang đây được mấy tuần, cho nên tôi chưa quen với nền văn hóa xa
lạ ở xứ này, nhưng tôi cảm thấy rất hấp dẫn. Điều thứ hai là nhờ sau
nhiều tháng ra sức học tiếng Nhật, tôi cảm thấy thú vị biết bao khi hiểu
được phần nào những câu chuyện họ nói với nhau. Riêng về các thiếu nữ
Nhật đang ca múa trên
sân khấu trước mặt, tôi không nhớ được gì, ngoại trừ hình ảnh lờ mờ về
chiếc kimono màu sắc tươi sáng. Ở một nơi xa với nước Nhật như New
York city này, và với khoảng thời gian đã gần 50 năm, nếu không có
người phụ nữ đã từng múa trên sân khấu ở thành bạn thân của tôi, đọc
cho tôi ghi lại hồi ức của bà ta, thì chắc tôi sẽ không biết gì hết về nền
văn hóa đó.
Vì là sử gia, cho nên tôi luôn luôn xem hồi ức là nguồn tài liệu quan
trọng. Hồi ức cung cấp tài liệu về xã hội đương thời nhiều hơn chính bản
thân của người viết hồi ký. Hồi ký khác với tiểu sử ở chỗ người viết hồi
ký không bao giờ hoàn tất được kết cuộc, còn người viết tiểu sử đương
nhiên là có. Nếu xem hồi ký là tự nguyện thì chẳng khác nào yêu cầu con
thỏ kẻ lại cho chúng ta nghe về cánh đồng mà nó đã nhảy qua. Làm sao
nó biết được?
Còn nếu chúng ta muốn biết cánh đồng, muốn nghe nói đến những nơi
con thỏ không thể thấy được thì chẳng có ai có hoàn cảnh thuận tiện hơn
để nói.
Tôi nói chuyện này với tinh thần của một nhà sử học, căn cứ trên các dữ
kiện chính xác. Thế nhưng tôi phải thú nhận rằng hồi ký của bà bạn Nitta
Sayuri của tôi đã khiến cho tôi phải suy nghĩ lại quan điểm của mình.
Đúng thế, bà ấy đã lý giải cho chúng ta hiểu được phần nào thế giới bí
mật mà
bà đã sống – nếu quý vị muốn nói đấy là quan điểm của con thỏ về cánh
đồng cũng được. Chắc không có một tài liệu kỳ lạ nào nói về đời sống
kỳ lạ của nàng geisha đầy đủ, hay hơn tài liệu mà bà Sayuri đã cung cấp
cho chúng ta. Bà còn để lại cho chúng ta tài liệu nói về bà hết sức đầy
đủ,
chính xác, có sức thuyết phục hơn cả chương sách nói dông dài về bà
trong cuốn “Những viên ngọc lóng lánh của nước Nhật” (Glittering
Jewels of Japan), hay hơn cả những bài viết về bà đăng trên các tạp chí
xuất bản trong những năm vừa qua. Ít ra thì đây cũng là trường hợp hy
hữu, vì không ai biết rõ người viết hồi ký bằng chính đương sự được.
Việc bà Sayuri nổi tiếng như cồn chỉ là chuyện may mắn. Nhiều phụ nữ
khác đã sống như bà. Bà Kato Yuki danh tiếng – nàng geisha đã chiếm
được trái tim của ông J. Pierpont, và trở thành vợ ngoại hôn của ông
trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ này – đã sống cuộc sống còn hy
hữu hơn cả bà Sayuri nữa. Nhưng chỉ có Sayuri mới cung cấp cho ta tư
liệu về đời
bà đầy đủ như thế này.
Tôi tin rằng bà quyết định làm công việc này là do tình cờ mà ra. Nếu bà
vẫn còn ở bên Nhật, chắc cuộc sống của bà sẽ hết sức bận bịu, bà không
thể nào tính đến chuyện viết hồi ký được. Thế nhưng, vào năm 1956,
hoàn cảnh đã đưa đẩy bà Sayuri di cư sang Hoa Kỳ. Bà đã ở tại khách
sạn Waldorf ở New York 40 năm, bà biến căn hộ ở trên tầng thứ 32 của
khách sạn này thành một ngôi nhà theo kiểu Nhật tuyệt đẹp. Nhưng cuộc
sống của bà ở đây cũng rất nhộn nhịp, căn hộ của bà luôn luôn có nhiều
nghệ sĩ, trí thức, doanh nhân Nhật lui tới – thậm chí có cả các ông Bộ
trưởng trong nội các và một vài găng tơ nữa. Mãi cho đến năm 1985,
nhờ có người quen giới thiệu, tôi mới gặp được bà. Là người nghiên cứu
về nước Nhật, tôi đã biết tên tuổi của Sayuri, nhưng hầu như tôi không
biết tí gì về bà hết. Nhờ tình bạn ngày càng thắm thiết, bà tin tưởng vào
tôi. Một hôm, tôi xin phép bà cho tôi viết về câu chuyện đời bà.
Bà trả lời tôi:
- Được thôi, Jakob-san, nếu ông đích thân ghi âm lời kể của tôi.
Thế là chúng tôi bắt đầu công việc. Sayuri nói rằng bà muốn đọc hồi ký
hơn là viết, vì bà đã quen nói mặt đối mặt với người khác, chứ bà không
biết cách viết lách ra sao khi ngồi một mình trong phòng. Tôi đồng ý, và
bản thảo của tôi đã được bà đọc cho chép 18 tháng liền. Tôi không rành
tiếng thổ ngữ ở Kyoto của Sayuri – như các nàng geisha được dân ở đấy
gọi là geiko, áo kimono thì được kêu là Obebe – nên khi bắt tay vào việc,
tôi đã phải rất vất vả mới dịch đúng được nghĩa của chúng. Ngay từ đầu,
tôi đã bị thế giới của bà cuốn hút. Chúng tôi thường gặp nhau vào các
buổi tối, vì theo thói quen lâu ngày của Sayuri, buổi tối là lúc tinh thần
của bà linh hoạt nhất. Thường bà thích làm việc trong căn phòng của bà
ở khách sạn WaldorfTowers, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau
trong căn phòng riêng tại một nhà hàng Nhật nằm trên đại lộ Park
Avenue, ở đây mọi người đều biết bà. Những buổi làm việc của chúng
tôi thường kéo dài hai hay ba giờ. Mặc dù chúng tôi thu băng lời lẽ của
bà, nhưng buổi làm việc nào cũng có người thư ký của bà ở đấy để ghi
chép, và cô ta đã ghi chép
rất trung thực. Nhưng Sayuri không nói vào máy ghi âm hay nói với cô
thư ký, bà luôn luôn nói với tôi. Khi bà không nhớ mình đã nói đến đâu,
tôi là người nhắc cho bà nhớ. Tôi xem mình như nền móng của ngôi nhà,
và tôi cảm thấy nếu tôi không có được lòng tin của bà, thì chắc không
bao giờ bà kể ra câu chuyện này.
Điều khiến chúng tôi thắc mắc nhất là tại sao bà Sayuri muốn kể ra câu
chuyện này? Không có luật lệ chính thức nào buộc giới geisha giữ im
lặng, nhưng họ đã quen với điều này rồi. Giới geisha không kể những
chuyện đã xảy ra với họ cho người ta ghi chép. Giống như gái điếm, giới
geisha thường phải đứng vào vị trí bất thường không nên đả động đến
người này người nọ đã mua vui với họ. Loài bướm đêm này phải giữ
được niềm tin nơi khách hàng của họ thì họ mới có lợi, bằng không, họ
sẽ gặp nhiều điều không hay. Trường hợp bà Sayuri kể ra chuyện của
mình là vì không có ai ở nước Nhật có khả năng khiển trách bà được
nữa. Sợi dây ràng buộc bà với quê cha đất tổ đã bị cắt đứt. Điều này ít
ra phần nào đã cho chúng tôi biết lý do tại sao bà không cần phải giữ im
lặng, nhưng họ cũng không cho chúng tôi biết tại sao bà muốn kể lại. Tôi
sợ không dám hỏi bà lý do này,
nhỡ ra bà thận trọng mà đổi ý thì sao. Thậm chí bản thảo đã hoàn tất rồi
mà tôi cũng không dám hỏi. Chỉ sau khi bà đã thỏa thuận với nhà xuất
bản rồi, tôi mới thấy an tâm để hỏi:
- Tại sao bà muốn kể lại chuyện đời bà?
- Không kể thì tôi làm gì cho hết thì giờ? – bà đáp.
Cái lý do đơn giản như thế này có đúng hay không, tôi xin nhường lại
quyền nhận định cho bạn đọc.
Mặc dù Sayuri đồng ý kể lại chuyện đời bà, nhưng bà vẫn đưa ra một số
điều kiện. Bà muốn tác phẩm được in ra khi bà đã qua đời và các nhân
vật quan trọng có liên quan đến đời bà không còn nữa. May thay, sô nhân
vật này đã chết trước bà. Bà lo sợ việc cuốn sách ra đời sẽ khiến họ
hoang mang bối rối. Tên các nhân vật trong truyện một số được giữ
nguyên, một số được bà Sayuri giấu đi bằng cách chỉ gọi biệt danh của
họ, như ông
“Mưa tuyết” chẳng hạn.
Khi tôi yêu cầu bà Sayuri dùng máy ghi âm để ghi lại lời kể của bà, là
tôi cốt đảm bảo việc dịch lại câu chuyện của bà cho chính xác. Tuy
nhiên, từ ngày bà mất vào năm ngoái, tôi nhận ra việc ghi âm còn mang
một ý nghĩa khác, là nó giữ lại giọng nói của bà – giọng nói biểu cảm
mà tôi hiếm khi được nghe thấy từ người khác. Bây giờ, mỗi lần mở
băng ghi âm ra để nghe lại giọng nói của bà, tôi thấy khó mà tin được
việc bà đã từ giã cuộc đời này.
Jakob Haarhuis
Arnold Rusoff Giáo sư lịch sử Nhật
Đại học New York
Chương 1
Giả sử anh và tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhìn ra khu
vườn, uống trà xanh, nói chuyện gẫu, nhắc lại chuyện xưa, và tôi nói với
anh: “Chiều hôm ấy tôi gặp một chuyện như thế này này... Đó là một buổi
chiều tuyệt vời nhất, đồng thời cũng là một buổi chiều tệ hại nhất trong
đờI tôi.” Tôi nghĩ thế nào anh cũng để tách trà xuống và nói: “Sao,
chuyện gì kỳ cục thế? Chuyện gì mà vừa tuyệt vời mà lại vừa tệ hại?”
Lẽ ra tôi phải cười mình và đồng ý với anh. Nhưng đúng là buổi chiều
hôm ấy tôi gặp ông Tanaka Ichiro, và ông ta đã làm một chuyện vừa
tuyệt vời nhất vừa tệ hại nhất. Khi gặp ông ta, mặc dù hai tay ông hôi
mùi cá, nhưng tôi vẫn thấy ông rất hấp dẫn. Nếu tôi không gặp ông ta,
chắc tôi sẽ không bao giờ trở thành geisha được.
Tôi không phải được sinh ra và nuôi nấng để trở thành geisha ở Kyoto.
Tôi cũng không phải sinh ra ở Kyoto. Tôi là con một ngư phủ trong một
thị trấn có tên Yoroido nằm trên biển Nhật Bản. Suốt đời tôi rất ít khi nói
cho ai nghe chuyện về thi trấn Yoroido, hay nói về ngôi nhà tôi ở tại đấy,
hay nói về bố mẹ tôi, nói về người chị của tôi – và đương nhiên không
nói về hoàn cảnh tôi trở thành geisha như thế nào, hay cuộc đời của một
ngườI geisha
ra sao. Chắc nhiều người tưởng rằng mẹ tôi và bà ngoại tôi đều geisha cả
và chắc họ đã nghĩ rằng tôi tập ca múa ngay từ khi thôi bú mẹ. Cách đây
nhiều năm, khi tôi rót rượu sakê mời khách, tình cờ ông ta cho tôi biết
mới tuần trước đó ông ta đã ở tạI Yoroido. Trời, tôi cảm thấy mình như
con chim bay qua đại dương tìm về tổ ấm, đã đụng phải con vật khác
chiếm mất tổ của mình. Tôi quá kinh ngạc, không sao ngăn thốt lên lời:
- Yoroido à, tôi lớn lên ở nơi đấy ấy!
Tội thay cho ông ta! Mặt ông ta méo xệch trông đến tức cười! Ông ta
muốn cười mà không cười được vì bất ngờ và kinh ngạc.
- Ở Yoroido à? – Ông ta hỏi – Không ai tin bà đâu!
Tôi cười ruồi với ông. Từ lâu tôi đã tập được nụ cười mà tôi gọi là “nụ
cười của thần Noh”, vì nụ cười giống như nụ cười vẽ trên mặt nạ thần
Noh, một nụ cườI lạnh lùng. Nụ cười này có ưu thế là đàn ông muốn
hiểu sao cũng được, tùy họ; tôi thường dùng nụ cười này để trả lời họ.
Tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi nên dùng nụ cười này, vì nó rất hữu hiệu. Ông
ta thở dài rồi nốc hết vào miệng cốc sakê tôi vừa rót, trước khi cất tiếng
cười ha hả.
Nghe tiếng cười, tôi đoán ông ta đã cảm thấy khoái trá…
- Ý nghĩa tuyệt đấy chứ - ông ta nói và lại cất tiếng cười ha hả - Bà lớn
lên trong đống rác như ở Yoroido. Chẳng khác nào pha trà trong cái xô! –
Ông ta lại cười và nói tiếp – vì thế mà bà rất khôi hài, bà Sayuri ạ, đôi
lúc bà làm tôi tin những lờI nói đùa của bà là thật.
Tôi không muốn nghĩ mình là tách trà pha trong cái xô, nhưng dù sao tôi
vẫn thấy đấy là chuyện thực. Nói tóm lại, tôi đã lớn lên ở Yoroido, và
không ai cho đấy là một nơi quyến rũ. Không ai đến thăm nơi đấy. Còn
người dân sống ở đấy, không làm sao có cơ hội ra đi. Có lẽ anh muốn
biết làm sao mà tôi ra đi được. Thì đây, tôi bắt đầu câu chuyện ấy cho
anh nghe đây:
Trong ngôi làng đánh cá nhỏ ở thị trấn Yoroido, tôi sống trong túp lều mà
tôi vẫn gọi là “ngôi nhà ngà say”. Nhà ở gần một vách núi đá, nơi gió từ
biển luôn luôn thổi vào. Khi còn nhỏ, tôi cứ nghĩ là biển bị cảm lạnh rất
khủng khiếp, vì nó thường thở khò khè và có lúc hắt xì rất mạnh – hắt xì
làm bắn gió vào nhà chúng tôi. Tôi nghĩ ngôi nhà nhỏ của chúng tôi thỉnh
thoảng bị biển hắt xì vào mặt, rồi dừng lại một lát như thể nó muốn tranh
thủ thời gian để lấy lại sức. Nếu bố tôi không lấy một cột buồm nơi
chiếc thuyền đánh cá bị chìm để chống vào một bên chái, thì có lẽ ngôi
nhà đã sập từ lâu, và cảnh ngôi nhà có cột chống bên chái trông như một
lão già ngà say đang chống cái nạng vậy.
Tôi đã sống cuộc đời chệch choạng trong ngôi nhà ngà say này. Vì ngay
khi còn bé, tôi đã rất giống mẹ tôi, không giống bố tôi và chị tôi chút nào
hết.
Mẹ tôi nói rằng tôi và mẹ tôi rất giống nhau – mà quả đúng như thế, nhất
là cặp mắt, mắt của chúng tôi rất đặc biệt, không có ai ở Nhật có cặp mắt
giống chúng tôi như thế. Thay vì có màu nâu đen như mắt mọi người, mắt
mẹ tôi có màu xám trong, và mắt của tôi cũng thế. Khi tôi còn nhỏ, tôi
nói với mẹ rằng chắc có ai thọc một lỗ trong mắt của mẹ để cho mực
trong mắt của mẹ chảy ra hết, lời nói của tôi làm mẹ vui vui. Giới bói
toán cho rằng mắt mẹ tôi có màu bạc như thế vì mẹ tôi mạng Thủy, mà có
nhiều nước quá thì bốn yếu tố khác trong ngũ hành không hiện ra. Cho
nên họ cho vì thế mà các nét khác trên mặt bà so với cặp mắt rất xấu.
Dân làng nói đáng ra bà rất hấp dẫn mới phảI, vì bố mẹ bà đều đẹp.
Đúng là trái đào thì đẹp rồi, quả nấm cũng đẹp, nhưng đem cả hai ghép
lại với nhau thì không xong; đây quả là điều trớ trêu kinh khủng mà tạo
hóa áp đặt lên bà. Bà có cái miệng trề ra của mẹ, nhưng lại mang cái
hàm vuông của bố, khiến cho người ta cảm thấy những nét duyên dáng
của bà bị nằm trên khuôn mặt quá nặng nề. Còn cặp mắt xám xinh đẹp
của bà có hai hàng mi rậm viền chung quanh, chắc là giống bố, nhưng
nhờ thế mà trông bà càng hấp dẫn hơn.
Mẹ tôi thường nói bà lấy cha tôi vì bà có nhiều nước còn ông thì có nhiều
gỗ trong người. Những người biết cha tôi đều hiểu rõ mẹ tôi muốn nói cái
gì. Nước thì chảy khắp nơi và tìm chỗ nứt để thoát ra ngoài. Còn gỗ thì
trái lại, rễ mọc sâu xuống đất. Trong nghề của cha tôi, mạng Mộc là tốt
nhất, vì ông là dân đánh cá, mà người có gỗ trong người, sẽ xoay sở trên
mặt biển rất thoải mái.
Đúng như vậy, bố tôi rất thoải mái trên biển, thoải mái hơn bất kỳ chỗ nào
và không bao giờ xa biển lâu. Ông có mùi của biển ngay cả sau khi tắm
rửa xong. Khi ông không đánh cá, ông ngồi mạng lưới đánh cá trên nền
nhà của căn phòng tối tăm phía trước. Nếu cái lưới đánh cá là một sinh
vật đang ngủ, thì chắc ông cũng không làm cho nó thức dậy vì tốc độ làm
việc của ông quá rù rờ. Ông làm việc gì cũng rù rờ như thế. Ngay khi
ông tập trung vào công việc, thì chúng tôi chạy đi tắm, khiến ông nhăn
mặt càu nhàu. Mặt của ông nhăn nhúm kinh khủng, và trên mỗi vết nhăn
chồng chất một nỗi buồn phiền lo âu, cho nên nhìn vào mặt ông, người ta
không thấy đó là khuôn mặt nữa mà là một thân cây mang nhiều tổ chim
trên cành cây. Ông phải thường xuyên phấn đấu để giải tỏa các lo âu
buồn phiền ấy, và vì quá cố gắng nên trông ông lúc nào cũng xơ xác.
Khi tôi được sáu, bảy tuổi, tôi mớI được biết một ít về bố tôi. Một hôm
tôi hỏI ông:
- Bố này, sao bố già quá như thế?
Nghe hỏi, ông nhướng cao mày, cặp lông mày của ông khi ấy trông
giống như cặp dù nhỏ giương ra che cặp mắt bên dưới. Rồi ông buông
tiếng thở dài, lắc đầu và đáp:
- Bố không biết.
Khi tôi quay qua phía mẹ, bà nhìn tôi với ánh mắt như muốn nói với tôi
rằng bà sẽ cho tôi biết vào một dịp khác. Ngày hôm sau, không nói một
tiếng, bà dẫn tôi xuống đồi vào làng, rồi đi theo một con đường dẫn đến
nghĩa địa nằm trong rừng. Bà dẫn tôi đến ba ngôi mộ nằm trong góc
nghĩa địa, có ba tấm bia trắng cao hơn người tôi. Trên mộ bia có những
chữ màu đen vụng về từ đỉnh bia đến chân bia, nhưng chỉ vì đi học trong
trường làng một thờI gian ngắn, nên tôi không đủ sức đọc hết các chữ
viết trên bia mộ. Mẹ tôi chỉ vào hàng chữ và nói:
- Natsu, vợ của Sakamoto Minoru – Sakamoto Minoru là tên cha tôi - chết
năm 24 tuổI vào năm thư 19 Minh trị Thiên hòang - Rồi bà chỉ vào tấm
mộ bia bên cạnh: Jinichiro, con trai của Sakamoto Monoru, chết năm sáu
tuổi, vào năm thứ 19 Minh trị Thiên hòang, - rồi chỉ vào tấm bia kế bên,
tấm bia
giống cái trước, chỉ khác cái tên là Masao, và tuổi thì mới lên ba. Tôi
đứng ngẩn ngơ một lát mới hiểu ra là cha tôi đã có một đời vợ trước và
cả gia đình ông ấy đã chết hết. Mấy hôm sau tôi trở lạI thăm các ngôi
mộ ấy, tôi đứng nhìn, lòng nặng trĩu buồn phiền. Tôi đứng như chôn
chân tại chỗ, không rời đi được, như thể mấy ngôi mộ kia đã níu tôi ở
lại với họ.
Với người mạng Thủy và người mạng Mộc, đáng ra bố mẹ tôi hạp mạng
nhau, dung hòa cho nhau để sinh ra những đứa con có tư chất tốt đẹp mới
đúng. Đàng này họ lại sinh ra những đứa con, đứa thì giống mẹ, đứa thì
giống cha. Thực ra tôi không giống mẹ tôi, tôi chỉ giống đôi mắt khác
thường của bà thôi, còn chị tôi, Satsu, giống bố tôi như đúc. Satsu lớn
hơn tôi sáu tuổi, và dĩ nhiên vì lớn hơn tôi nên chị có thể làm những
việc mà tôi không làm nổi. Nhưng chị Satsu có đặc tính là làm việc gì
cũng bộp
chộp, thường gây ra tai nạn. Ví dụ có ai biểu chị múc một tô canh trong
nồi đang nấu trên lò lửa, thì chị sẽ đi múc ngay, nhưng chị múc canh từ
nồi vào tô với vẻ lanh chanh được chăng hay chớ. Một lần chị bị con cá
làm rách da, chị gói con cá trong giấy, mang dưới làng lên đồi, thì bỗng
con cá trượt ra, rơi dưới chân, cái vi cá đâm thẳng vào chân làm rách da
chị.
Chắc bố mẹ tôi muốn có thêm con ngoài Satsu và tôi ra, nhất là vì bố
muốn có con trai để đi đánh cá với ông. Nhưng khi tôi lên bảy tuổi thì mẹ
tôi đau nặng, có lẽ bà bị ung thư xương, nhưng lúc ấy tôi chẳng biết là
bệnh gì hết. Bà chỉ có cách duy nhất để khỏi thấy đau đớn là ngủ, nhưng
bà chỉ ngủ như con mèo ngủ mà thôi – nghĩa là chập chờn lúc ngủ lúc
thức. Càng ngày bà càng ngủ nhiều, và khi thức dậy bà lại rên. Tôi nghĩ
chắc cơ thể bà biến chuyển nhanh, nhưng vì người bà có nhiều nước nên
tôi thấy tình hình có
vẻ không đáng lo. Thỉnh thoảng bà gầy đi vài tháng rồI lấy lại sức liền
sau đó. Nhưng năm tôi lên chín tuổi thì xương mặt bà trơ ra, và sau đó
bà
- Xem thêm -