Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sách - Truyện đọc Truyện dài Hoi_uc_cua_mot_geisha_doi_ky_nu...

Tài liệu Hoi_uc_cua_mot_geisha_doi_ky_nu

.DOCX
895
430
64

Mô tả:

ÑÔØI KYÕ NÖÕ [Hồi Ức Một Geisha] Tác Giả: Arthur Golden Thể Loại: Tiểu Thuyết Dịch Giả: Văn Hòa - Kim Thùy Nguồn: vnthuquan.net Ebook: daotieuvu.blogspot.com Ebook được page hoàn thành với mục đích phi thương mại, nhằm chia sẻ với những bạn ở xa hoặc không có điều kiện mua sách, khi sao lưu xin ghi rõ nguồn. Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản và tác giả. Mục Lục: Lời ghi chú của người dịch Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Lời ghi chú của người dịch Vào một buổi tối mùa xuân năm 1936, khi tôi còn là một chú bé 16 tuổi, bố tôi dẫn tôi đi xem trình diễn ca nhạc múa ở Kyoto. Tôi chỉ nhớ hai điều về buổi trình diễn đó. Điều thứ nhất là bố tôi và tôi là hai người phương Tây duy nhất trong đám khán giả, chúng tôi mới từ quê nhà Hòa Lan sang đây được mấy tuần, cho nên tôi chưa quen với nền văn hóa xa lạ ở xứ này, nhưng tôi cảm thấy rất hấp dẫn. Điều thứ hai là nhờ sau nhiều tháng ra sức học tiếng Nhật, tôi cảm thấy thú vị biết bao khi hiểu được phần nào những câu chuyện họ nói với nhau. Riêng về các thiếu nữ Nhật đang ca múa trên sân khấu trước mặt, tôi không nhớ được gì, ngoại trừ hình ảnh lờ mờ về chiếc kimono màu sắc tươi sáng. Ở một nơi xa với nước Nhật như New York city này, và với khoảng thời gian đã gần 50 năm, nếu không có người phụ nữ đã từng múa trên sân khấu ở thành bạn thân của tôi, đọc cho tôi ghi lại hồi ức của bà ta, thì chắc tôi sẽ không biết gì hết về nền văn hóa đó. Vì là sử gia, cho nên tôi luôn luôn xem hồi ức là nguồn tài liệu quan trọng. Hồi ức cung cấp tài liệu về xã hội đương thời nhiều hơn chính bản thân của người viết hồi ký. Hồi ký khác với tiểu sử ở chỗ người viết hồi ký không bao giờ hoàn tất được kết cuộc, còn người viết tiểu sử đương nhiên là có. Nếu xem hồi ký là tự nguyện thì chẳng khác nào yêu cầu con thỏ kẻ lại cho chúng ta nghe về cánh đồng mà nó đã nhảy qua. Làm sao nó biết được? Còn nếu chúng ta muốn biết cánh đồng, muốn nghe nói đến những nơi con thỏ không thể thấy được thì chẳng có ai có hoàn cảnh thuận tiện hơn để nói. Tôi nói chuyện này với tinh thần của một nhà sử học, căn cứ trên các dữ kiện chính xác. Thế nhưng tôi phải thú nhận rằng hồi ký của bà bạn Nitta Sayuri của tôi đã khiến cho tôi phải suy nghĩ lại quan điểm của mình. Đúng thế, bà ấy đã lý giải cho chúng ta hiểu được phần nào thế giới bí mật mà bà đã sống – nếu quý vị muốn nói đấy là quan điểm của con thỏ về cánh đồng cũng được. Chắc không có một tài liệu kỳ lạ nào nói về đời sống kỳ lạ của nàng geisha đầy đủ, hay hơn tài liệu mà bà Sayuri đã cung cấp cho chúng ta. Bà còn để lại cho chúng ta tài liệu nói về bà hết sức đầy đủ, chính xác, có sức thuyết phục hơn cả chương sách nói dông dài về bà trong cuốn “Những viên ngọc lóng lánh của nước Nhật” (Glittering Jewels of Japan), hay hơn cả những bài viết về bà đăng trên các tạp chí xuất bản trong những năm vừa qua. Ít ra thì đây cũng là trường hợp hy hữu, vì không ai biết rõ người viết hồi ký bằng chính đương sự được. Việc bà Sayuri nổi tiếng như cồn chỉ là chuyện may mắn. Nhiều phụ nữ khác đã sống như bà. Bà Kato Yuki danh tiếng – nàng geisha đã chiếm được trái tim của ông J. Pierpont, và trở thành vợ ngoại hôn của ông trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ này – đã sống cuộc sống còn hy hữu hơn cả bà Sayuri nữa. Nhưng chỉ có Sayuri mới cung cấp cho ta tư liệu về đời bà đầy đủ như thế này. Tôi tin rằng bà quyết định làm công việc này là do tình cờ mà ra. Nếu bà vẫn còn ở bên Nhật, chắc cuộc sống của bà sẽ hết sức bận bịu, bà không thể nào tính đến chuyện viết hồi ký được. Thế nhưng, vào năm 1956, hoàn cảnh đã đưa đẩy bà Sayuri di cư sang Hoa Kỳ. Bà đã ở tại khách sạn Waldorf ở New York 40 năm, bà biến căn hộ ở trên tầng thứ 32 của khách sạn này thành một ngôi nhà theo kiểu Nhật tuyệt đẹp. Nhưng cuộc sống của bà ở đây cũng rất nhộn nhịp, căn hộ của bà luôn luôn có nhiều nghệ sĩ, trí thức, doanh nhân Nhật lui tới – thậm chí có cả các ông Bộ trưởng trong nội các và một vài găng tơ nữa. Mãi cho đến năm 1985, nhờ có người quen giới thiệu, tôi mới gặp được bà. Là người nghiên cứu về nước Nhật, tôi đã biết tên tuổi của Sayuri, nhưng hầu như tôi không biết tí gì về bà hết. Nhờ tình bạn ngày càng thắm thiết, bà tin tưởng vào tôi. Một hôm, tôi xin phép bà cho tôi viết về câu chuyện đời bà. Bà trả lời tôi: - Được thôi, Jakob-san, nếu ông đích thân ghi âm lời kể của tôi. Thế là chúng tôi bắt đầu công việc. Sayuri nói rằng bà muốn đọc hồi ký hơn là viết, vì bà đã quen nói mặt đối mặt với người khác, chứ bà không biết cách viết lách ra sao khi ngồi một mình trong phòng. Tôi đồng ý, và bản thảo của tôi đã được bà đọc cho chép 18 tháng liền. Tôi không rành tiếng thổ ngữ ở Kyoto của Sayuri – như các nàng geisha được dân ở đấy gọi là geiko, áo kimono thì được kêu là Obebe – nên khi bắt tay vào việc, tôi đã phải rất vất vả mới dịch đúng được nghĩa của chúng. Ngay từ đầu, tôi đã bị thế giới của bà cuốn hút. Chúng tôi thường gặp nhau vào các buổi tối, vì theo thói quen lâu ngày của Sayuri, buổi tối là lúc tinh thần của bà linh hoạt nhất. Thường bà thích làm việc trong căn phòng của bà ở khách sạn WaldorfTowers, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau trong căn phòng riêng tại một nhà hàng Nhật nằm trên đại lộ Park Avenue, ở đây mọi người đều biết bà. Những buổi làm việc của chúng tôi thường kéo dài hai hay ba giờ. Mặc dù chúng tôi thu băng lời lẽ của bà, nhưng buổi làm việc nào cũng có người thư ký của bà ở đấy để ghi chép, và cô ta đã ghi chép rất trung thực. Nhưng Sayuri không nói vào máy ghi âm hay nói với cô thư ký, bà luôn luôn nói với tôi. Khi bà không nhớ mình đã nói đến đâu, tôi là người nhắc cho bà nhớ. Tôi xem mình như nền móng của ngôi nhà, và tôi cảm thấy nếu tôi không có được lòng tin của bà, thì chắc không bao giờ bà kể ra câu chuyện này. Điều khiến chúng tôi thắc mắc nhất là tại sao bà Sayuri muốn kể ra câu chuyện này? Không có luật lệ chính thức nào buộc giới geisha giữ im lặng, nhưng họ đã quen với điều này rồi. Giới geisha không kể những chuyện đã xảy ra với họ cho người ta ghi chép. Giống như gái điếm, giới geisha thường phải đứng vào vị trí bất thường không nên đả động đến người này người nọ đã mua vui với họ. Loài bướm đêm này phải giữ được niềm tin nơi khách hàng của họ thì họ mới có lợi, bằng không, họ sẽ gặp nhiều điều không hay. Trường hợp bà Sayuri kể ra chuyện của mình là vì không có ai ở nước Nhật có khả năng khiển trách bà được nữa. Sợi dây ràng buộc bà với quê cha đất tổ đã bị cắt đứt. Điều này ít ra phần nào đã cho chúng tôi biết lý do tại sao bà không cần phải giữ im lặng, nhưng họ cũng không cho chúng tôi biết tại sao bà muốn kể lại. Tôi sợ không dám hỏi bà lý do này, nhỡ ra bà thận trọng mà đổi ý thì sao. Thậm chí bản thảo đã hoàn tất rồi mà tôi cũng không dám hỏi. Chỉ sau khi bà đã thỏa thuận với nhà xuất bản rồi, tôi mới thấy an tâm để hỏi: - Tại sao bà muốn kể lại chuyện đời bà? - Không kể thì tôi làm gì cho hết thì giờ? – bà đáp. Cái lý do đơn giản như thế này có đúng hay không, tôi xin nhường lại quyền nhận định cho bạn đọc. Mặc dù Sayuri đồng ý kể lại chuyện đời bà, nhưng bà vẫn đưa ra một số điều kiện. Bà muốn tác phẩm được in ra khi bà đã qua đời và các nhân vật quan trọng có liên quan đến đời bà không còn nữa. May thay, sô nhân vật này đã chết trước bà. Bà lo sợ việc cuốn sách ra đời sẽ khiến họ hoang mang bối rối. Tên các nhân vật trong truyện một số được giữ nguyên, một số được bà Sayuri giấu đi bằng cách chỉ gọi biệt danh của họ, như ông “Mưa tuyết” chẳng hạn. Khi tôi yêu cầu bà Sayuri dùng máy ghi âm để ghi lại lời kể của bà, là tôi cốt đảm bảo việc dịch lại câu chuyện của bà cho chính xác. Tuy nhiên, từ ngày bà mất vào năm ngoái, tôi nhận ra việc ghi âm còn mang một ý nghĩa khác, là nó giữ lại giọng nói của bà – giọng nói biểu cảm mà tôi hiếm khi được nghe thấy từ người khác. Bây giờ, mỗi lần mở băng ghi âm ra để nghe lại giọng nói của bà, tôi thấy khó mà tin được việc bà đã từ giã cuộc đời này. Jakob Haarhuis Arnold Rusoff Giáo sư lịch sử Nhật Đại học New York Chương 1 Giả sử anh và tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhìn ra khu vườn, uống trà xanh, nói chuyện gẫu, nhắc lại chuyện xưa, và tôi nói với anh: “Chiều hôm ấy tôi gặp một chuyện như thế này này... Đó là một buổi chiều tuyệt vời nhất, đồng thời cũng là một buổi chiều tệ hại nhất trong đờI tôi.” Tôi nghĩ thế nào anh cũng để tách trà xuống và nói: “Sao, chuyện gì kỳ cục thế? Chuyện gì mà vừa tuyệt vời mà lại vừa tệ hại?” Lẽ ra tôi phải cười mình và đồng ý với anh. Nhưng đúng là buổi chiều hôm ấy tôi gặp ông Tanaka Ichiro, và ông ta đã làm một chuyện vừa tuyệt vời nhất vừa tệ hại nhất. Khi gặp ông ta, mặc dù hai tay ông hôi mùi cá, nhưng tôi vẫn thấy ông rất hấp dẫn. Nếu tôi không gặp ông ta, chắc tôi sẽ không bao giờ trở thành geisha được. Tôi không phải được sinh ra và nuôi nấng để trở thành geisha ở Kyoto. Tôi cũng không phải sinh ra ở Kyoto. Tôi là con một ngư phủ trong một thị trấn có tên Yoroido nằm trên biển Nhật Bản. Suốt đời tôi rất ít khi nói cho ai nghe chuyện về thi trấn Yoroido, hay nói về ngôi nhà tôi ở tại đấy, hay nói về bố mẹ tôi, nói về người chị của tôi – và đương nhiên không nói về hoàn cảnh tôi trở thành geisha như thế nào, hay cuộc đời của một ngườI geisha ra sao. Chắc nhiều người tưởng rằng mẹ tôi và bà ngoại tôi đều geisha cả và chắc họ đã nghĩ rằng tôi tập ca múa ngay từ khi thôi bú mẹ. Cách đây nhiều năm, khi tôi rót rượu sakê mời khách, tình cờ ông ta cho tôi biết mới tuần trước đó ông ta đã ở tạI Yoroido. Trời, tôi cảm thấy mình như con chim bay qua đại dương tìm về tổ ấm, đã đụng phải con vật khác chiếm mất tổ của mình. Tôi quá kinh ngạc, không sao ngăn thốt lên lời: - Yoroido à, tôi lớn lên ở nơi đấy ấy! Tội thay cho ông ta! Mặt ông ta méo xệch trông đến tức cười! Ông ta muốn cười mà không cười được vì bất ngờ và kinh ngạc. - Ở Yoroido à? – Ông ta hỏi – Không ai tin bà đâu! Tôi cười ruồi với ông. Từ lâu tôi đã tập được nụ cười mà tôi gọi là “nụ cười của thần Noh”, vì nụ cười giống như nụ cười vẽ trên mặt nạ thần Noh, một nụ cườI lạnh lùng. Nụ cười này có ưu thế là đàn ông muốn hiểu sao cũng được, tùy họ; tôi thường dùng nụ cười này để trả lời họ. Tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi nên dùng nụ cười này, vì nó rất hữu hiệu. Ông ta thở dài rồi nốc hết vào miệng cốc sakê tôi vừa rót, trước khi cất tiếng cười ha hả. Nghe tiếng cười, tôi đoán ông ta đã cảm thấy khoái trá… - Ý nghĩa tuyệt đấy chứ - ông ta nói và lại cất tiếng cười ha hả - Bà lớn lên trong đống rác như ở Yoroido. Chẳng khác nào pha trà trong cái xô! – Ông ta lại cười và nói tiếp – vì thế mà bà rất khôi hài, bà Sayuri ạ, đôi lúc bà làm tôi tin những lờI nói đùa của bà là thật. Tôi không muốn nghĩ mình là tách trà pha trong cái xô, nhưng dù sao tôi vẫn thấy đấy là chuyện thực. Nói tóm lại, tôi đã lớn lên ở Yoroido, và không ai cho đấy là một nơi quyến rũ. Không ai đến thăm nơi đấy. Còn người dân sống ở đấy, không làm sao có cơ hội ra đi. Có lẽ anh muốn biết làm sao mà tôi ra đi được. Thì đây, tôi bắt đầu câu chuyện ấy cho anh nghe đây: Trong ngôi làng đánh cá nhỏ ở thị trấn Yoroido, tôi sống trong túp lều mà tôi vẫn gọi là “ngôi nhà ngà say”. Nhà ở gần một vách núi đá, nơi gió từ biển luôn luôn thổi vào. Khi còn nhỏ, tôi cứ nghĩ là biển bị cảm lạnh rất khủng khiếp, vì nó thường thở khò khè và có lúc hắt xì rất mạnh – hắt xì làm bắn gió vào nhà chúng tôi. Tôi nghĩ ngôi nhà nhỏ của chúng tôi thỉnh thoảng bị biển hắt xì vào mặt, rồi dừng lại một lát như thể nó muốn tranh thủ thời gian để lấy lại sức. Nếu bố tôi không lấy một cột buồm nơi chiếc thuyền đánh cá bị chìm để chống vào một bên chái, thì có lẽ ngôi nhà đã sập từ lâu, và cảnh ngôi nhà có cột chống bên chái trông như một lão già ngà say đang chống cái nạng vậy. Tôi đã sống cuộc đời chệch choạng trong ngôi nhà ngà say này. Vì ngay khi còn bé, tôi đã rất giống mẹ tôi, không giống bố tôi và chị tôi chút nào hết. Mẹ tôi nói rằng tôi và mẹ tôi rất giống nhau – mà quả đúng như thế, nhất là cặp mắt, mắt của chúng tôi rất đặc biệt, không có ai ở Nhật có cặp mắt giống chúng tôi như thế. Thay vì có màu nâu đen như mắt mọi người, mắt mẹ tôi có màu xám trong, và mắt của tôi cũng thế. Khi tôi còn nhỏ, tôi nói với mẹ rằng chắc có ai thọc một lỗ trong mắt của mẹ để cho mực trong mắt của mẹ chảy ra hết, lời nói của tôi làm mẹ vui vui. Giới bói toán cho rằng mắt mẹ tôi có màu bạc như thế vì mẹ tôi mạng Thủy, mà có nhiều nước quá thì bốn yếu tố khác trong ngũ hành không hiện ra. Cho nên họ cho vì thế mà các nét khác trên mặt bà so với cặp mắt rất xấu. Dân làng nói đáng ra bà rất hấp dẫn mới phảI, vì bố mẹ bà đều đẹp. Đúng là trái đào thì đẹp rồi, quả nấm cũng đẹp, nhưng đem cả hai ghép lại với nhau thì không xong; đây quả là điều trớ trêu kinh khủng mà tạo hóa áp đặt lên bà. Bà có cái miệng trề ra của mẹ, nhưng lại mang cái hàm vuông của bố, khiến cho người ta cảm thấy những nét duyên dáng của bà bị nằm trên khuôn mặt quá nặng nề. Còn cặp mắt xám xinh đẹp của bà có hai hàng mi rậm viền chung quanh, chắc là giống bố, nhưng nhờ thế mà trông bà càng hấp dẫn hơn. Mẹ tôi thường nói bà lấy cha tôi vì bà có nhiều nước còn ông thì có nhiều gỗ trong người. Những người biết cha tôi đều hiểu rõ mẹ tôi muốn nói cái gì. Nước thì chảy khắp nơi và tìm chỗ nứt để thoát ra ngoài. Còn gỗ thì trái lại, rễ mọc sâu xuống đất. Trong nghề của cha tôi, mạng Mộc là tốt nhất, vì ông là dân đánh cá, mà người có gỗ trong người, sẽ xoay sở trên mặt biển rất thoải mái. Đúng như vậy, bố tôi rất thoải mái trên biển, thoải mái hơn bất kỳ chỗ nào và không bao giờ xa biển lâu. Ông có mùi của biển ngay cả sau khi tắm rửa xong. Khi ông không đánh cá, ông ngồi mạng lưới đánh cá trên nền nhà của căn phòng tối tăm phía trước. Nếu cái lưới đánh cá là một sinh vật đang ngủ, thì chắc ông cũng không làm cho nó thức dậy vì tốc độ làm việc của ông quá rù rờ. Ông làm việc gì cũng rù rờ như thế. Ngay khi ông tập trung vào công việc, thì chúng tôi chạy đi tắm, khiến ông nhăn mặt càu nhàu. Mặt của ông nhăn nhúm kinh khủng, và trên mỗi vết nhăn chồng chất một nỗi buồn phiền lo âu, cho nên nhìn vào mặt ông, người ta không thấy đó là khuôn mặt nữa mà là một thân cây mang nhiều tổ chim trên cành cây. Ông phải thường xuyên phấn đấu để giải tỏa các lo âu buồn phiền ấy, và vì quá cố gắng nên trông ông lúc nào cũng xơ xác. Khi tôi được sáu, bảy tuổi, tôi mớI được biết một ít về bố tôi. Một hôm tôi hỏI ông: - Bố này, sao bố già quá như thế? Nghe hỏi, ông nhướng cao mày, cặp lông mày của ông khi ấy trông giống như cặp dù nhỏ giương ra che cặp mắt bên dưới. Rồi ông buông tiếng thở dài, lắc đầu và đáp: - Bố không biết. Khi tôi quay qua phía mẹ, bà nhìn tôi với ánh mắt như muốn nói với tôi rằng bà sẽ cho tôi biết vào một dịp khác. Ngày hôm sau, không nói một tiếng, bà dẫn tôi xuống đồi vào làng, rồi đi theo một con đường dẫn đến nghĩa địa nằm trong rừng. Bà dẫn tôi đến ba ngôi mộ nằm trong góc nghĩa địa, có ba tấm bia trắng cao hơn người tôi. Trên mộ bia có những chữ màu đen vụng về từ đỉnh bia đến chân bia, nhưng chỉ vì đi học trong trường làng một thờI gian ngắn, nên tôi không đủ sức đọc hết các chữ viết trên bia mộ. Mẹ tôi chỉ vào hàng chữ và nói: - Natsu, vợ của Sakamoto Minoru – Sakamoto Minoru là tên cha tôi - chết năm 24 tuổI vào năm thư 19 Minh trị Thiên hòang - Rồi bà chỉ vào tấm mộ bia bên cạnh: Jinichiro, con trai của Sakamoto Monoru, chết năm sáu tuổi, vào năm thứ 19 Minh trị Thiên hòang, - rồi chỉ vào tấm bia kế bên, tấm bia giống cái trước, chỉ khác cái tên là Masao, và tuổi thì mới lên ba. Tôi đứng ngẩn ngơ một lát mới hiểu ra là cha tôi đã có một đời vợ trước và cả gia đình ông ấy đã chết hết. Mấy hôm sau tôi trở lạI thăm các ngôi mộ ấy, tôi đứng nhìn, lòng nặng trĩu buồn phiền. Tôi đứng như chôn chân tại chỗ, không rời đi được, như thể mấy ngôi mộ kia đã níu tôi ở lại với họ. Với người mạng Thủy và người mạng Mộc, đáng ra bố mẹ tôi hạp mạng nhau, dung hòa cho nhau để sinh ra những đứa con có tư chất tốt đẹp mới đúng. Đàng này họ lại sinh ra những đứa con, đứa thì giống mẹ, đứa thì giống cha. Thực ra tôi không giống mẹ tôi, tôi chỉ giống đôi mắt khác thường của bà thôi, còn chị tôi, Satsu, giống bố tôi như đúc. Satsu lớn hơn tôi sáu tuổi, và dĩ nhiên vì lớn hơn tôi nên chị có thể làm những việc mà tôi không làm nổi. Nhưng chị Satsu có đặc tính là làm việc gì cũng bộp chộp, thường gây ra tai nạn. Ví dụ có ai biểu chị múc một tô canh trong nồi đang nấu trên lò lửa, thì chị sẽ đi múc ngay, nhưng chị múc canh từ nồi vào tô với vẻ lanh chanh được chăng hay chớ. Một lần chị bị con cá làm rách da, chị gói con cá trong giấy, mang dưới làng lên đồi, thì bỗng con cá trượt ra, rơi dưới chân, cái vi cá đâm thẳng vào chân làm rách da chị. Chắc bố mẹ tôi muốn có thêm con ngoài Satsu và tôi ra, nhất là vì bố muốn có con trai để đi đánh cá với ông. Nhưng khi tôi lên bảy tuổi thì mẹ tôi đau nặng, có lẽ bà bị ung thư xương, nhưng lúc ấy tôi chẳng biết là bệnh gì hết. Bà chỉ có cách duy nhất để khỏi thấy đau đớn là ngủ, nhưng bà chỉ ngủ như con mèo ngủ mà thôi – nghĩa là chập chờn lúc ngủ lúc thức. Càng ngày bà càng ngủ nhiều, và khi thức dậy bà lại rên. Tôi nghĩ chắc cơ thể bà biến chuyển nhanh, nhưng vì người bà có nhiều nước nên tôi thấy tình hình có vẻ không đáng lo. Thỉnh thoảng bà gầy đi vài tháng rồI lấy lại sức liền sau đó. Nhưng năm tôi lên chín tuổi thì xương mặt bà trơ ra, và sau đó bà
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan