ĩ HỌC MÌOM
THƯƠNG
KINH 1ÌỈ14NH Qlíôc TÊ
ĩ
1
WẾÊmỉ£ìmmẵm
LỈNH. »ự& B Á O KIÊẩVi
É WÊẳ
Thi Neoc Ph
1
T R Ư Ơ N G ĐẠI HỌC NGOẠI T H Ư Ơ N G
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
C H U Y Ê N N G À N H KINH DOANH QUỐC TẾ
G8
ca
Ịtr,
FOREIGN TIMDE UNIVERSIIY
KHOA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỂ TÀI:
HỘI NHẬP TRONG LĨNH vực BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện
: PHẠM THỊ NGỌC PHƯƠNG
Lớp
: ANH Ì - QTKD
Khoa
: K41
Giáo viên hướng dẫn
: GS. TS. HOÀNG VĂN CHÂU
HÀ NỘI, T H Á N G 11/2006
MỤC LỤC
LỜI NÓI Đ Ầ U
Ì
C H Ư Ơ N G 1: DỊCH v ụ BẢO H I Ể M Ở VIỆT N A M VỚI H Ộ I NHẬP
KINH T Ế Q U Ố C T Ê
4
1.1. L Ý LUẬN CHUNG VẾ DỊCH v ụ BẢO HIỂM
4
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm
4
1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm
1.1.3. V a i trò của dịch vụ bảo hiểm
1.2. HỘI NHẬP TRONG BẢO HIỂM
1.2.1. H ộ i nhập kinh tế
1.2.2. Những yêu cầu đối với hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam
1.3. THỊ T R Ư Ờ N G BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG NHỮNG N Ă M GẦN Đ Â Y
7
8
l i
11
13
14
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trưọng bảo hiểm Việt Nam
14
1.3.2. C ơ cấu thị trưọng
15
1.3.3. Quy m ô thị trưọng
17
1.4. TÌNH HÌNH P H Á T TRIỂN DỊCH v ụ BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG
NHỮNG N Ă M QUA
19
1.4.1. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
19
1.4.2. Hoạt động bảo hiểm nhân thọ
22
1.4.3. Hoạt động tái bảo hiểm
23
1.4.4. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm
25
1.4.5. Hoạt động trung gian bảo hiểm
25
C H Ư Ơ N G 2: HỘI NHẬP TRONG LĨNH vực BẢO HIỂM Ở V Ệ T NAM
27
2.1. C ơ HỘI V À T H Á C H THỨC ĐỐI VỚI BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
27
2.1.1. Cơ hội
27
2.1.2. Thách thức
30
2.2. C Á C CAM KẾT VỀ HỘI NHẬP TRONG LĨNH v ự c BẢO HIỂM V À
TÌNH HÌNH TH
C HIỆN C Á C CAM KẾT Đ Ó CỦA VIỆT NAM
36
2.2.1. Cam kết m ở cửa lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam
36
a) Hiệp định khung ASEAN...:
36
b) Cam kếtvới APEC
39
c) Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
40
d) Cam kết trong W T O
45
2.2.2. Tình hình thực hiện các cam kếtquốc tế
46
2.3. ĐÁNH GIÁ VẾ TÌNH HÌNH HỘI NHẬP TRONG LĨNH vực BẢO HIỂM
ở VIỆT NAM
48
2.3.1. M ộ t số thành tựu nổi bật
48
2.3.2. Những hạn chế của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong quá trình
hội nhập
53
C H Ư Ơ N G 3: MỘT số GIẢI PHÁP NHẰM C H Ú ĐỘNG VÀ TÍCH c ự c
HỘI NHẬP TRONG LĨNH v ự c BẢO HIỂM Ớ VIỆT NAM
57
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VẾ HỘI NHẬP TRONG LĨNH vực BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
57
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH cực HỘI NHẬP TRONG
LĨNH Vực BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
62
3.2.1. Về phía Nhà nước
62
a) Hoàn thiện môi trường pháp lý về kinh doanh bảo hiểm và tăng cường
hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm
62
b) Có các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với kinh doanh bảo hiểm
63
c) Tạo sự cạnh tranh phù hợp trên thị trường bảo hiểm
64
3.2.2. Về phía các công ty bảo hiểm
65
a) Phát triển và nâng cao chửt lượng sản phẩm bảo hiểm
65
b) Phát triển các kênh phân phối
66
c) Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo
68
d) Nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực
70
e) Sử dụng tối đa, có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm
72
f) Nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn kinh doanh
73
3.2.3. Về phía Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
74
3.3. M Ộ T S Ố K I Ế N NGHỊ, Đ Ề X U Ấ T
75
K Ế T LUẬN
81
TÀI LIỆU T H A M K H Ả O
83
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp t h i ế t của đề tài:
Trong những năm gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu
thế tất yếu khách quan của quá trình phát triển thế giói. Hầu hết các nước đều
đang nỗ lực thực hiện các cải tổ về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoa để có thể
hoa nhập với thế giới trong b ố i cảnh x u thế hội nhập đang diừn ra ngày một
mạnh mẽ. Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay đó. Trong những năm
gần đây, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách, định hướng nhầm
đưa nước ta từng bước hội nhập trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực bảo
hiểm. Đặc biệt là thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng như thị trường bảo hiểm
ở các nước trên thế giói đều có m ố i quan hệ bảo hiểm, tái bảo hiểm với thị
trường bảo hiểm quốc tế.
Mặc dù ngành bảo hiểm ồ Việt Nam được bắt đầu hình thành từ năm
1965 với sự ra đời của Công ty bảo hiểm Việt Nam (Nay là Tổng Công ty bảo
hiểm Việt Nam), nhưng Việt Nam chỉ thực sự có thị trường bảo hiểm từ năm
1994 sau k h i Nghị định 100/CP của Chính phủ được ban hành tháng 12 năm
1993. V ớ i sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm, thị trường bảo hiểm
Việt Nam đã trở nên sôi động hơn, đáp ứng được các nhu cầu về bảo hiểm của
các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những chuyển biến
sâu sắc, thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua cũng còn nhiều hạn
chế cần được khắc phục như nhận thức của người dân về bảo hiểm còn thấp,
chất lượng của dịch vụ bảo hiểm chưa cao, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước còn yếu kém. Vì vậy, việc nhận thức rõ các hạn
chế, yếu kém, các thành tựu đã đạt được của thị trường bảo hiểm của Việt
Nam cũng như tình hình thực hiện các cam kết quốc tế về bảo hiểm là yêu cầu
cấp bách đối vói các nhà hoạch định chính sách cũng như cho các doanh
nghiệp bảo hiểm k h i Việt Nam gia nhập WTO
Ì
vào tháng 11 năm 2006.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn trên tôi đã chọn dề tài: "Hội nhập trong
lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam"
làm luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đ ẻ tài tập trung nghiên cứu thực trạng và tình hình hội nhập của thị
trường bảo hiểm Viặt Nam cũng như tình hình thực hiặn các cam kết của Viặt
Nam trong lĩnh vực bảo hiểm, từ đó tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế các
mặt tiêu cực, phát huy các mặt tích cực, nhằm chủ động và tích cực hội nhập
hơn trong lĩnh vực bảo hiểm.
3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đ ố i tượng nghiên cứu: Vấn đề h ộ i nhập trong lĩnh vực bảo hiểm ở
Viặt Nam
- Phạm v i nghiên cứu: Dịch vụ bảo hiểm Viặt Nam trong những năm
gân đây. Tập trang vào tình hình hội nhập, các cơ hội, thách thức m à hội nhập
đem lại cũng như thực trạng của thị trường bảo hiểm Viặt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế và tình hình thực hiặn các cam kết của Viặt Nam trong lĩnh
vực bảo hiểm.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biặn chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử với
phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh và hặ thống hoa cũng được sử dụng để thực hiặn mục đích
nghiên cứu của luận văn.
5. Những đóng góp của Luận văn:
- Hặ thống hoa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ
bảo hiểm, vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế, nêu được tổng quan về thị
trường và các dịch vụ bảo hiểm trong những năm gần đây.
- Phân tích yêu cẩu hội nhập, cơ hội, thách thức, các cam kết về bảo hiểm
Viặt Nam đã ký kết và tình hình hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm ở Viặt Nam.
2
- Đ ề xuất các giải pháp nhằm tích cực, chủ dộng hội nhập trong lĩnh vực
bảo hiểm ở V i ệ t Nam.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
Chương Ì: Dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam vói hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: H ộ i nhập trong lĩnh vực bảo hiểm ỏ Việt Nam
Chương 3: M ộ t số giải pháp nhằm tích cực, chù động hội nhập trong
lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam.
Đ ể hoàn thành khoa luận này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất
tại Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Văn Châu và các thầy cô trong khoa Quản Trị Kinh
Doanh - Trường Đ ạ i học Ngoại Thương đã tận tình giúp đỡ, hưạng dẫn tói.
Mặc dù đã có cố gắng trong quá trình nghiên cứu song do điều kiện về
thòi gian và kiến thức bản thân có hạn nên khoa luận này không thế tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Rất mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến cho
bài khoa luận được hoàn thiện hơn.
Xin chăn thành cắm ơn.'
3
CHƯƠNG Ì
DỊCH V Ụ BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM VỚI HỘI NHẬP
KINH T Ê QUỐC T Ế
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VẾ DỊCH vụ BẢO HIỂM
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm
a) Bảo hiềm
Các loại hình bảo hiểm hiện nay đang được triển khai rộng rãi ở khắp
các nước trên thế giới. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm gắn liền với cuộc
dấu tranh để sinh tồn của con người trước những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra
bất kỳ lúc nào gây thiệt hại không những về của cải vửt chất m à còn đến cả
tính mạng, sức khoe con người. Có thể lấy ví dụ: Rủi ro do tự nhiên gây ra như
các hiện tượng bão lụt, động đất, núi lửa; rủi ro do con người gây ra như tai
nạn phương tiện giao thông vửn tải, tai nạn lao động; hay rủi ro do môi trường
xã hội như hiện tượng trộm cắp. Đ ể đối phó với các nguy cơ rủi ro có thể xảy
ra gây thiệt hại cho con người, dã có nhiều biện pháp được sử dụng. Trên quan
điểm quản lý rủi ro, các biện pháp này được chia thành hai nhóm:
- Nhóm
các biện pháp kiềm soát rủi ro. Bao gồm các biện pháp tránh
né r ủ i ro, ngăn ngừa tổn thất và giảm thiểu tổn thất. Trong đó:
Tránh né r ủ i ro bao gồm các biện pháp nhằm loại trừ hoặc không cho
rủi ro có cơ hội xảy ra. Chẳng hạn, để tránh né tai nạn giao thông xảy ra, có
thể chọn giải pháp không d i lại ra ngoài đường nữa. Nhưng rõ ràng trong cuộc
sống con người không thể chọn phương án tránh né cho m ọ i r ủ i ro vì con
người còn phải làm việc để duy trì cuộc sống.
Ngăn ngừa rủi ro bao gồm các biện pháp nhằm làm giảm mức độ tổn thất
do rủi ro gây nên. Chẳng hạn, để đề phòng hoa hoạn xảy ra người ta thực hiện tốt
việc phòng cháy, hay thực hiện tốt an toàn lao dộng để giảm tai nạn lao động.
Giảm thiểu tổn thất bao gồm các biện pháp nhằm giảm giá trị thiệt hại
4
khi r ủ i ro đã xảy ra. Chẳng hạn, để tránh tai nạn giao thông xảy ra gây tổn
thương đến não người điều khiển xe cần dội mũ bảo hiểm, hay cần có đủ
phương tiện chữa cháy k h i có hoa hoạn xảy ra.
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro. Mặc dù đã thực hiện các biện pháp
kiểm soát rủi ro, nhưng rủi ro là bất ngờ và không lường trước được nên vằn
có thể cứ xảy ra, gây thiệt hại lớn cho con người. N h ó m các biện pháp tài trợ
rủi ro là bao gồm những biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn về mặt
tài chính do rủi ro bất ngờ gây ra, như:
Tự khắc phục rủi ro: là biện pháp m à rất nhiều người áp dụng, đặc biệt ở
Việt Nam, hình thức rõ nhất ở các gia đình là tiết kiệm. M ỗ i gia đình luôn
phải để dành một khoản tiền nhất định nhằm phòng ngừa những lúc bệnh tật,
ốm đau.. .Biện pháp này các công ty cũng rất hay sử dụng, thể hiện ở các quỹ
dự phòng. Tuy nhiên biện pháp này cũng chỉ có thể đem lại kết quả tốt nếu
tính chất, mức độ nghiêm trọng của rủi ro không quá lớn.
Chuyển nhượng r ủ i ro: là biện pháp san sẻ rủi ro của một số người cho
nhiều người khác. Những người có thể gặp rủi ro sẽ trả một khoản tiền nhỏ cho
người khác theo một kỳ nhất định, bù lại, người kia phải trả cho người gặp rủi ro
một khoản tiền lớn trong trường hợp rủi ro xảy ra. Đ ó chính là bảo hiểm (BH).
Trong thực tế, các biện pháp này tồn tại song song nhau, trong đó bảo hiểm
được coi là biện pháp hữu hiệu nhất.
Hiện nay, có nhiều nghiên cứu khoa học về bảo hiểm đã đưa ra các khái
niệm về BH.
Dưới góc độ chuyển giao rủi ro, "bảo hiềm là một cơ chế, theo cơ chế
này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho
công ty bảo hiềm, công ty đó sẽ bồi thường cho người dược bảo hiềm các tổn
thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những
người được bảo hiểm" [5].
D ư ớ i góc độ kỹ thuật bảo hiểm, B H được hiểu là "biện pháp chia nhò
5
tổn thất của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quỹ
chung bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cùng có khả năng
gặp rủi ro đồ thông qua hoạt động của công ty bảo hiềm" [5].
Các quan niệm trên dù định nghĩa B H theo những cách thức khác nhau
những đều thể hiện bản chất của bảo hiểm nói chung đó là sự san sẻ rủi ro trên
cơ sở quy luật số lớn của các cá nhân và tổ chức trong xã h ộ i thông qua hoọt
động của các tổ chức bảo hiểm. Vậy có thể định nghĩa bảo hiểm như sau:
"Bảo hiệm " là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiếm đối với người
được bảo hiệm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiềm do một rủi ro
đã thoa thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiềm đã thuê bảo hiềm cho
đối tượng bảo hiệm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiệm [3].
b) Dịch vụ bảo hiềm
Dịch vụ bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ có tầm quan
trọng lớn đối với nền k i n h tế. Không chỉ để phòng ngừa rủi ro, ổn định kinh
tế xã h ộ i m à còn trấn an tâm lý nhân dân, tọo công ăn việc làm, tọo vốn cho
nền kinh tế...
Tham gia vào dịch vụ bảo hiểm có người mua, tức khách hàng, người
bán và các tổ chức trung gian.
Người mua - khách hàng là những cá nhân hay tổ chức có tài sản, trách
nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mọng hoặc thân thể có thể gặp r ủ i ro cẩn
bảo hiểm thì mua các dịch vụ (sản phẩm) bảo hiểm hoặc trực tiếp hoặc thông
qua các tổ chức trung gian. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tọi và
khách hàng tiềm năng của một loọi sản phẩm. Khách hàng hiện tọi là khách
hàng đang tham gia quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó, khách hàng tiềm
năng là khách hàng có thể tham gia vào quá trình mua và sử dụng sản phẩm
đó trong tương lai. Khách hàng tiềm năng phải thoa mãn các điều kiện:
- Có nhu cầu về sản phẩm
- Có khả năng tài chính
- Là đối tượng thoa mãn các điểu kiện của sản phẩm
6
- Người bán có thể tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với họ.
Người bán là các công ty bảo hiểm kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm.
Theo tính chất sở hữu, công ty bảo hiểm có thể chia ra doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh...; theo quy m ô tổ chức,
có thể chia ra tổng công ty, công ty... Các công ty bảo hiểm bán các sản phẩm
bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng hoặc thông qua các tổ chức trung gian.
Tổ chức trung gian là cẩu n ố i giữa người mua với người bán. Tổ chức
trung gian gủm các công ty (hoặc hãng) môi giới và đại lý bảo hiểm. Công ty
(hoặc hãng) môi giới và đại lý bảo hiểm có đặc trưng về tổ chức và chức năng
khác nhau.
Theo định nghĩa của ISO 9004 - 2 1991E thì "Dịch vụ là kết quả mang lại
nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ
các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ".[7]
Vậy, qua những phân tích như trên, có thể hiểu dịch vụ bảo hiểm như
sau: "Dịch vụ bảo hiểm là tất cả những dịch vụ, những sản phẩm m à người
bán bảo hiểm cung cấp cho người mua bảo hiểm".
1.1.2. Đ ặ c điểm của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm
Vói bản chất của mình, sản phẩm bảo hiểm không chỉ giống như các
sản phẩm của các ngành dịch vụ khác là sản phẩm võ hình, không có hình
dáng, trọng lượng m à còn có những đặc điểm khác. Có thể tóm tắt đặc điểm
của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm như sau:
- Là sản phẩm không định hình. Tại thời điểm bán, sản phẩm m à doanh
nghiệp bảo hiểm cung cấp ra thị trường chỉ là l ờ i hứa, l ờ i cam kết trả tiền bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Người bán không chỉ ra được m à u sắc, kích
thước hay hình dạng của sản phẩm, và người mua cũng không cảm nhận được
bằng giác quan của mình như cầm nắm, sờ m ó , ngửi hay nếm thử. K h i chấp
mua tức người mua buộc phải t i n l ờ i hứa của doanh nghiệp bảo hiểm. Đặc
trưng này của sản phẩm bảo hiểm là một nhân t ố rất quan trọng ảnh hưởng
đến các chiến lược bán hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm.
7
- Là sản phẩm có hiệu quả "xê dịch". K h i mua sản phẩm, người mua
không nhận được l ợ i ích tức thì của sản phẩm, từ lúc mua sản phẩm đến lúc
biết giá trị sử dụng của nó là một khoảng thời gian dài. Ngoài ra, người mua
chỉ được hưòng giá trị sử dụng của sản phẩm bảo hiểm là được bồi thường khi
không may gặp r ủ i ro. Còn nếu may mựn không gặp rủi ro, người mua sẽ
không được hưởng quyền l ợ i đó.
- Là sản phẩm "không mong đợi". Bởi vì khi mua bảo hiểm, mục đích
của khách hàng chỉ là đề phòng nếu chẳng may có rủi ro xảy ra và thực sự
không ai muốn rủi ro xảy ra với mình. Không một người bình thường nào lại
mong đợi gặp r ủ i ro xảy ra với mình để được bảo hiểm bồi thường.
- Là sẩn phẩm của "chu kỳ kinh doanh đảo ngược". Điều này thể hiện ở
việc các doanh nghiệp không phải bỏ vốn như các doanh nghiệp sản xuất để
mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và các chi phí đầu vào khác để sản xuất
ra hàng hoa bán, m à doanh nghiệp bảo hiểm thu phí bảo hiểm trước từ người
tham gia bảo hiểm, sau đó mới sử dụng tiền thu phí này để thực hiện nghĩa vụ
chi trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Là sản phẩm dễ bắt chước. M ộ t hợp đồng bảo hiểm dù là bản gốc
cũng không được cấp bằng phát minh sáng chế và bảo hộ bản quyền, v ề lý
thuyết, m ọ i doanh nghiệp bảo hiểm đều có thể bán một cách hợp pháp những
hợp đồng là bản sao chép của đối thủ cạnh tranh, ngoại trừ tên và các tờ tuyên
truyền quảng cáo. Đặc trưng này của sản phẩm bảo hiểm ảnh hưởng rất lớn
đến chiến lược của doanh nghiệp bảo hiểm khi muốn làm khác biệt sản phẩm
của mình với các đối thủ cạnh tranh khác.
1.1.3. V a i trò của dịch vụ bảo hiểm
- Đóng góp vào sự ổn định kình tế— xã hội
Các loại hình bảo hiểm hiện nay dang được triển khai rộng rãi ở khấp
các nước trên thế giới. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm gựn liền với cuộc
đấu tranh để sinh tồn của con người trước những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra
8
bất kỳ lúc nào gây thiệt hại không những về của cải vật chất m à còn đến cả
tính mạng, sức khoe con nguôi. Có thể thấy, là một công cụ nhằm đối phó với
những rủi ro bất ngờ xảy ra cả về tài chính, tính mạng, của cải...bảo hiểm có
vai trò to lớn đối với không chị với cá nhân tổ chức m à còn với cả nền kinh tế
nói chung:
+ Bảo hiểm góp phần ổn định đời sống kinh tế, từ đó ổn định về mặt
tinh thẩn cho các cá nhân và tổ chức trong xã hội k h i không may gặp phải rủi
ro. Điều đó được dựa trẽn cơ sở bảo hiểm bù đắp những thiệt hại tài chính do
rủi ro gây ra. Đặc biệt, k h i tổn thất xảy ra có mức độ và quy m ô lớn, ý nghĩa
của bảo hiểm lại càng được nhân lên gấp nhiều lần.
+ Bảo hiểm góp phẩn làm giảm "tổng rủi r o " của xã hội, đảm bảo cho
xã hội có một quỹ tàichính đủ lớn và chủ động đối phó vói r ủ i ro. Rủi ro là
ngẫu nhiên và bất ngờ. V ớ i m ỗ i cá nhân hay tổ chức thật khó có thể xác định
được r ủ i ro có xảy ra với họ hay không và mức độ thiệt hại là như thế nào. Do
đó họ khó có thể chủ động có kế hoạch tài chính để đối phó đầy đủ với thiệt
hại do rủi ro gây ra. Tuy nhiên với số đông người tham gia bảo hiểm, xác suất
rủi ro có thể tính được tương đối chính xác trên cơ sở quy luật số lớn. Từ đó
một kế hoạch tài chính thông qua thu phí bảo hiểm để bù đắp thiệt hại do rủi
ro gây ra là có thể thực hiện được, bảo đảm cho xã hội chủ động đối phó với
những hậu quả của rủi ro.
- Bảo hiểm huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Bảo hiểm là một kênh cung cấp vốn đáng kể cho nền kinh tế. Điều này
xuất phát từ bản chất của bảo hiểm đặc biệt là bảo hiểm thương mại là một
dịch vụ tài chính. Do có "sự đảo ngược của chu kỳ kinh doanh", các công ty
bảo hiểm thu phí bảo hiểm trước, nhưng sau đó (có thể sau vài ngày, vài tuần,
vài tháng, vài năm hoặc thậm chí vài chục năm) mới phải sử dụng tiền này để
bồi thường. Chính vì vậy xét trên khía cạnh kinh tế, chắc chắn các công ty bảo
hiểm cần đầu tư trở lại nền k i n h tế tiền phí bảo hiểm này để thu lời. Do bảo
hiểm tuân theo quy luật số lớn, phải có số đông người tham gia bảo hiểm nên
9
quỹ tài chính huy động từ phí bảo hiểm của các công ty bảo hiểm là rất lớn,
trong thực tế chỉ sau các Ngân hàng thương mại.
- Đẩy mạnh tín dụng:
Hiện nay, bảo hiểm đang là một biện pháp hữu hiệu được các tổ chức tín
dầng kết hợp sử dầng dối vói những tài sản được cầm cố, thế chấp nhằm đảm
bảo sự an toàn cho các khoản vay. Các cá nhân, tổ chức đi vay bắt buộc phải
mua bảo hiểm cho các tài sản dem cầm cố, thế chấp với giá trị hợp đồng tương
đương với khoản vay. Các loại hình bảo hiểm phải phù hợp với đặc điểm của
từng loại tài sản và đảm bảo người hưởng lợi là các tổ chức tín dầng. Trong
trường hợp có rủi ro xảy ra đối với tài sản thế chấp, cầm cố trong thời gian vay
thì Gác tổ chức tín dầng vẫn có thể thu hồi nợ từ tiền bồi thường của các công
ty bảo hiểm. N h ư vậy, với việc tham gia của bảo hiểm, các tổ chức tín dầng
cũng yên tâm hơn trong việc tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân vay vốn
thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh toàn xã hội.
- Tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoa:
Bảo hiểm tạo điều kiện gần như tốt nhất cho sản xuất thông qua việc ổn
định giá cả và cấu trúc giá. Những thiệt hại tài chính do rủi ro bất ngờ gây ra
chắc chắn sẽ đẩy chi phí của doanh nghiệp lên. K h i đó nếu tăng giá lên để giữ
nguyên l ợ i nhuận doanh nghiệp sẽ mất vị thế cạnh tranh về giá. Ngược lại nếu
giữ nguyên giá để cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ mất đi một phần lợi nhuận. Tác
động này sẽ rất lớn nếu giá trị thiệt hại là lớn. Trong trường hợp này rõ ràng
bảo hiểm là "tấm lá chắn" rất tốt cho các doanh nghiệp. Đ ố i với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, điều này càng có ý nghĩa lớn lao vì vốn của họ thường là
hạn chế, dễ bị các doanh nghiệp lớn chèn ép về giá.
- Giải quyết công ăn việc làm cho xã hội
M ộ t đóng góp nổi bật của ngành bảo hiểm cho nền kinh tế Việt Nam
trong những năm gần đây là việc giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, gián tiếp nâng cao đời sống cho nhân dân.
10
Trước năm 1993 số lượng lao động trong ngành bảo hiểm chỉ có 1000 cán
bộ nhân viên, đến năm 2002 con số đó đã lên đến 76.600 người và đến năm
2005 là 143.540 người. X u hướng ngày càng đa dạng hoa sản phẩm, m ở rộng
quy m ô , phạm v i hoạt động của thị trường bảo hiểm đang cần một lượng cán
bộ nhân viên lớn có trình độ nghiệp vụ, năng động. Đây chính là cơ hội lớn
cho nhồng sinh viên m ớ i ra trường học hỏi và hướng nghiệp, đồng thời cũng là
hướng giải quyết vấn đề hàng ngàn sinh viên ra trường m ỗ i năm có nhu cầu
tìm việc [16][18][19].
Ngoài ra, còn có thể kể tới rất nhiều vai trò khác của bảo hiểm như góp
phần tăng cường m ố i quan hệ kinh tế đối ngoại giồa các nước, tăng GDP, góp
phân ổn định trật tự an toàn xã hội...
1.2. HỘI NHẬP TRONG BẢO HIỂM
1.2.1. Hội nhập kinh tế
X u thế hội nhập, hợp tác phát triển dang là xu t h ế tất yếu của các nền
kinh tế trên t h ế giới hiện nay. Các nước đều ưu tiên cho việc phát triển, m ở
cửa nền kinh tế, gia nhập các tổ chức quốc tế bởi sự gắn bó, hợp tác, học hỏi
lãn nhau, tuy thuộc lẫn nhau là động lực cho sự phát triển nền kinh tế trong
quá trình hội nhập. Đ ạ i diện cho x u thế này là sự ra đời của hiệp định chung
vẻ thuế quan và thương mại (GATT) năm 1948 và sau đó đã được đổi thành tổ
chức thương mại thế giới W T O kể từ ngày 01/01/1995. W T O điều tiết không
chỉ thương mại hàng hoa m à còn cả thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hồu trí
tuệ. V ớ i 150 thành viên và 29 thành viên đang đàm phán gia nhập, chiếm trên
9 0 % tổng k i m ngạch thương mại thế giới, W T O trở thành một tổ chức có quy
m ô toàn cầu, là diễn đàn thường trực đàm phán thương mại và là thể chế giải
quyết các tranh chấp thương mại quốc tế [23][28] .
Nhận thức rõ được vai trò và tác động của quá trình hội nhập đối với
nền kinh tế nước nhà, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhồng chính sách, định
hướng đúng đắn. Đ ạ i hội Đảng lần thứ vn đã chủ trương đa phương hoa, đa
li
dạng hoa quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập
quốc tế của V i ệ t Nam. Thực hiện dường l ố i đó, trong suốt thời gian vừa qua,
nước ta đã đạt quan hệ ngoại giao với nhiều nước, khai thông quan hệ với các
tổ chức tài chính, tiền tệ như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triọn
Châu Á (ADB), Ngân hàng thế giói (WB)...Đại hội Đảng V U I tiếp tục nhấn
mạnh tầm quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế và quyết định: "Củng cố
môi trường hoa bình và tạo điọu kiện quốc tế thuận l ợ i hơn nữa đọ đẩy mạnh
phát triọn kinh tế xã hội, công nghiệp hoa và hiện đại hoa đất nước; đẩy nhanh
quá trình hội nhập quốc tế khu vực và thí g i ớ i " [14].
Theo dó, cũng như các nước trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta đang
từng bước thực hiện quá trình mở cửa kinh tế cả về thương mại hàng hoa,
thương mại dịch vụ và đẩu tư. về địch vụ, m ỗ i nước phải chấp nhận đọ các
nước thành viên cung ứng dịch vụ cho pháp nhân và thọ nhân nước mình theo
các phương thức:
- Cung ứng qua biên giới: Các thương nhân kinh doanh dịch vụ đăng ký
kinh doanh dịch vụ ở một nước thành viên có quyền cung ứng dịch vụ cho các
pháp nhân và thọ nhân của các thành viên khác m à không cần lập hiện diện
thương mại tại các thành viên đó.
- Tiêu dùng lãnh thổ: Theo điều kiện này, m ỗ i nước thành viên phải đọ
cho pháp nhân và thọ nhân nước mình được sử dụng dịch vụ do các thương
nhân của các nước thành viên khác cung ứng ở ngoài lãnh thổ nước mình.
- Hiện diện thương mại: M ỗ i nước thành viên phải đọ cho thương nhãn
cung ứng dịch vụ của các nước thành viên khác lập công ty, chi nhánh tại
nước mình đọ kinh doanh.
- Hiện diện thọ nhân: cho phép công dân các nước thành viên vào hoạt
động dịch vụ tại nước mình.
Hiệp định chung về thương mại trong lĩnh vực dịch vụ (GATS) cũng là một
trong những điều Việt Nam cần thực hiện k h i chính thức trở thành thành viên
của WTO
trong tháng 11 tới. Hiệp định này hướng tới tự do hoa thương mại
12
giữa các nước thành viên, có nghĩa là cung cấp các cơ hội dễ dàng hơn cho các
công ty ở các nước thành viên thông qua việc giảm các hàng rào thương mại.
Tuy nhiên, việc m ỏ cửa nền kinh tế, tự do hoa các ngành dịch vụ cũng
cân phải tiến hành cẩn thận, chẫt lọc nhằm vẫn đảm bảo sự ổn định của kinh tế
xã hội m à vẫn đảm bảo tiến trình hội nhập và không đi ngược lại các cam kết
của Việt Nam với các tổ chức quốc tế.
1.2.2. Những yêu cầu đối với hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam
Bảo hiểm là một trong nhũng lĩnh vực quan trọng của dịch vụ tài chính
trong nước. Vì vậy, hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm cũng phải tuân theo 4
phương thức trên đồng thời phải tuân thủ các nguyên tẫc:
- Không phân biệt đối xử: có 2 nguyên tẫc không phân biệt đối xử:
+ Nguyên tẫc đối xử t ố i huệ quốc (MEN): nguyên tẫc này có nghĩa là
không phân biệt đối xử giữa hàng hoa, doanh nghiệp nước này với hàng hoa,
doanh nghiệp nước khác về các chính sách thuế, giá hàng hoa và các biện
pháp tiếp cận thị trưởng.
+ Nguyên tẫc đối xử quốc gia (NT): theo nguyên tẫc này, không phân
biệt đối xử giữa hàng hoa, doanh nghiệp nước mình với hàng hoa, doanh
nghiệp nước khác.
- Thực hiện minh bạch, công khai trong cơ chế chính sách, tạo điểu kiện
bình dẳng trong hoạt động kinh doanh.
- Thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Nguyên tẫc này được quy định
trong Hiệp định các vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS).
- Tuân thủ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
và sự phán xử của cơ
quan tài phán quốc tế do tổ chức này thiết lập.
Nhũng nguyên tẫc và phương thức như trên cùng với tiến độ khẩn
trương của việc gia nhập WTO
đang đòi hỏi dịch vụ bảo hiểm cần phải hội
nhập hơn nữa trong thời gian tới.
T ó m lại, hội nhập hiện đang là yêu cầu cấp bách không chỉ đối với lĩnh
vực bảo hiểm m à còn của các ngành kinh tế khác trong nước, điều này đạt ra cho
13
các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải có chiên lược, định hướng, xác định
được cơ hội và thách thức nhằm chủ động hơn nữa trong tiến trình hội nhập.
1.3. THỊ T R Ư Ờ N G BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG NHŨNG N Á M G Ầ N Đ Â Y
1.3.1. Q u á trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm
Việt Nam
Thị trường bảo hiểm Việt Nam so với thị trường bảo hiểm thế giới còn rất
non trẻ. Trưóc năm 1975, trên thị trường bảo hiểm chỉ có một sồ ít doanh nghiệp
bảo hiểm và phạm vi hoạt động rất nhỏ. Đ ế n khi Công ty Bảo hiểm Việt Nam ra
đời ngày 15/01/1965 theo quyết định thành lập sồ 179/CP ngày 17/12/1964 của
Hội đồng Chính phù thì thị trường bảo hiểm Việt Nam mới bắt đầu phát triển. C ó
thể nói lịch sử phát triển của Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) gắn liền với
lịch sử phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
Trong những năm đẩu hoạt động, Bảo Việt có trụ sở chính tại H à N ộ i và
chỉ có OI chi nhánh ở Hải Phòng và hoạt động chỉ trong 2 loại nghiệp vụ bảo
hiểm là bảo hiểm tàu biển và bảo hiểm hàng hoa vận chuyển đường biển. Sau
năm 1975, đất nước thồng nhất, Bảo Việt dẩn dần m ở rộng các chi nhánh ra
khắp các tỉnh thành trong cả nước đồng thời m ở rộng các hoạt động nghiệp vụ
bảo hiểm phi nhân thọ như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và
bảo hiểm con người. Thòi điểm dó, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có
Bảo Việt là chính thức dược chính phủ thành lập. V ớ i cảnh "một mình một
chợ" Bảo Việt thực sự trở thành người cung cấp sản phẩm bảo hiểm duy nhất
trên thị trường. Chỉ đến khi nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm được
ban hành năm 1993 với chính sách m ở cửa và cải cách kinh tế đã tạo ra bước
ngoặt lớn trong thị trường bảo hiểm Việt Nam. N ă m 1994 là năm bắt đầu có
nhiều sự thay đổi trong Bảo Việt và là bước khởi sắc của thị trường bảo hiểm
Việt Nam. Trước tiên là sự ra đời của Công ty Bảo hiểm thành phồ H ổ Chí
M i n h (Bảo Minh), trước là một thành viên của Bảo Việt tách ra, rồi đến việc
thành lập Công ty tái bảo hiểm quồc gia (Vinare) từ một sồ nhân viên của Bảo
Việt. Đ ế n năm 1995, Bảo Việt cũng bắt đầu liên doanh liên kết với các công
14
ty trong và ngoài nước thành lập Công ty cổ phẩn bảo hiểm N h à Rồng (Bảo
Long), Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế VÍA. N ă m 1996, Công ty bảo
hiểm nhân thọ thuộc Bảo Việt ra đời đã đ e m lại những hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ đầu tiên trong lủch sử bảo hiểm Việt Nam, đổng thời m ở ra một trang
mới cho thủ trường bảo hiểm nhân thọ của Việt N a m [ l 8 ] .
Có thể thấy, nghủ đủnh 100/ CP ra đời đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo
Việt, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác, hình thành sự cạnh tranh trên
thủ trường và thúc đẩy thủ trường bảo hiểm phát triển. T ừ năm 2003 đến nay,
thủ trường bảo hiểm Việt Nam liên tục có những biến động lớn với sự sắp xếp
và chuyển đổi của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước:
i. Bảo Việt được tổ chức lại theo m ô hình tập đoàn kinh doanh với các đem
vủ thành viên hạch toán độc lập. Bảo hiểm Việt Nam chuyên kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ và Bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam chuyên kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ. Đặc biệt, trước triển vọng của sự hình thành thủ trường vốn, thủ
trường chứng khoán tại Việt Nam, năm 1999 Công ty cổ phần chứng khoán
Bảo Việt - cóng ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam đã ra đời.
li. M ộ t số doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm nhà nước được chuyển
đổi thành công ty cổ phần như Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh...
i i i . M ộ t số cấc công ty cổ phần bảo hiểm và môi giới bảo hiểm được thành
lập như Công ty T N H H A O N Việt Nam, Công ty cổ phân môi giới bảo hiểm
Việt Quốc, Công ty T N H H môi giới bảo hiểm GRAS S A V O Y E Việt Nam...
1.3.2. C ơ cấu thị trường
Sau hơn 10 năm đổi mới, cùng với chính sách m ở cửa của Đảng, đời
sống nhân dân ta đã được cải thiện đáng kể. Thủ trường bảo hiểm Việt Nam đã
phát triển vượt bậc cả về quy m ô và cơ cấu thủ trường. Tính đến n ă m 2005,
trên thủ trường đã có 32 doanh nghiệp thuộc m ọ i thành phần kinh tế tham gia
hoạt động bảo hiểm bao gồm 11 doanh nghiệp cổ phần, 3 doanh nghiệp nhà
nước, 6 doanh nghiệp liên doanh, và 12 doanh nghiệp có vốn 1 0 0 % vốn đấu tư
nước ngoài với tổng số vốn điều lệ lên đến 4.608 tỷ đồng và 108,095 triệu
15
USD. Trong k h i đó, năm 2004, số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 8
công ty, 7 công ty cổ phần, 6 doanh nghiệp liên doanh, và 5 doanh nghiệp nhà
nước. Ta có thể so sánh sự biến đổi về cơ cấu thị trường qua 2 năm 2004, 2005
theo bảng Ì và bảng 2 (hình dưới).
Qua 2 bảng, ta có thể nhận ra có sự chuyển đổi về cơ cấu, số lượng giữa
các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phân, và sự tăng lên đáng kể
của các doanh nghiệp có 1 0 0 % vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 1: Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm theo khối doanh nghiệp năm 2004
Loại hình
Nhà
Cổ
Liên
100% vốn
Tổng
doanh nghiệp
nước
phần
doanh
nước ngoài
cộng
3
4
5
2
14
1
4
5
3
6
8
26
Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ
1
Tái bảo hiểm
1
Môi giới bảo hiểm
Tổng cộng
1
3
5
7
6
(Nguồn: 'Thị trường bảo hiềm Việt Nam năm 2004 " nhà xuất bản tài chính Hà Nội - 2005, trang 7)
Bảng 2: Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm theo khối doanh nghiệp nám 2005
Loại hình doanh
Nhà
Cổ
Liên
1 0 0 % vón
Tổng
nghiệp
nước
phần
doanh
nước ngoài
cộng
Bảo hiểm phi nhân thọ
2
6
5
3
16
Bảo hiểm nhân thọ
1
1
6
8
3
7
12
32
Tái bảo hiểm
1
Môi giới bảo hiểm
4
Tổng cộng
3
li
1
6
(Nguồn: 'Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2005 " nhả xuất bẩn tài chính Hà Nội - 2006, trang 6)
Ngoài ra, trên thị trường bảo hiểm còn có hơn 30 vãn phòng đ
i diện của
các tổ chức bảo hiểm nước ngoài, chưa tính đến những doanh nghiệp bảo hiểm
16
- Xem thêm -