Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản (tb), sự vận dụng trong quản lý các do...

Tài liệu Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản (tb), sự vận dụng trong quản lý các doanh nghiệp ở việt nam

.PDF
22
172
62

Mô tả:

Luận văn: “Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản (TB), sự vận dụng trong quản lý các doanh nghiệp ở Việt Nam” 1 LỜI NÓI ĐẦU Đất nước ta đang trong thời kỳđổi mới mà sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, để hoàn thành mục tiêu này cần có một nguồn vốn đầu tư PT vô cùng lớn. Nhưng để huy động và sử dụng tốt nguồn vốn này là một vấn đềđáng quan tâm của mọi người. Trên thực tế hiện nay, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư PT ở tầm vĩ mô là nền kinh tế quốc dân và cảở các doanh nghiệp còn rất nhiều điều khó khăn. Tình trạng thừa vốn trong các ngân hàng thương mại và thiếu vốn trong các doanh nghiệp, vốn kinh doanh không phải làít, việc sử dụng vốn bừa bãi và lãng phí vốn đang là một thực trạng đáng buồn hiện nay. Trong giới hạn hiểu biết của mình, em cũng muốn góp phần nào ý kiến để có phương pháp giải quyết vấn đề này. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: "Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản (TB), sự vận dụng trong quản lý các doanh nghiệp ở Việt Nam ". Bài viết của em gồm các nội dung chính sau: Chương I: Tuần hoàn của tư bản 1. Giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hóa hình thái của tư bản. 2. Sự thống nhất của ba hònh thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Chương II: Chu chuyển của tư bản 1. Thơì gian chu chuyển 2. Số vòng chu chuyển Chương III :Tư bản cốđịnh và tư bản lưu động. Chương IV: Ý nghĩa thực tiễn khi ngiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta khi bước vào nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 2 NỘI DUNG CHƯƠNG I: TUẦNHOÀNCỦATƯBẢN Sự tuần hoàn của tư bản ởđây là gì? Nóđược hiểu như một chu kỳ hay một vòng quay của tiền tệ, sự tuần hoàn đó nó sẽ không mất đi mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác, nóđược hiểu qua công thức sau: T - H - T' T - là số tiền tệ (tư bản), bỏ ra ban đầu để mua tư liệu sản xuất, sức lao động, sau đó biến thành "H" đem bán để thu về một lượng giá trị là T'. T' ởđây là số tiền hay giá trị kết tinh của sản xuất hàng hoá mà chúng ta nói một cách chính xác hơn là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được qua quá trình đầu tư sản xuất. Mỗi quá trình của tư bản, tiền tệ càng lớn thì lợi nhuận thu được càng cao tức "T' " vàđể minh chứng cho những khái niệm trên đây, chúng ta sẽ xem kỹ hơn các qúa trình chu chuyển của tư bản trong bài dưới đây để từđó có thể hiểu rõ hơn về quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản! 1.1. Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái của tư bản. Mọi tư bản sản xuất trong qúa trình vận động đều trải qua 3 giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng. Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách người mua, thực hiện hành vi T - H, tức là mua. Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoáđã mua, tức tiến hành sản xuất, kết quả là nhà tư bản cóđược một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất ra hàng hoáđó. Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán, thực hiện hành vi H' - T', tức là bán. a. Giai đoạn thứ nhất: T - H 3 T - H ởđây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệđược sử dụng làm phương tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện mua nhưng phải mua được hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành vi T - H không chỉđơn thuần biểu thị việc chuyển hoá một món tiền thành hàng hoá, mà nóđã bước vào 9 giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản. Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những phải phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau về số lượng. Tỉ lệđó nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường và nhất làđể sử dụng được triệt để toàn bộ thời gian lao động của công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không không đủ việc làm. Ngược lại, thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất cũng không được tận dụng để tạo ra sản phẩm. Do đó, lòng thèm khát lao động thặng dư của nhà tư bản cũng không được thoả mãn. Quá trình này thể hiện như sau: Slđ T-H TLsx Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T - Slđ (việc mua sức lao động) là yếu tốđặc trưng khiến tiền xuất hiện ngay từđầu với tư cách là tư bản. Hành vi T - Tlsx chỉ cần thiết để sức lao động đã mua có thể hoạt động được song T - Slđđược coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệđó. Tiền đã xuất hiện rất sớm để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động bằng tiền, mà sức lao động biến thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ hàng hoá tiền tệ, những người mua là nhà tư bản - kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê bị tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệđãđẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái lại, chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng của tiền tệ là công cụ của lưu thông hàng hoá nói chung biến thành chức năng của tư bản. Do đó, trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn toàn bị tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuêđã có rồi, thì tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi: 4 Slđ T-H Tlsx Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hình thái các yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là hình thái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1' là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất. b. Giai đoạn thứ hai: ...... SX..... Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư liệu sản xuất nhằm mục đích thu về một tư bản có gía trị lớn hơn. Mục đích đó không thể thực hiện được bằng cách bán ngay các hàng hoáđã mua mà chỉ có thểđạt được bằng cách sử dụng các hàng hoáấy sản xuất ra một hàng hoá mới. Do đó, tiếp theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản xuất) tất yếu dẫn đến giai đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoáđã mua, tức sản xuất. Quá trình này có thể biển diễn như sau: Slđ H Tlsx .... SX.... H' Quá trình sản xuất ởđây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù này không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, qúa trình sản xuất vì vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nóđể biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hoá mới được tạo ra khác cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở thành H', có giá trị bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí ra nó cộng với gía trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá. c. Giai đoạn thứ ba: H ' - T' Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận động nhà tư bản đang tồn tại dưới hình thức hàng hoá, cần phải đem bán để thu tiền về. 5 Quá trình này có thể biểu hiện bằng công thức H' - T'. Không khác gì hàng hoá thông thường, hàng hoá tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản hàng hoá người ngay sau khi quá trình sản xuất, nóđã là hàng hoá, có giá trị bằng giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị của nó thu vềđược T', nghĩa là thu vềđược số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H' không chỉ là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn còn là chức năng thực hiện giá trị thặng dưđược tạo ra trong qúa trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoáđã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu, với số lượng lớn hơn trước. Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta có công thức: Slđ T-H Tlsx ………sản xuất…….. …….H' - T G. đoạn I Hình thức tư bản tiền tệ. Chức năng: mua các yếu tố sản G. đoạn II G. đoạn III. Hình thức tư bản Hình thức tư bản sản xuất. hàng hoá. Chức năng sản Chức năng thực xuất ra hàng hoá hiện giá trị và giá trị tạo ra giá trị Trong công thức này, với tư cách là một giá trị,thặng tư bản dư đã trải qua một thặng dư chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu biến hoá hình thái là có bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình vận động từ tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua đoạn, lần lượt mang ba hình thái rồi quay trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉđược bảo tồn mà còn tăng lên, gọi là sự tuần hoàn của tư bản. Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển tiếp. Mặt khác, bản thân sự tuần hoàn của tư bản lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động đứt quảng không ngừng. Chính trong sự 6 vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không ngừng lớn lên. 2.1. Điều kiện để cho tuần hoàn TB được bình thường Sự vận động của TB chỉ diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nóđược diễn ra liên tục, kế tiếp nhau. Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng khiến cho sự tuần hoàn này bịđình trị. Mặt khác, TB phát tồn tại dưới cả ba hình thái là TB tiền tệ, TB sản xuất, TB hàng hoá. 3.1. Các hình thái tuần hoàn của tư bản Trong quá trình vận động trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần lượt khoác lấy các hình thái tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá vàở mỗi hình thái nó hoàn thành một chức năng thích hợp. Đó là tư bản công nghiệp (công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành sản xuất vật chất kinh doanh). Tư bản công nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản với chức năng không chỉ chiếm lấy giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoáđều không phải là những loại tư bản độc lập mà chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp. Tư bản này lần lượt mang 3 hình thái và xét trong qúa trình vận động liên tục, mỗi hình thái đều có thể xem làđiểm xuất phát đồng thời làđiểm hồi qui của nó. Vì vậy, tư bản công nghiệp vận động đồng thời cùng một lúc dưới cả 3 dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần hoàn củatư bản hàng hoá. a. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay là một bộ phận của tuần hoàn tư bản công nghiệp dưới hình thức tư bản tiền tệ tách ra. Trong quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến hai hiện tượng ngược nhau: Một số nhà tư bản có một lượng tiền tạm thời chưa dùng đến, họ cần cho vay để thu lợi tức; trong khi đó, một số nhà tư bản khác cần tư bản để mua NVL, cần mở rộng kinh doanh mà chưa tích luỹđủ vốn... họ cần phải đi vay. Từđó xuất hiện tư bản cho vay. Tư bản cho vay là tư bản mà quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau. Cùng một tư bản, đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, tức là 7 nó chỉđược tạm giao cho người khác sử dụng sau kỳ hạn nhất định sẽđược hoàn lại kèm theo một số lãi , đối với người đi vay nó là tư bản hoạt động, làm chức năng tạo ra lợi nhuận - tư bản cho vay là một loại hàng hoáđặc biệt vì người bán không mất quyền sở hữu còn người mua khi dùng thì giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên, giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị dùng của nó quyết định và thấp hơn nhiều so với giá trị. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có công thức: T - H... SX... H' - T', với điểm xuất phát là T vàđiểm kết thúc là T', biểu thị một cách rõ nhất động cơ và mục đích vận động của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền hay tư bản cho vay. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra trong lưu thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn và T' là mục đích đạt được trong lưu thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn sản xuất chỉ làkhâu trung gian. Do đó hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất nêu rõ nhất động cơ, mục đích của tuần hoàn của tư bản đồng thời cũng là hình thái phiến diện nhất, che giấu nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất có công thức: SX... H' - T' - H'...SX Nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Tư bản hàng hoá trong tuần hoàn này cho thấy rõ nó là kết quả trực tiếp của sản xuất, còn tư bản tiền tệ kết thúc sự thực hiện tư bản hàng hoá (H') - là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, tức là chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn này vạch rõ nguồn gốc của tư bản. Dù là tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng, nguồn gốc tư bản đều từ qúa trình sản xuất mà ra. Song tuần hoàn này không biểu thị việc sản xuất giá trị thặng dư. Dù là sản xuất hay sản xuất kết cục của nó chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết để làm chức năng tư bản sản xuất, thực hiện qúa trình tái sản xuất, nó không hề chỉ ra mục đích của quá trình là làm tăng thêm giá trị. Do đó người ta dễ lầm rằng mục đích của nó chỉ là sản xuất, trung tâm của vấn đề là cố gắng sản xuất thật nhiều, thật rẻ, có trao đổi sản phẩm cũng chỉ là trao đổi sản phẩm để sản xuất được liên tục. c. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản hàng hoá tách ra. 8 Nóđược hình thành khi có một số thương nhân ứng tư bản tiền tệ ra đảm bảo việc mua và bán hàng hoá cho tư bản công nghiệp nhằm mục đích thu lơị nhuận. Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Nó thực hiện chức năng của tư bản hàng hoáđã tách ra khỏi quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Sự tách rời này phản ánh sự phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội. Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp có quan hệ hai mặt đối với tư bản công nghiệp: sự "phụ thuộc ở bên trong" và "độc lập ở bên ngoài". Tuần hoàn của tư bản hàng hoá có công thức: H' - T' - H... SX...H' khác hẳn với các hình thái tuần hoàn khác, điểm xuất phát của nó bao giờ cũng bắt đầu bằng H' - một giá trịđã tăng thêm giá trị, một giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ qui mô như thế nào. Do đó tuần hoàn tư bản hàng hoá có một sốđặc điểm sau đây: - Ngay từđầu nóđã biểu hiện là hình thái của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa nên đã bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. - Kết thúc bằng H chứ chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng thêm giá trị mới (T'), nó là hình thái chưa hoàn thành, còn phải tiếp tục vận động. - Tuần hoàn của tư bản hoàng hoá là hình thái nổi bật sự liên tục của lưu thông hàng hoá. H' làđiểm bắt đầu tuần hoàn và H' điểm kết thúc tuần hoàn đều biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán. Do đó H' điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi lưu thông thìđiểm kết thúc H' cũng đòi hỏi ngay một qúa trình lưu thông mới. - Hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau. Nó không phải là một hình thái vận động chung cho mọi tư bản công nghiệp cá biệt - màđồng thời còn là hình thái vận động của tổng số những tư bản cá biệt, tức là toàn bộ tư bản của các giai cấp các nhà tư bản, là một vận động trong đó vận động của mỗi một tư bản công nghiệp cá biệt chỉ là một vận động bộ phận, chằng chịt với những vận động của các tư bản khác nhau vàđược qui định bởi những vận động này. Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn, mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện, làm nổi bật bản 9 chất này và che dấu bản chất khác sự vận động của tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng thời cả 3 hình thái tuần hoàn mới nhận thức đầy đủ sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó. Trong thực tế, chỉ có sự thống nhất của 3 hình thái tuần hoàn thì qúa trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành liên tục không ngừng. Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một giai đoạn nào ngừng trệ thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị ngừng trệ. Song muốn đảm bảo tuần hoàn không ngừng của tư bản, bảo đảm cho tư bản liên tục chuyển hoá hình thái qua các giai đoạn kế tiếp nhau thì phải đủ hai điều kiện. Thứ nhất, toàn bộ tư bản phải phân ra ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái. Thứ hai, mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng liên tục trải qua 3 hình thái. Hai điều kiện này quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. Chỉ khi có sự sắp xếp của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời ở cả 3 hình thái thì mới có sự kế tục nhau của các bộ phận tư bản ấy. Vì vậy, tuần hoàn của tư bản trong sự liên tục của nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất, mà còn là sự thống nhất của cả 3 tuần hoàn của nó nữa. 10 CHƯƠNG II. CHUCHUYỂN TƯBẢN 1.2. Khái niệm chu chuyển TB Sự vận động của TB khi là một quá trình định kỳđổi mới, lặp đi lặp lại nhiều lần chứ không phải là một quá trình cô lập thìđược gọi là chu chuyển TB. Khi nghiên cứu sự tuần hoàn của TB là ta nghiên cứu về chất, còn khi nghiên cứu chu chuyển TB là ta nghiên cứu về lượng. Nếu như khi phân tích tuần hoàn của tư bản, ta phân tích các hình thái chuyển đổi của tư bản qua 3 giai đoạn vận động của nó thì khi phân tích chu chuyển của tư bản ta sẽ phải lần lượt phân tích tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm hay nói cách khác phân tích thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển và nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độđóđối với việc sản xuất và giá trị thặng dư. 2.2. Thời gian và tốc độ chu chuyển của TB 1.2.2. Thời giai chu chuyển và số vòng chu chuyển. Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian là khi nhà tư bản ứng một lượng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi nó chở về tay nhà tư bản cũng dưới hình thái như thế có thêm giá trị thặng dự. Vì chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn của tư bản xét trong một quá trình định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là thời gian tư bản trải qua các gian đoạn lưu thông và sản xuất trong quá trình tuần hoàn tức là bằng tổng thời gian lưu thông và thời gian sản xuất cộng lại. Thời gian chu chuyển= Thời sản xuất + Thời gian lưu thông Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao gồm: - Thời gian lao động trực tiếp: Là thời gian người lao động dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian đầu tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản. 11 - Thời gian gián đoạn lao động: Là thời gian đối tượng lao động hoặc bán thành phẩm, chịu sự tác động của tự nhiên mà không cần lao động của con người góp sức hoặc nếu có không đáng kể. Thời gian lao động trực tiếp và thời gian gián đoạn lao động có thể xen kẽ vào nhau, cũng có thể tách thành những thời kỳ riêng biệt tuỳ thuộc từng ngành sản xuất cụ thể. Thời gian gián đoạn lao động không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn thời gian này là vấn đề cóý nghĩa hết sức quan trọng đối với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn do tác động của nhiều yếu tố, chủ yếu là 4 nhân tố sau đây: - Tính chất của ngành sản xuất. - Sản phẩm sản xuất chịu sự tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn. - Năng xuất lao động, trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật cao hay thấp. - Dự trữ sản xuất đủ, thiếu hay thừa. Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông tư bản không làm chức năng sản xuất do đó không sản xuất không sản xuất ra hàng hoá, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông ngắn hay dài khiến cho quá trình sản xuất lắp đi lắp lại nhanh hay chậm, khối lượng một tư bản nhất định làm chức năng ưt bản sản xuất được nhiều lần hay ít lần do đó hiệu quả của tư bản, tức là việc sản xuất ra giá trị thặng dư cao hay thấp. Thời gian lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán quan trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thông dài hay ngắn chủ yếu là 3 nhân tố: tình hình thị trường tốt hay xấu; khoảng cách thị trường xa haygần; giao thông khó khăn hay thuận lợi, phương tiện giao thông hiện đại hay thô sơ. Chịu ảnh hưởng của hàng loạt nhân tố nên thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của các nhà tư bản không thể không giống nhau. Do đó thời 12 gian chu chuyển tư bản trong các ngành khác nhau cũng như trong cùng một ngành rất khác nhau. Thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác nhau nên tất yếu sẽ dẫn đến sự muốn tính toán và so sánh chúng người ta thường tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong cùng một thời gian nhất định, thường là một năm, xem tư bản đã quay được mấy vòng. Ta có công thức sau: n = Error! n: Số vòng chu chuyển CH: Là thời gian trong 1 năm ch: Là thời gian chu chuyển 1 vòng của tư bản. 2.2.2.Tốc độ chu chuyển của TB Do những nhân tốảnh hưởng tới nó và do những yêu cầu riêng của từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất nên thời gian chu chuyển của TB dài hay ngắn khác nhau. Chính vì thế, thời gian chu chuyển của TB chưa phản ánh đúng tính chất và lượng TB chu chuyển TB mà người ta còn căn cứ vào tốc độ chu chuyển của TB. Do chính là số vòng chu chuyển của TB thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định (một năm). 13 CHƯƠNG III. TƯBẢNCỐĐỊNHVÀTƯBẢNLƯUTHÔNG Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu chuyển của các bộ phận tư bản phải ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau, do đó vòng chu chuyển của chúng cũng rất khác nhau. Trong lĩnh vực kinh tế người ta phân chia các bộ phận tư bản thành tư bản cốđịnh và tư bản lưu động. a- TB cốđịnh là bộ phận TB sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào qúa trình sản xuất, nhưng GT thì lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng phần một vào sản phẩm, ví dụ: nhà xưởng, máy móc...Trong sản xuất, những thứ này hao mòn dần đi và chỉ chuyển hết GT của chúng vào sản phẩm sau một thời gian dài. b- TB lưu động là bộ phận TB, khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó chuyển toàn bộ GT của nó sang sản phẩm. Đó là bộ phận tứ bản bất biến dưới hình thái nguyên vật liệu, nhiên liệu...Bộ phận TB khả biến có phương thức chu chuyển giống như thế nên cũng được coi là chủ nghĩa TB lưu động. Sự khác nhau giữa TB cốđịnh và TB lưu động đôi khi chỉ là tương đối. Lấy ví du như “con trâu”, đối với người nông dân thì con trâu là phương tiện sản xuất, do đó nó là TB cốđịnh, song đối với các lò mổ thì con trâu là “nguyên liệu sản xuất”, do đó nó là TB lưu động. Sự phân chia tư bản thành tư bản cốđịnh và tư bản lưu động làđặc điểm riêng của tư bản sản xuất. Căn cứ vào sự phân chia là phương thức chu chuyển của tư bản. Tư bản cốđịnh chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cốđịnh chu chuyển được 1 vòng thì tư bản lưu động có thể chu chuyển được nhiều vòng hơn. Xác định tư liệu sản xuất là tư bản cốđịnh hay tư bản lưu động phải căn cứ vào chức năng của nó trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất tư bản cốđịnh bị hao mòn dần. Một chiếc máy từ chỗ mới nguyên vẹn bị hao mòn dần trong quá trình sử dụng cuối cùng chỉ còn làđống sắt vụn. Đó là hao mòn về mặt giá trị sử dụng. Đi đôi với hao mòn vật chất giá trị 14 của nó cũng bị giảm dần do đã chuyển từng phần sang sản phẩm. Đó là hao mòn về mặt giá trị. Những sự hao mòn đó gọi là hao mòn hữu hình - hao mòn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của thiên nhiên gây ra. Ngoài hao mòn hữu hình tư bản cốđịnh còn bị hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng đã bị mất giá vì có những máy móc tốt hơn hiện đại hơn xuất hiện. Nó là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Một số nguyên nhân dẫn đến hao mòn hữu hình: - Năng suất lao động tăng lên do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ tuy giá trị sử dụng của chúng còn nguyên vẹn hoặc mới bị hao mòn một phần. - Tiến bộ của khoa học kỹ thuật được ứng dụng đã tạo ra những máy móc tối tân hơn, có công suất cao hơn các máy móc cũ. Tình hình này là làm cho các máy móc cũ tuy giá trị sử dụng còn nguyên vẹn nhưng giá trị bị giảm đi nhiều. Hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tư bản cốđịnh đều được tính chuyển vào giá trị sản phẩm, lưu thông của sản phẩm, chuyển hoá thành tiền và hình thành quỹ khấu hao dùng đểđổi mới tư bản cốđịnh khi đến kỳ tái tạo ra tư bản đó dưới hình thái hiện vật. Tư bản cốđịnh phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất thường và nâng cao hiệu quả của nó. Việc bảo quản thực hiện một phần ngay trong việc sử dụng, bảo tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cống hiến tự nhiên, không mất tiền của lao động sống. Ngoài việc bảo quản đó, tư bản cốđịnh còn phải được bảo quản thực sự. Do đó phải có những chi tiêu đặc biệt để bảo dưỡng, tu bổ và sửa chữa TSCĐ. Những chi phí bảo quản và sửa chữa đóđược phân phối bình quân vào suốt cuộc đời phục vụ trung bình của tư bản cốđịnh và tính vào giá cả sản phẩm sản xuất ra. Số tư bản chi cho bảo quản và sửa chữa xét về nhiều điểm là một thứ tư bản có tính chất đặc biệt, không thể xếp vào tư bản lưu động cũng không thể xếp vào tư bản cốđịnh. Nhưng vì là một bộ phận trong chi phí thường ngày nên nóđược sắp xếp vào tư bản lưu động, trừ những chi phí sửa chữa lớn có tính chất thay thế hay đổi mới tư bản cốđịnh tính vào quĩ khâú hao TSCĐ. CHƯƠNG IV 15 ÝNGHĨATHỰCTIỄNKHINGHIÊNCỨULÝTHUYẾTTUẦNHOÀNV ÀCHUCHUYỂNCỦATƯBẢNĐỐIVỚIVIỆCQUẢNLÝCÁCDOANHN GHIỆPỞNƯỚCTAKHIBƯỚCVÀONỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGCÓS ỰQUẢNLÝCỦANHÀNƯỚC. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trước năm 1986 quan hệ ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới rất mờ nhạt, chủ yếu quan hệ với một số nước anh em như: Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Bungari... với mục đích tiếp tục nhận viện trợ . Nền kinh tế trong nước còn đang yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống và cũng chính Nhà nước tìm cách tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp bên cạnh đó lạm phát luôn là mức phi mã. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp có trách nhiệm duy trì, bảo tồn và phát triền nguồn vốn hiện có nghĩa là doanh nghiệp tự mình sản xuất kinh doanh tìm "đầu vào" và "đầu ra" cho doanh nghiệp. Về phía Nhà nước lúc này chỉ quản lý các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Do đó nghiên cứu lý thuyết thuần hoàn của tư bản rất cóý nghĩa đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 1.4. Biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản Thứ nhất: xác định đường lối sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Hiện nay nước ta đang tồn tại song song 5 phần kinh tế. Cùng với sự xuất hiện của những doanh nghiệp mới thành lập đã có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả dẫn đến phá sản. Ngay từ khi có quyết định bỏ vốn thành lập doanh nghiệp nhà quản trị phải trả lời được 3 câu hỏi: doanh nghiệp sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? chỉ khi trả lời ba câu hỏi này một cách đầy đủ và chính xác nhất thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới được tiến hành bình thường và liên tục hay nói cách khác doanh nghiệp góp phần thực hiện quá trình tuần hoàn tư bản. 16 Để trả lời được câu hỏi doanh nghiệp sản xuất cái gì? doanh nghiệp cần phân tích nhu cầu của thị trường xem thị trường đang thiếu cái gì mà nhu cầu về mặt hàng ngày đang tăng và nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp trong khả năng vốn hiện có. Sau đó nhà quản trị sẽ bỏ vốn để mua tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, thiết bị sản xuất, nhiên liệu, nhà xưởng, kho tàng và mua sức lao động (trả lương cho công nhân). Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hiện vật. ở giai đoạn này nhà quản trị phải cân đối vốn để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân theo tỉ lệ thích hợp. Nếu thiếu một trong hai nhân tốđó thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn làm ảnh hưởng tới sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ lên kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn bằng cách hình thành các quĩ như quĩđầu tư, phát triển, quĩ khấu hao, quĩ phúc lợi. Sau một thời gian sản xuất những quĩ này được đưa ra sử dụng mở rộng sản xuất (theo chiều rộng) hoặc cải tiến máy móc, nhập thêm dây chuyền hiện đại để tăng năng suất lao động (mở rộng theo chiều sâu). Thứ hai: tiết kiệm được tư bản ứng trước. Sau một thời gian dài hoạt động máy móc sẽ bị hao mòn dần do chuyển một phần giá trị vào sản phẩm. Ngoài việc cải tiến máy móc, nhập thêm những dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa vào kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính trước những công việc bảo dưỡng, tiểu tu, trung tu, đại tu tài sản cốđịnh sau những khoảng thời gian hoạt động nhất định, cũng như việc sửa chữa hư hỏng thông thường và bất thường có thể xảy ra. Ngoài ra, để tránh hao mòn vôích, nhất là hao mòn vô hình doanh nghiệp phải ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng cách nâng cao ý thức người lao động đối với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử dụng hết công suất máy thiết kếđể thu hồi vốn nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất. Thứ ba: đưa ra các giải pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn. 17 Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các doanh nghiệp phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông vì nó là thành phần tạo nên thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ở nước ta trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thường đưa ra những giải pháp sau đây để rút ngắn thời gian sản xuất. + Áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên cạnh việc nhập khẩu một số dây chuyền nước ngoài có công nghệ tiên tiến các doanh nghiệp không nên bỏ qua những dây chuyền sản xuất có khả năng sử dụng bằng cách bán lại cho những doanh nghiệp cần nó. + Mở rộng quan hệđể liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn nhất để bắt kịp với sự tiến bộ của xã hội. + Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức quản lý cồng kềnh dẫn đến giải quyết công việc bị chồng chéo lên nhau,vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của người này với người khác. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải giảm lực lượng lao động gián tiếp không có năng lực để bộ máy được gọn nhẹ linh hoạt, tuân thủ chếđộ một thủ trưởng. Mặt khác lực lượng lao động trực tiếp là người sản xuất ra sản phẩm nên phải bố trí ca kíp làm việc hợp lý cho mọi người để có thời gian nghỉ ngơi. Thực hiện chếđộ làm việc 40 giờ một tuần đồng thời trả lương xứng đáng cho người lao động đã bỏ sức ra, khuyến khích người lao động làm việc có năng suất, hiệu quả bằng những phần thưởng vật chất và tinh thần. Một số giải pháp rút ngắn thời gian lưu thông. + Nhu cầu của con người thường xuyên biến đổi, khi một nhu cầu này được thoả mãn nhu cầu khác lại xuất hiện, qúa trình này không ngừng diễn ra. Để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng đồng nghĩa bán được sản phẩm và thu hồi vốn nhanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị trường xem sản phẩm nào đang có nhu cầu trên thị trường để tăng sản lượng sản xuất. Ngược lại, nếu một số sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra đang bão hoà và có xu hướng giảm dần doanh nghiệp nên chuyển hướng sản xuất kinh doanh sản phẩm khác. 18 + Cải tiến mặt hàng sao cho chủng loại hàng hoá của doanh nghiệp luôn phong phúđa dạng, phù hợp với từng đối tượng, giới tính, độ tuổi. Sản xuất đa dạng hoá sản phẩm không những thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tận dụng được những tư liệu sản xuất chưa dùng đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. + áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt vàđặc biệt phải xây dựng các kênh phân phối. Xác định đâu loại thị trường chính, thị trường mục tiêu từđó phân khúc thị trường nhằm mở rộng thị phần. Thứ tư: hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo ra nhiều cơ hội làm ăn mới nhưng cũng chứa đầy những thách thức vàđe doạ. Nắm bắt được qui luật tuần hoàn và chu chuyển vốn của doanh nghiệp các nhà quản trị tận dụng cơ hội đểđầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.4. Vốn- Vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một chìa khoá quan trọng cho thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, do có những hạn chế nhất định cho nên tiểu luận này chỉ nghiên cứu về vốn, việc quản lý và sử dụng vốn ở phương diện vĩ mô. Để thấy được vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta nhìn lại nền kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Với tham vọng mau chóng xây dựng một nền kinh tế PT “toàn diện tự chủ”, trong đó công nghiệp hiện đại, giao thông, bưu điện, thương nghiệp quốc doanh tiên tiến...., các nhà hoạch định chính sách đãđưa ra chiến lược “ưu tiên PT công nghiệp nặng”. Như chúng ta đã biết, công nghiệp nặng là ngành đòi hỏi phải có một lượng TB ứng trước lớn, thời gian chu chuyển của TB cốđịnh rất dài, do đó hiệu quả TB đương nhiên không cao và hiệu quả kinh tế thu được rất chậm. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, nền kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát tăng, vốn đầu tư hầu hết chỉ dựa vào ngân sách quốc gia. Do nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu cho nên nhà TB đã không đầu tư vào các ngành có thời gian chu chuyển ngắn hay tốc độ chu chuyển nhanh. Chính vì sai lầm này, mọi nguồn lực đều bị sử dụng vô tội vạ, các 19 nguồn vốn tài trợ...đều được đổ vào công nghiệp nặng bất chấp hiệu quả, bất chấp quy luật cung cầu. Hậu quả là ngân sách nhà nước cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát tăng, hệ thống công nghiệp nặng đồ sộ không còn được nuôi dưỡng bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế. Như vây, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức quan trọng, đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược PT kinh tế, từđó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn thích hợp. Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan cũng như khách quan. Vì thế việc xác định “chính sách công nghiệp hoá” sao cho phù hợp là bước quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan