HỒI KÍ NGUYỄN HIẾN
LÊ
Nhà xuất bản: Văn học
Năm xuất bản: 1993
Thực hiện ebook lần II: Goldfish
(Có sửa chửa và bổ sung)
Ngày hoàn thành: 19.11.2012
www.e-thuvien.com
MỤC LỤC
Vài lời thưa trước
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN I: SINH TRƯỞNG VÀ HỌC
Ở BẮC (1912-34)
Chương I: Nơi sinh và tổ quán
Chương II: Tổ tiên
Chương III: Tuổi thơ
Chương IV: Những năm ở tiểu
học
Chương V: Những năm ở trung
học
Chương VI: Về Phương Khê học
chữ Hán
Chương VII: Làng tôi thời đại
nông nghiệp
Chương VIII: Từ khi bà ngoại
tôi mất
Chương IX: Những năm ở đại
học
PHẦN II: VÔ NAM LÀM VIỆC
(1935-1955)
Chương X: Làm sở Thuỷ lợi
Miền Tây
Chương XI: Đời công chức ở Sài
Gòn
Chương XII: Ba lần ra Bắc
Chương XIII: Tôi tập viết
Chương XIV: Việt Nam từ đầu
thế kỉ đến thế chiến thứ nhì
Chương XV: Thế chiến thứ nhì
PHẦN III: TRONG CHIẾN TRANH
VIỆT-PHÁP (1945-1954)
Chượng XVI: Tản cư về Tân
Thạnh
Chương XVII: Các cuộc thương
thuyết Việt-Pháp
Chương XVIII: Tôi qua Long
Xuyên
Chương XIX: Pháp sa lầy và
thua ở Bắc Việt
PHẦN IV: NAM BẮC CHIA HAI –
CHIẾN TRANH VIỆT-MĨ (1954-1975)
Chương XX: Lập lại cuộc đời
Chương XXIII: Gia đình tôi
PHẦN V: CHUYỆN LÀM VĂN
HOÁ (1954-1975)
Chương XXV: Nhờ đâu tôi viết
được nhiều?
Chương XXVI: Cách tôi làm
việc
Chương XXVII: Hai chục năm
làm việc tích cực
Chương XXVIII: Tôi tự nhận
định tác phẩm của tôi
Chương XXIX: Bạn xa gần
PHẦN VI: TỪ NGÀY GIẢI PHÓNG
(1975-1980)
Chương XXXIII: Lại tiếp tục
viết
PHỤ LỤC
Vài lời thưa trước
Cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê, bản của
nhà Văn hoá in năm 1993, gồm:
- Lời nhà xuất bản.
- Vài nét về học giả Nguyễn Hiến Lê
của Nguyễn Q. Thắng (Tôi tạm lược bỏ
bài này).
- Lời nói đầu của tác giả.
- 33 chương (Nhà xuất bản tạm lược bỏ
lại 6 chương XXI, XXII, XXIV, XXX,
XXXI và XXXII), chia làm 6 phần.
- 3 phụ lục.
Trong khi gõ cuốn Hồi kí này, khi gặp
những chỗ ngờ sai, tôi thường đối chiếu
với cuốn Đời viết văn của tôi (Nxb Văn
hoá – Thông tin, năm 2006, về sau gọi tắt
là ĐVVCT), nếu sai tôi sẽ châm chước
sửa lại mà phần lớn không chú thích để
khỏi rườm. Ví dụ đoạn sau đây: “Trong bộ
Đại cương Văn học sử Trung Quốc, chỉ
có một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là
những bài dễ, còn hầu hết đều do một ông
bác tôi dịch cho và kí tên là Vô danh. Như
thơ cổ phong loại “từ” một thể thơ và loại
thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch
được vì không bị trói buộc vào niêm luật”
(tr.403). Câu cuối của đoạn trên, trong
ĐVVCT in là: “Nhưng thơ cổ phong loại
“từ” (một thể thơ) và loại thơ mới của
Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì
không bị trói buộc vào niêm luật” (tr.168),
nên tôi châm chước sửa lại câu cuối đó
thành: “Như thơ cổ phong loại “từ” (một
thể thơ) và loại thơ mới của Trung Hoa thì
tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc
vào niêm luật”.
Còn hai chữ “đệ tứ” trong câu “Nhóm
đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc, Tam Ích, Thiên
Giang cũng viết ít bài phê bình có tư tưởng
xã hội, sau in thành vài tập mỏng; Triều
Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm”
(tr.426), tôi vẫn giữ nguyên mặc dù trong
ĐVVCT in là “đệ tử” (tr.199) vì tôi đoán
“đệ tứ” ở đây có nghĩa là “Đệ tứ Quốc tế”,
còn gọi là “Đệ tứ Cộng sản”.
Ở một số chỗ, tôi cũng phải chép đúng
theo Hồi kí như câu sau đây trong đoạn nói
về cuốn Sống đẹp, nguyên tác của Lâm
Ngữ Đường: “Mấy năm sau tôi thấy ở nhà
xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình
như của Vũ Bằng…” (tr.466); nhưng tôi
phải ghi thêm chú thích vì trong ĐVVCT
lại cho biết tên bản Việt dịch là Lạc thú ở
đời và người dịch lại là Trình Xuyên
(tr.248).
Tôi cũng đưa vào chú thích một số
đoạn có trong ĐVVCT nhưng không có
trong Hồi kí. Ngoài ra tôi cũng chú thích
vài chỗ khác biệt mà tôi không có điều
kiện để kiểm tra xem cuốn nào in đúng, ví
dụ như ngày mất của cụ Phương Sơn, bác
ba của cụ Nguyễn Hiến Lê, trong Hồi kí
ghi: “Đầu tháng giêng năm 1960, ngày 11
tháng chạp năm Kỉ Hợi, tôi ở Sài gòn
được điện tín người qui tiên”, nhưng trong
ĐVVCT lại ghi: “Đầu tháng giêng 1960
(12 tháng chạp năm Kỷ Hợi) người quy
tiên…”.
Trong Hồi kí cũng có một số chỗ khác
biệt với các tác phẩm của cụ đã viết trước
cuốn Hồi kí. Ví dụ như trong cuốn Đế
Thiên Đế Thích, cụ bảo rằng lúc đi thăm
Siemreap cụ đã “…hỏi mua cuốn Guide
Groslier mà không có, đành mượn của anh
T.”; nhưng trong cuốn Hồi kí, cụ bảo lại
bảo: “Tôi mang theo cuốn Guide Groslier
rồi lên xe đò đi Nam Vang”.
Sau Hồi kí và ĐVVCT, cụ còn viết bộ
Sử Trung Quốc. Trong Hồi kí, phần xét
riêng các triết gia về chính trị thời Tiên
Tần, cụ Nguyễn Hiến Lê sắp các triết gia
làm ba phái: hữu vi, vô vi và cực hữu vi.
Và theo cụ thì: “Phái vô vi chủ trương can
thiệp rất ít (Lão tử) hoặc không can thiệp
chút gì (Trang tử, Liệt tử) vào đời sống
của dân, để mặc dân sống theo bản năng,
trở về tính chất phác thời nguyên thuỷ, như
vậy xã hội sẽ hết loạn”. Nhưng trong Sử
Trung Quốc, cũng xét về tư tưởng chính
trị, thì trong phái vô vi cụ chỉ kể đến Lão
tử, Trang tử và Dương tử, còn Liệt tử thì
cụ lại không nhắc đến.
Trên đây tôi chỉ nêu một vài chỗ khác
biệt giữa Hồi kí và vài tác phẩm khác của
cụ mà tôi được biết. Có chỗ tôi chú thích,
có chỗ không vì nếu chú thích hết thì rườm
quá.
Trong Hồi kí có quá nhiều sự kiện, đọc
một hai lần khó mà nhớ hết, hiểu hết. Do
vậy, để tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của
cụ Nguyễn Hiến Lê, ngoài Hồi kí và
ĐVVCT nhiều lần, ta còn phải đọc thêm
các sách khác của cụ, các bài viết của các
tác giả khác viết về cụ, các tài liệu liên
quan đến các thông tin liên quan đến bộ
Hồi kí này.
Cuối cùng, tôi xin được nói thêm là,
cũng như đối với các tác phẩm mà tôi đã
gõ trước đây, khi gõ tác phẩm này, tôi
cũng được bác Vvn giải thích giúp các
thắc mắc liên quan đến chữ Hán, mà một
phần các lời giải đáp của bác Vvn được
tôi ghi lại trong phần chú thích. Xin chân
thành cảm ơn bác Vvn và xin chia sẻ cùng
các bạn.
Ngày 7.12.2009
Goldfish
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Nguyễn Hiến Lê ra đời trong hoàn cảnh
nho học không còn được sủng ái. Cha mất
sớm, ông sống nhờ bàn tay tảo tần buôn
bán của người mẹ. Cuộc sống những năm
thiếu thời của ông ở giữa ranh tốt và xấu:
hư hỏng, tha hoá và trong sạch, trinh trắng.
Sau những ngày tháng lêu lổng, cậu bé
Nguyễn Hiến Lê còn biết giật mình nghĩ lại
để rồi mình hứa với mình tu chí học hành,
phấn đấu vươn lên. Người mẹ ít học kia
lại là người biết bù đắp những thiếu hụt về
kiến thức cho con trai bằng cách cho cậu
bé điều kiện tiếp cận với Hán học.
Vậy là vừa học trường Tây, chữ Tây,
cậu bé hiếu học côi cút kia đã tận dụng
những mảnh nhỏ thời gian trong cuộc đời
nghèo khó của mình để học chữ của Thánh
hiền. Đây là chiếc cầu nối quan trọng dẫn
Nguyễn Hiến Lê, cậu bé ham hiểu biết, trở
thành Nguyễn Hiến Lê – học giả.
Không phải là người cách mạng, là nhà
văn cách mạng, nhưng Nguyễn Hiến Lê
cũng không phải là nhà văn của chế độ cũ,
mặc dù ông sống giữa lòng xã hội ấy suốt
mấy chục năm. Một lần nữa Nguyễn Hiến
Lê lại ở giữa lằn ranh nhân cách và phi
nhân cách. Có người cho rằng ông đi giữa
hai làn đạn. Và một lần nữa ông đã tỏ ra
bản lĩnh vững vàng trước sau ông vẫn giữ
được nhân cách của mình.
Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và
con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã
thuộc về nhân dân, những người lao động,
những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh.
Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi
đau về dân tộc trước những cuộc ngoại
xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn
luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm
như chức tước, địa vị và sự giàu sang
không lương thiện, xích gần với Cách
mạng và tự coi mình là người của Cách
mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách
mạng đang làm cũng chính là những mơ
ước của ông.
Dầu đứng ở những góc nhìn khác nhau,
ai cũng dễ tìm thấy ở Nguyễn Hiến Lê một
cái gì đó gần với tâm trạng của dân tộc
mình, một cái gì đó thuộc nhân bản của
con người cầu tiến luôn vươn tới mục đích
cao thượng và hoàn mỹ. Rất nhiều thế hệ
độc giả khác nhau đều kính phục sự
nghiêm túc của học giả này. Tính nghiêm
túc của Nguyễn Hiến Lê có được bởi nó
bắt nguồn từ trí nhớ tuyệt vời của ông và
cùng với trí nhớ là cách làm việc khoa
học, tỉ mỉ trong từng chi tiết nhỏ, sự học
hỏi và lối ghi chép hết sức cẩn thận.
Nguyễn Hiến Lê luôn coi trọng tư liệu, bởi
hơn ai hết ông hiểu sự khách quan của một
tác phẩm là vô cùng quan trọng. Nó là
chiếc cầu đầu tiên nối lòng trân trọng hay
sự coi thường, khinh miệt của độc giả đối
với người cầm bút. Ngay khi nói về mình,
Nguyễn Hiến Lê cũng cố giữ tính nghiêm
túc và khách quan, luôn luôn tự tách mình
ra khỏi văn mạch chủ quan của chính mình.
Trên tinh thần tôn trọng một học giả
nghiêm túc và được nhiều người mến mộ,
kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân
trọng giới thiệu cuốn Hồi kí của ông. Tuy
là hồi ký một người, một nhà văn, nhưng
qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội
Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến
chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn
những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm
đẫm mới rợi trên từng trang sử của dân tộc
chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ
nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều
được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và
đánh giá.
Tất nhiên, dù cố gắng khách quan,
chúng tôi thiển nghĩ thật khó có thể thoát
khỏi dấu ấn chủ quan. “Văn là người”,
điều ấy có thể dẫn đến một số đánh giá của
ông chưa được hợp lý theo quan niệm
đương thời hoặc theo cách nhìn của một bộ
phận, một số người nào đấy chăng?
Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không
nở cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên
tập chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm ra
và cắt những chỗ không thể nào để lại
được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.
Sự đóng góp của Nguyễn Hiến Lê trong
nền văn học Việt Nam đương đại là hết
sức quý báu, mức độ tầm cỡ đến đâu chắc
chắn cần phải có thời gian mới đánh gia
đúng mức được. Một lần nữa chúng tôi tin
rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức
cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi
cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần
phải tranh luận. Một tác phẩm ra đời
không một tiếng vang đâu hẳn là tác phẩm
tốt. Dù thế nào, xét trên cảm hứng chung
của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi
vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy
trách nhiệm và xây dựng.
Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của
độc giả trong nước cũng như ngoài nước
để lần in sau chúng tôi rút được những
kinh nghiệm tốt hơn.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
- Xem thêm -