ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ THÀNH KHÔI
HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KHOA HỌC – CÔNG
NGHỆ TẠI CÁC TỔ CHỨC DÂN SỰ (KHẢO SÁT TẠI
MỘT SỐ TỔ CHỨC DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ
NỘI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60 34 72
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS, TS Dƣơng Xuân
Ngọc
Hà Nội – 2010
LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này cho phép tôi đƣợc gửi lời
cám ơn trân trọng đến:
Giáo sƣ, Tiến sỹ Dƣơng Xuân Ngọc, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, ngƣời thầy
rất mực quý mến đã nhiệt tâm hƣớng dẫn cho luận văn của tôi, giúp tôi hình thành ý
tƣởng, triển khai các nội dung cần nghiên cứu từ thực tiễn để hoàn thành đề tài này.
Quý thầy, cô khoa Khoa học quản lý Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
đã có những hƣớng dẫn quý báu trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Lãnh đạo Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hội Thông tin - Tƣ liệu
Việt Nam đặc biệt là các anh chị cán bộ ban Thông tin đã cung cấp cho tôi những
thông tin chính xác và kịp thời để tôi có căn cứ tiến hành đề tài luận văn này.
Tác giả: Lê Thành Khôi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKHCN: Bộ Khoa học và Công nghệ
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
CSO: Tổ chức xã hội dân sự
KH-CN: Khoa học – Công nghệ
KH&KT: Khoa học và kỹ thuật
KT - XH: Kinh tế xã hội
NGO: Tổ chức phi chính phủ
TTKH - CN: Thông tin khoa học – Công nghệ
VUSTA: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
XHDS: Xã hội dân sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
13
4. Phạm vi nghiên cứu 13
4. Mẫu khảo sát 14
5. Vấn đề nghiên cứu 14
6. Giả thuyết nghiên cứu
14
7. Phƣơng pháp chứng minh 14
8. Luận cứ
14
9. Kết cấu của luận văn
15
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ HOẠT ĐỘNG
THÔNG TIN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TỔ CHỨC DÂN
SỰ ................................................................................................................................ 17
1.1. Xã hội dân sự
17
1.1.1 Khái niệm
17
1.1.2 Bản chất của XHDS 20
1.1.3 Đặc điểm của XHDS 22
1.1.4 Chức năng của XHDS
23
1.1.5 Quá trình hình thành XHDS ở Việt Nam 23
1.2. Hoạt động thông tin khoa học – công nghệ trong các tổ chức dân sự
29
1.2.1. Thông tin
29
1.2.2. Thông tin khoa học – công nghệ 30
1.2.3. Hoạt động thông tin khoa học – công nghệ
30
1.2.4. Hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin khoa học của các tổ
chức dân sự 30
1.3. Vai trò của thông tin khoa học – công nghệ trong giai đoạn hiện nay
32
1.4 Yêu cầu về nguyên tắc trong hoạt động thông tin khoa học – công nghệ
33
1.4.1 Coi thông tin là hàng hóa 33
1.4.2 Quyền tiếp cận và truy cập thông tin là quyền cơ bản của mọi tổ
chức, mọi thành phần xã hội, mọi tầng lớp dân cƣ 33
1.4.3 Coi tổ chức dân sự là một tác nhân gắn kết giữa hệ thống thông tin
khoa học - công nghệ quốc gia và đối tƣợng sử dụng thông tin 33
1.4.4 Xã hội hóa thông tin khoa học - công nghệ và hoạt động thông tin
khoa học - công nghệ
34
1.4.5 Coi thông tin là tiền đề nhằm tiến tới xã hội thông tin và xã hội tri
thức, khẩn trƣơng ban hành và thực thi Luật tiếp cận thông tin 34
Kết luận Chƣơng 1
35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KHOA HỌC –
CÔNG NGHỆ CỦA VUSTA ...................................................................................... 36
2.1. Bối cảnh mới và những thách thức của hoạt động thông tin khoa học công nghệ36
2.1.1 Bối cảnh mới của hoạt động thông tin khoa học - công nghệ 36
2.1.2 Nhiệm vụ của VUSTA tham gia hoạt động thông tin khoa học –
công nghệ
41
2.1.3 Thách thức đối với VUSTA khi tham gia hoạt động thông tin khoa
học – công nghệ
42
2.2. Nhận diện bƣớc đầu về kết quả hoạt động thông tin khoa học – công
nghệ tại VUSTA
43
2.2.1 Hình thức hoạt động thông tin khoa học - công nghệ 43
2.2.2 Nội dung hoạt động thông tin khoa học – công nghệ của VUSTA
46
Kết luận Chƣơng 2
55
CHƢƠNG 3: XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC
ĐẨY HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ TRONG
CÁC TỔ CHỨC DÂN SỰ .......................................................................................... 56
3.1 Xu hƣóng phát triển của hoạt động thông tin khoa học - công nghệ
56
3.2 Những giải pháp thúc đẩy hoạt động thông tin khoa học – công nghệ
trong các tổ chức xã hội dân sự
57
Một là, thay đổi nhận thức căn bản về tính chất của thông tin khoa học
nói chung và hoạt động thông tin khoa học - công nghệ nói riêng. 57
Hai là, tạo lập và phát triển nguồn tin khoa học - công nghệ
58
Ba là, phát triển khả năng truy nhập và sử dụng thông tin thông qua
nghiên cứu nhu cầu của đối tƣợng dùng tin 58
Bốn là, hiện đại hóa các công nghệ ứng dụng trong hoạt động thông tin
khoa học - công nghệ
58
Năm là, số hóa hệ thống cơ sở dữ liệu hiện có 59
Sáu là, tiếp tục phát triển các cổng thông tin điện tử (Portal)
59
Bảy là, phát triển cơ quan chuyên trách tham gia hoạt động thông tin
khoa học – công nghệ tại Liên hiệp hội 59
Tám là, quy hoạch, quản lý và phát triển tổ chức Liên hiệp hội 60
Kết luận Chƣơng 3
61
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 61
KHUYẾN NGHỊ.......................................................................................................... 63
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động thông tin KH-CN trong các tổ chức dân sự nhằm nâng cao vai trò của
các tổ chức dân sự đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu . Các tổ chức dân
sự hợp thành XHDS là một vấn đề mới và hiện đang gây ra đƣợc sự chú ý rất cao ở
Việt Nam trong giới khoa học cũng nhƣ trong giới các nhà quản lý.
Trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN
và Nhà nƣớc pháp quyền XHCN, các tổ chức xã hội và cơ sở pháp lý của XHDS đã
từng bƣớc đƣợc thiết lập, kể cả việc khôi phục truyền thống tự quản của làng nhƣ
hƣơng ƣớc, các loại quỹ, hội tƣơng thân tƣơng ái. Hiện nay có 6 loại tổ chức xã hội
đăng ký chính thức để hoạt động, đó là:
- Các tổ chức chính trị - xã hội: Gồm 5 tổ chức quần chúng: Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; Hội nông dân; công đoàn; Hội phụ nữ; Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến bình
với hơn 31 triệu hội viên và với 29 tổ chức thành viên.
- Các hiệp hội nghề nghiệp - xã hội trung ƣơng: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ
thuật Việt Nam (VUSTA), Liên hiệp Văn học và nghệ thuật Việt Nam và Liên hiệp
các Hiệp hội Hòa bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ, Hội
ngƣời cao tuổi, Hội kinh doanh, v.v…gồm hàng trăm hội thành viên và hàng chục
triệu hội viên.
- Các hiệp hội địa phƣơng chỉ hoạt động trong một địa phƣơng: năm 2005, có
khoảng 2150 hội với hàng triệu hội viên.
- Các hiệp hội nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ, bảo tồn di sản văn hóa
truyền thống và môi trƣờng thiên nhiên gồm hơn trăm tổ chức với hàng chục nghìn
thành viên.
- Các tổ chức dân lập, tự quản gồm hàng chục nghìn quỹ, hội tín dụng, tiết kiệm, hỗ
trợ ngƣời nghèo, tàn tật… và các tổ, đội, câu lạc bộ văn hóa - nghệ thuật, thể dục thể thao v.v…với sự tham gia của hàng triệu ngƣời.
- Các tổ chức tôn giáo (Phật Giáo, Thiên Chúa giáo, Tin lành, Hòa Hảo, Cao Đài,
Hồi giáo) với khoảng 18 triệu tín đồ.
Bên cạnh đó, tại nƣớc ta hiện nay có khoảng 530 tổ chức phi chính phủ đang hoạt
động. Các tổ chức này có 150 văn phòng trên cả nƣớc và thu hút sự tham gia của
nhiều tổ chức và công dân Việt Nam1
Cho đến nay, trong tổng số trên 85,7 triệu dân, ƣớc tính có 65 - 70 triệu ngƣời tham
gia từ một đến nhiều tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội (cả chính thức và không
chính thức) tạo thành lực lƣợng XHDS thực sự rộng lớn và đi liền với đó là những
khuynh hƣớng hoạt động đúng định hƣớng, theo qui định của pháp luật, hoặc hoạt
động một cách tự phát, vô chính phủ.
Điều này cho thấy tính khách quan của sự tồn tại và phát triển của XHDS trong một
đất nƣớc đang xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN và phát triển nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN nhƣ Việt Nam.
1
Trung tâm nguồn lực VUFO - NGO : Thƣ mục các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam 2004-2005,
Nxb CTQG. Hà Nội, 2004
Formatted: Bullets and Numbering
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, XHDS nói chung và hoạt động cụ thể của các tổ
chức thuộc XHDS vẫn đang thiếu một hành lang pháp lý thực sự - một bộ Luật về
hoạt động của Hội thực sự thuận lợi để phát triển.
Hiện nay, luật về các hiệp hội đang đƣợc soạn thảo để trình lên Quốc hội. Bộ luật
này đã đƣợc tiến hành thảo luận, đã qua 12 lần dự thảo từ nhiều năm nay nhƣng
chƣa thể hoàn tất, mặc dù hai kỳ Đại hội IX và X của Đảng đều xác định phải ban
hành Luật về hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng theo tinh thần Hiến pháp năm
1946 đã nêu vấn đề soạn thảo Luật trƣng cầu ý dân. Nhƣng việc soạn thảo luật này
cũng nhƣ Bộ luật về các hiệp hội đang vấp phải nhiều vấn đề phức tạp, nhƣ phạm
vi, nội dung các vấn đề cần trƣng cầu dân ý; cơ chế tài chính và quản lý hoạt động
của các hội…
Về mặt lý luận, những vấn đề đặt ra từ thực tiễn triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội X của Đảng phản ánh nhận thức lý luận của chúng ta về XHDS còn bất cập, yếu
kém ở các phƣơng diện sau:
- Bất cập trong nhận thức về khái niệm, đặc điểm, vai trò của XHDS trong mối
quan hệ với gia đình, kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN, kiến trúc thƣợng tầng tƣ tƣởng và một Đảng Cộng sản cầm quyền. Chẳng
hạn, chỉ riêng tính thống nhất và khác biệt giữa khái niệm “xã hội công dân” và “Xã
hội dân sự” đã là một chủ đề còn đang gây tranh cãi ở nƣớc ta.
- Nhận thức lại, vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác về
XHDS, có chú ý kế thừa tƣ tƣởng truyền thống dân tộc về tự quản và tham khảo
quan điểm tiến bộ của nhân loại, nhất là quan điểm của chủ nghĩa Mác phƣơng Tây,
về XHDS.
- Nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo kinh nghiệm và không lặp lại bài học
thất bại trong xây dựng xã hội của một số nƣớc trong quá trình chuyển sang kinh tế
thị trƣờng, đặc biệt là của Liên Xô cũ và các nƣớc XHCN cũ ở Đông Âu. Tiếp thu
kinh nghiệm của một số nƣớc, đặc biệt là Trung Quốc trong việc tiếp tục xây dựng
thể chế “một đảng chấp chính, nhiều đảng phái tham chính” và phát triển hợp lý các
“tổ chức trung gian” - tức các tổ chức xã hội, nhằm xây dựng xã hội hài hóa. Đây có
thể là một bài học tốt cho Việt Nam trong quá trình xây dựng XHDS.
Bài học “đa nguyên, đa đảng” đến mức XHDS, đặc biệt là các tổ chức phi chính
phủ, chi phối quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền còn non yếu bằng thực tế và
nguy cơ các “cuộc cách mạng sắc màu” tại Liên Xô và các nƣớc XHCN cũ ở Đông
Âu luôn cảnh tỉnh chúng ta phải xây dựng mối quan hệ phân công, hợp tác giữa Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN và XHDS trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Nhìn chung, ở nƣớc ta các tổ chức dân sự đã, đang hình thành và trong chừng mực
đã phát huy vai trò to lớn của mình. Tuy nhiên, do một phần, hoạt động thông tin
KH-CN trong các tổ chức dân sự chƣa đƣợc thúc đẩy tƣơng xứng với chức năng,
nhiệm vụ, nhất là trong điều kiện cách mạng KH-CN mà nòng cốt là công nghệ
thông tin có bƣớc phát triển vƣợt bậc nhƣ hiện nay nên dƣờng nhƣ có một khoảng
cách cả trong nhận thức cũng nhƣ thực tiễn hoạt động khu vực XHDS với nhà nƣớc
pháp quyền XHCN.
Tất cả những vấn đề thực tiễn - lý luận trên đây đang đặt ra yêu cầu phải nghiên
cứu đề tài này một cách cơ bản, hệ thống, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, để đề xuất đƣợc những quan điểm, giải pháp chính trị - xã hội
thúc đẩy xây dựng XHDS dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
Vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức đúng và nên chủ động xây dựng và phát huy vai
trò của XHDS ở Việt Nam. Chính vì lý do đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt
động thông tin khoa học – công nghệ tại các tổ chức dân sự (khảo sát tại một số
tổ chức dân sự trên địa bàn Hà Nội)” làm đề tài luận văn cho mình.
2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, vấn đề XHDS thực sự nổi lên và đƣợc nghiên cứu từ khoảng năm
2000, từ đó đến nay có thể kể ra một số hƣớng đi chính:
- Giai đoạn 1986 - 1995:
Khi mới chuyển sang kinh tế thị trƣờng và chƣa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đã có những công trình nghiên cứu liên quan đến XHDS.
Đề tài cấp Bộ: Cơ cấu xã hội và chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH
của Viện Mác - Lênin - Hồ Chí Minh (1989 - 1992), do PGS.TS Hoàng Chí Bảo
làm chủ nhiệm, thƣ ký khoa học: Nguyễn Thanh Tuấn, công trình đã đƣợc xuất bản
thành hai cuốn sách “Cơ cấu xã hội - giai cấp ở nƣớc ta”, Nxb Thông tin lý luận, Hà
Nội, 1992 và “Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nƣớc ta hiện nay”, Nxb CTQG,
Hà Nội,1993. Trong cuốn sách “Cơ cấu xã hội - giai cấp ở nƣớc ta” có dự báo:
“Nếu xu hƣớng đổi mới đƣợc kiên trì và thắng thế thì các nhóm xã hội lớn ngày
càng đƣợc định hình ổn định, để cấu thành xã hội công dân Việt Nam XHCN…”.
Chƣơng trình khoa học - công nghệ cấp nhà nƣớc: Cơ cấu xã hội và chính sách xã
hội ở nƣớc ta hiện nay, mã số KX04 (1991 - 1995), do GS.TS Phạm Xuân Nam làm
chủ nhiệm. Chƣơng trình nghiên cứu này đã nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp,
dân cƣ, dân tộc …và đề xuất các chính sách xã hội đối với các giai cấp, tầng lớp dân
cƣ và dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Chƣơng trình khoa học - công nghệ cấp nhà nƣớc: Hệ thống chính trị trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nƣớc ta, mã số KX05 (1991 - 1995) do GS Nguyễn Đức Bình
làm chủ nhiệm, có đề tài nhánh: Vị trí và những đặc trƣng về hoạt động của các tổ
chức quần chúng và xã hội trong hệ thống chính trị, mã số KX05.10, do TS Nguyễn
Viết Vƣợng làm chủ nhiệm. Đề tài đã phân tích, đánh giá hoạt động của các tổ chức
quần chúng và xã hội, chủ yếu là các tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính
trị trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trƣờng2.
- Giai đoạn 1996 - 2000:
Trong điều kiện thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bƣớc vào đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có một số công trình nghiên cứu trực tiếp các tổ
chức xã hội, không thuộc hệ thống chính trị; đăng ký hoạt động chính thức hoặc
không đăng ký chính thức, là thành viên hoặc không là thành viên Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Trong giai đoạn này, không có đề tài cấp nhà nƣớc nghiên cứu trực tiếp
XHDS, mặc dù có chƣơng trình khoa học - công nghệ cấp nhà nƣớc nghiên cứu về
Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhƣng lại có không ít công
trình, đặc biệt là của cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài nghiên cứu về các tổ chức xã hội
nói riêng và XHDS nói chung ở nƣớc ta.
2
Nguyễn Viết Vƣợng: Các đoàn thể nhân dân trong nền kinh tế thị trƣờng, Nxb CTQG, Hà Nội. 1994.
Formatted: Bullets and Numbering
Năm 1996, tác giả Nguyễn Khắc Mai đã xuất bản cuốn sách Vị trí vai trò của các
hiệp hội quần chúng ở nước ta3. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đánh
giá tình hình hoạt động của các tổ chức xã hội ngoài hệ thống chính trị. Ngoài các tổ
chức quần chúng hay tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính tị, theo tác giả
có 7 loại tổ chức dân sự, đó là: hiệp hội khoa học công nghệ; hiệp hội văn học và
nghệ thuật; hiệp hội nhân đạo và từ thiện; liên đoàn thể thao; hiệp hội văn hóa và
các hiệp hội nghề nghiệp khác; hiệp hội hữu nghị và hòa bình; và các tôn giáo.
Ngoài ra, tác giả cũng đã đề cập đến các hội quần chúng không đăng ký và hoạt
động không chính thức.
Các tổ chức NGO quốc tế hoạt động tại Việt Nam cũng đƣợc quan tâm nghiên cứu,
ví dụ qua công trình của tác giả Nguyễn Văn Thanh trong năm 1998 4.
Các tác giả nƣớc ngoài tập trung bàn về sự phát triển của các tổ chức phi chính phủ
nhƣ là biểu hiện của sự hình thành XHDS ở Việt Nam. Thí dụ công trình của
C.Beaulien về mối quan hệ giữa tổ chức phi chính phủ, XHDS và đa nguyên trá
hình5; công trình của Mark Sidel về sự nổi lên của khu vực phi lợi nhuận về tổ chức
từ thiện6; Mark Sidel đƣa ra 9 loại tổ chức xã hội ở Việt Nam gồm: các nhóm nghiên
cứu phát triển, các nhóm nghiên cứu xã hội phía Nam, các tổ chức giáo dục tƣ nhân
và bán công, các nhóm dịch vụ xã hội do những ngƣời có uy tín thành lập; các hiệp
hội kinh doanh và nghề nghiệp, các nhóm hợp tác xã nông dân chính thức và tự phát,
các nhóm tôn giáo, các tổ chức quần chúng chính thức, các tổ chức đang hoạt động
chính trị.
Năm 1999, một nhóm nhà khoa học Đức hợp tác với một số nhà khoa học Việt Nam
thực hiện dự án COHH điều tra các tổ chức xã hội chính thức tại Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh đã phân các tổ chức xã hội thành 3 loại: tổ chức chính trị - xã hội (hay
tổ chức quần chúng), các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức theo vấn đề 7.
- Giai đoạn 2001 đến nay:
Trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN,
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN và đẩy mạnh hội nhập quốc tế - đã xuất
hiện khá nhiều đề tài, luận văn, dự án của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nƣớc
nghiên cứu về XHDS ở Việt Nam, cụ thể:
Về đề tài nghiên cứu:
Đề tài: Cơ chế quan hệ của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
với các định chế xã hội ở Việt Nam hiện nay, thuộc chƣơng trình khoa học - công
nghệ cấp nhà nƣớc mang mã số 04.07, do GS.TS Lê Văn Quang làm chủ nhiệm.
Đề tài cấp bộ Vai trò của các đoàn thể nhân dân trong việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở
(xã) hiện nay (2000 - 2001) của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, do TSKH Phan
Xuân Sơn làm chủ nhiệm.
3
Nguyễn Khắc Mai: Vị trí, vai trò các hiệp hội quần chúng ở nƣớc ta, Nxb Lao động, Hà Nội 1996.
Nguyễn Văn Thanh: Nhìn nhận lại vai trò của các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam, Tạp chí
Cộng sản, số 17 (9/1998).
5
C.Beaulien : Đó có phải là một tổ chức phi chính phủ? đó là một xã hội dân sự? đó là sự đa nguyên trá
hình? Báo cáo CB-26 đến Viện các vấn đề hiện hành của thế giới, 1994.
6
Mark Sidel : Sự nổi lên của khu vực phi lợi nhuận và tổ chức từ thiện tại nƣớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam,1995.
7
J.Wisehermann, Bùi Thế Cƣờng và Nguyễn Quang Vinh : Mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội và tổ chức
phi chính phủ tại Việt Nam.
4
G.Sabharval và Trần Thị Thiên Hƣơng: XHDS Việt Nam: chuyển từ bên lề sang xu
thế chủ đạo, do cơ quan phát triển Quốc tế Anh (DFID) tài trợ nghiên cứu (2005).
Dalton Russll J. và Ông Thị Nhƣ Ngọc: XHDS và vốn xã hội tại Việt Nam, Xã hội
học so sánh, (2002). Hannah, Joe: Các nhân tố và hành động XHDS tại Việt Nam
do Quỹ Heinrich Boll, Berlin tài trợ (2005). Dự án: Đánh giá nhanh các chỉ số
XHDS ở Việt Nam của Viện Những vấn đề phát triển thuộc Liên hiệp các Hội khoa
học và kỹ thuật Việt Nam (2005 - 2006)…
Về luận văn:
Ala Rantala, Anu: Các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam - Người thúc đẩy
cho dân chủ, luận văn thạc sĩ, thực hiện tại Trung tâm nguồn lực về tổ chức phi
chính phủ năm 2002; Bùi Việt Hƣơng: Xã hội công dân trong lịch sử tƣ tƣởng chính
trị phƣơng Tây, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, thực hiện tại Học viện CTQG
Hồ Chí Minh, năm 2005…
Về các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố:
Thang Văn Phúc: Vai trò của các Hội trong đổi mới và phát triển đất nƣớc, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2002;
Phan Xuân Sơn: Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2002;
Bạch Tân Sinh ; XHDS và các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam, một số suy nghĩ
ban đầu về phát triển và những trở ngại, Viện Chiến lƣợc và Chính sách khoa học
công nghệ, Hà Nội, 2001;
Bùi Thế Cƣờng: Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 1990,
Nxb KHXH, Hà Nội, 2001;
Bùi Thế Cƣờng: Trong miền an sinh xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2005;
Lê Bạch Dƣơng, Khuất Thu Hồng, Bạch Tân Sinh và Nguyễn Thanh Tùng: XHDS
tại Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu phát triển xã hội, Hà Nội, 2003;
Trần Minh Vĩ: Một số quy định pháp luật về quản lý, tổ chức và hoạt động của các
hội và đoàn thể xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002;
Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh: Quan hệ giữa Nhà nƣớc và XHDS Việt Nam, lịch
sử và hiện tại, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003; và một số bài tạp chí khác…
Khái quát nội dung các công trình trong giai đoạn từ 2001 đến nay: Có thể thấy
rằng, kết quả của đề tài khoa học - công nghệ cấp nhà nƣớc do GS.TS Lê Văn
Quang làm chủ nhiệm đã đƣợc công bố thành sách chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa
Nhà nƣớc và XHDS trong lịch sử Việt Nam. Công trình đề tài cấp Bộ của TSKH
Phan Xuân Sơn đã đƣợc công bố thành sách mà nội dung chủ yếu bàn về hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở.
Cần nhấn mạnh rằng cho đến nay, ở Việt Nam các công trình khoa học trong khuôn
khổ quản lý Nhà nƣớc nhƣ đề tài các cấp (Nhà nƣớc, Bộ, cơ sở), nhất là của các cơ
quan Đảng, chủ yếu bàn về các tổ chức chính trị - xã hội hoặc mối quan hệ giữa
Nhà nƣớc với XHDS trong lịch sử nƣớc ta, hay tƣ tƣởng xã hội công dân phƣơng
Tây, mà chƣa có các công trình nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận và thực
tiễn về hoạt động thông tin khoa học - côn nghệ tại các tổ chức dân sự hiện nay ở
Việt Nam. Những bài viết trên tạp chí thƣờng dừng lại ở mức thông tin, tổng quan
một số khía cạnh chung, nhƣ khái niệm về xã hội công dân, sự phát triển của các tổ
chức chính trị - xã hội…
Trong khi đó, các công trình (đề tài, dự án) do các tổ chức phi chính phủ của Việt
Nam thực hiện với nguồn kinh phí của nƣớc ngoài hoặc các công trình do tổ chức,
cá nhân nƣớc ngoài thực hiện, thì không né tránh, mà bàn trực tiếp về XHDS hiện
tại Việt Nam.
Một thí dụ rõ nhất là so sánh cuốn sách của tác giả Thang Văn Phúc, thứ trƣởng Bộ
Nội vụ với tài liệu của nhóm tác giả Bạch Tân Sinh và tài liệu của dự án Đánh giá
nhanh các chỉ số XHDS của Viện những vấn đề phát triển thuộc Liên hiệp các Hiệp
hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do GS.VS Đặng Hữu, nguyên Trƣởng ban
Khoa giao Trung ƣơng, làm chủ tịch.
Cuốn sách của tác giả Thang Văn Phúc đã nêu ở trên tập trung vào các tổ chức quần
chúng và phân theo 3 loại: Tổ chức chính trị quần chúng trong tổ chức chính trị - xã
hội (6 tổ chức); hiệp hội chính trị - xã hội (Liên hiệp các Hiệp hội khoa học và kỹ
thuật và Liên hiệp các Hiệp hội Văn học và Nghệ thuật …) và các hiệp hội này
đƣợc thành lập trong quá trình đổi mới chủ yếu thông qua sáng kiến của các nhóm.
Có thể hiểu loại tổ chức thứ ba là các tổ chức dân lập, tự quản. Công trình nghiên
cứu này, chủ yếu bàn về bản chất, chức năng và vị trí của các tổ chức trong hệ
thống chính trị và vai trò của chúng đối với sự phát triển xã hội.
Trong khi đó, tài liệu của nhóm tác giả Bạch Tân Sinh (2001) nêu ở trên về XHDS
và các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam của Viện Chiến lƣợc và Chính sách Khoa
học công nghệ (NISTPASS) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, đã phân tích đánh
giá trực tiếp mối quan hệ giữa XHDS và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam
trên các phƣơng diện: tình hình phát triển và những trở ngại, rào cản đối với các tổ
chức dân sự.
Báo cáo của dự án Đánh giá nhanh các chỉ số XHDS có tiêu đề Đánh giá ban đầu
về XHDS tại Việt Nam (1.2006) của Việ Những vấn đề phát triển thì đã đi vào đánh
giá một cách khá toàn diện - mặc dù đƣợc gọi là “ban đầu” - về XHDS Việt Nam,
nhƣ: bối cảnh lịch sử của XHDS, XHDS đƣợc khôi phục và mở rộng, phác đồ
XHDS tại Việt Nam, cấu trúc, môi trƣờng, giá trị và tác động của XHDS Việt Nam.
Qua so sánh nhƣ vậy, có thể thấy rằng, XHDS Việt Nam đã là một chủ đề nghiên
cứu khá sâu sắc trong các công trình đƣợc tài trợ từ các tổ chức quốc tế, mặc dù vậy
nó vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu trực tiếp, có qui mô và hệ thống trong các chƣơng
trình KHCN tại các cơ quan khoa học của Đảng, Nhà nƣớc. Nhận định này không
hàm ý rằng các cơ quan khoa học của Đảng, Nhà nƣớc sẽ “phấn đấu” để có công
trình nghiên cứu về XHDS Việt Nam “sánh ngang” với các công trình có kinh phí
đầu tƣ nƣớc ngoài vốn là kết quả của phƣơng pháp luận không hoặc ít phù hợp với
đƣờng lối, tƣ tƣởng, chính trị của Đảng, Nhà nƣớc ta.
Một ví dụ là định nghĩa của dự án Đánh giá nhanh các chỉ số XHDS trong báo cáo
đƣợc nhắc ở trên, đã phần nào hàm chứa phƣơng pháp luận, và do đó là hệ quả
chính trị - xã hội không phù hợp với thể chế của Đảng Cộng sản cầm quyền đối với
nền kinh tế thị trƣờng XHCN, Nhà nƣớc pháp quyền XHCN và xã hội giàu mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh ở nƣớc ta. Cụ thể định nghĩa XHDS của dự án này là:
“Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay
nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”8.
Theo chúng tôi, phải thừa nhận đây là một định nghĩa có nhiều ƣu điểm; rõ nhất là
nó xác định phạm vi của XHDS là giữa Nhà nƣớc, gia đình, thị trƣờng và không
gợn lên sự phân cách giữa các yếu tố đó của đời sống xã hội; nói cách khác, nó nhìn
nhận ranh giới giữa các yếu tố đó là mờ nhạt. Nhƣng cũng chính ở điểm này đã dẫn
đến vấn đề: Cái lĩnh vực giữa gia đình, Nhà nƣớc và thị trƣờng phải chăng là một
“khoảng trống” hay khu vực “chân không” của những diễn đàn rất dễ rơi vào trạng
thái tự phát, vô chính phủ; và do đó, liệu có thể “bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi
chung” nhƣ định nghĩa này mong đợi.
Trong khi đó, ở luận văn thạc sĩ chính trị học bàn về “Xã hội công dân trong lịch sử
tƣ tƣởng chính trị phƣơng Tây”, (Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội 2005) có
quan niệm: “Xã hội công dân là lĩnh vực đời sống xã hội được tổ chức một cách tự
nguyện, tự trị, tự quản, tự chủ, độc lập với Nhà nước và được ràng buộc bởi nội quy
hoặc hệ thống những luật lệ chung”9. Quan niệm xã hội công dân “độc lập với Nhà
nƣớc” là không chính xác, đặc biệt trong trƣờng hợp Việt Nam; hơn nữa, đã độc lập
“thì không thể hoặc khó có thể” đƣợc ràng buộc bởi hệ thống những luật lệ chung
nhƣ định nghĩa xác định.
Xem thế đủ thấy rằng, vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng XHDS ở nƣớc ta
hiện nay còn không ít khía cạnh phải tiếp tục trao đổi và giải quyết. Chính vì vậy,
đề tài này cần thiết phải đƣợc thực hiện dƣới góc độ chính trị - xã hội, để với chức
năng của Học viện CTQG Hồ Chí Minh phải xác định đƣợc những quan điểm xây
dựng XHDS trong điều kiện một Đảng cộng sản cầm quyền ở nƣớc ta hiện nay; xây
dựng cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết vấn đề XHDS trong mối quan hệ với nhà
nƣớc pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.
Đối với hoạt động thông tin khoa học trong các tổ chức dân sự giai đoạn gần đây,
các nhà khoa học đã tiến hành các đề tài:
TS Hoàng Ngọc Kim (Chủ nhiệm đề tài), Thông tin khoa học với việc tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng hiện nay - Các chuyên đề, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,
2003. Báo cáo gồm 16 chuyên đề nghiên cứu về tổ chức thực hiện Nghị quyết của
Đảng nói chung xét trên quan điểm thông tin học nói riêng. Nêu mối quan hệ giữa
hoạt động thông tin khoa học với việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng
những năm qua. Vai trò của thông tin khoa học trong tổ chức thực hiện các Nghị
quyết của Đảng qua một số địa bàn nhƣ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, khu vực miền
Trung, Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, đƣa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo cho
thông tin khoa học phục vụ quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng
TS Phạm Hữu Tiến (Chủ nhiệm đề tài), Lại Văn Toàn; Nguyễn Hữu Hùng; Hoàng
Ngọc Kim, Thông tin học với đối tƣợng đào tạo hệ cử nhân chính trị tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Tuyển tập chuyên đề, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 2002. Đề tài nêu sự hình thành, vai trò và nội dung cơ bản của thông tin học;
Phân tích thực trạng việc giảng dạy và học tập bộ môn thông tin học ở nƣớc ta và
8
Xem Viện những vấn đề phát triển (VIDS): Dự án CIVICUS, tlđd tr.9.
Bùi Việt Hƣơng : Xã hội công dân trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị phƣơng Tây, luận văn thạc sĩ Khoa học
chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội 2005, tr.4.
9
nhu cầu về thông tin học của hệ cử nhân chính trị ở Học viện những năm qua. Xây
dựng môn thông tin học vào chƣơng trình đào tạo của Học viện. Đề xuất một số giải
pháp xây dựng bộ môn thông tin học.
TS Trƣơng Văn Tú (Chủ nhiệm đề tài), TS Lê Văn Năm; TS Bùi Khắc Sơn, TS
Nguyễn Ngọc Thúy, Đoàn Quốc Tuấn; Nguyễn Văn Thƣ; Nguyễn Hồng Anh với đề
tài Xây dựng hệ thống thông tin học hóa phục vụ quản lý doanh nghiệp Việt nam
hiện nay, Trƣờng ĐH Kinh tế quốc dân. Phân loại những lý luận cơ sở về hệ thống
thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp. Phƣơng pháp tính toán và đánh giá hiệu
quả kinh tế của hệ thống thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp. Hệ thống các
nguyên tắc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp. Hệ thống
chỉ tiêu thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp ở Việt Nam. Các phƣơng pháp tính
toán các chỉ tiêu thông tin quản lý doanh nghiệp. Hệ thống các chƣơng trình máy
tính dự báo cung cầu theo phƣơng pháp bình phƣơng tối thiểu hai giai đoạn. Hệ
quản lý tiêu thụ và hệ quản lý nguyên vật liệu
Phạm Văn Vu, (Chủ nhiệm đề tài), Mạng thông tin tin học hóa về giáo dục, nghiên
cứu và triển khai - VARDNET,Hà nội: Ban Chỉ đạo Chƣơng trình quốc gia về công
nghệ thông tin, 1995. Đề tài đã xây dựng mô hình thử nghiệm trên máy vi tính
mạng tra cứu thông tin và dịch vụ E - mail vốn quốc tế và đƣa ra kiến nghị một đề
án mạng lƣới thông tin máy tính diện rộng, mạng thông tin kinh tế - khoa học - công
nghệ và môi trƣờng Việt Nam - VESTENET.
Có thể thấy, các đề tài đã triển khai trên dù theo hƣớng nào thì cũng có một đặc
điểm chung, đó là tập trung sự quan tâm đến hoặc là các vấn đề về XHDS hoặc là
các vấn đề về hoạt động thông tin khoa học. Chƣa có tác giả nào tìm hiểu về hoạt
động thông tin trong các tổ chức dân sự.
3.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về XHDS và hoạt động thông tin khoa học - công
nghệ trong các tổ chức dân sự mà cụ thể ở đây là Liên hiệp các hội khoa học và kỹ
thuật Việt Nam, luận văn nhận diện thực trạng hoạt động, và đề xuất giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động thông tin khoa học - công nghệ tại các tổ chức dân sự ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về XHDS và hoạt động thông tin khoa học - công
Formatted: Bullets and Numbering
nghệ trong tổ chức dân sự
-
Đánh giá thực trạng hoạt động thông tin khoa học - công nghệ trong các
tổ chức dân sự
-
Đề xuất những giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lƣợng hoạt động
thông tin khoa học – công nghệ của các tổ chức dân sự.
II.4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trên địa bàn thành phố Hà Nội
Formatted: Bullets and Numbering
-
Phạm vi thời gian: từ 2008 đến 2010
III.4. Mẫu khảo sát
- Khảo sát đối với Cơ quan hoạt động trong lĩnh vực thông tin khoa học –
Formatted: Bullets and Numbering
công nghệ của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
-
Các văn bản chính sách pháp luật liên quan đến lĩnh vực thông tin khoa
học – công nghệ và lĩnh vực quản lý các tổ chức dân sự
IV.5. Vấn đề nghiên cứu
Formatted: Bullets and Numbering
Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả quản lý các tổ chức dân sự hoạt động trong lĩnh vực
thông tin khoa học – công nghệ?
V.6. Giả thuyết nghiên cứu
Formatted: Bullets and Numbering
Hợp thức hóa hoạt động của các tổ chức dân sự bằng văn bản pháp luật có thể
thúc đấy hoạt động thông tin khoa học - công nghệ tại các tổ chức dân sự tổ chức này
hoạt động mọi mặt hiệu quả hơn.
Ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin có thể nâng cao hiệu quả hoạt
động thông tin khoa học - công nghệ tại các tổ chức dân sự tại Việt Nam.
VI.7. Phương pháp chứng minh
- Phương pháp luận:
Formatted: Bullets and Numbering
Đề tài nghiên cứu dựa trên nền tảng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, cách tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử, các quan điểm phát triển hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp phân tích tài liệu
Thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn tài liệu trong nƣớc và quốc tế khác nhau liên
quan đến đề tài nghiên cứu, phân tích, làm rõ các vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận,
phƣơng pháp luận và những vấn đề thực tiễn mà đề tài đặt ra.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu
Để làm rõ những vấn đề chuyên sâu trong nội dung nghiên cứu, đề tài dự kiến sẽ tiến hành
phỏng vấn sâu, lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách,
những ngƣời làm công tác quản lý hoạt động thông tin khoa học – công nghệ thông qua các
tổ chức dân sự.
+Phương pháp quan sát
Phƣơng pháp quan sát đƣợc kết hợp trong quá trình phỏng vấn, nhận diện thái độ hành vi
của nhóm đối tƣợng nghiên cứu, kiểm tra tính trung thực của thông tin, minh họa thêm cho
quá trình thực hiện nghiên cứu.
Formatted: Bullets and Numbering
VII.8. Luận cứ
Luận cứ lý thuyết: lý thuyết quản lý, lý thuyết truyền thông, lý thuyết thông tin…
Luận cứ thực tiễn: các số liệu báo cáo về tình hình phát triiển của các tổ chức dân sự tham
gia hoạt động thông tin khoa học – công nghệ, số liệu thống kê, số liệu điều tra…
9. Kết cấu của luận văn
LUẬN VĂN BAO GỒM NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH NHƢ SAU:
Phần mở đầu, 3 chƣơng, phần kết luận và khuyến nghị, phần phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo.
- Phần mở đầu
Chƣơng 1: XHDS và hoạt động thông tin khoa học – công nghệ trong các tổ chức
dân sự
1.1.1.1 XHDS
1.1.1.1.1.1 Khái niệm
1.1.2.1.1.2 Bản chất của XHDS
1.1.3 Đặc điểm của XHDS
1.1.4 Chức năng của XHDS
1.1.3.1.1.5 Quá trình hình thành XHDS ở Việt Nam
1.2.1.2 Hoạt động thông tin khoa học – công nghệ trong các tổ chức dân sự
1.2.1 Thông tin
1.2.1.1.2.2 Thông tin khoa học – công nghệ
1.2.2.1.2.3 Hoạt động thông tin khoa học – công nghệ
1.3.1.2.4. Hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin khoa học của các tổ chức
dân sự
1.3 Vai trò của thông tin KH-CN trong giai đoạn hiện nay
1.4 Yêu cầu về nguyên tắc trong hoạt động thông tin KH-CN
1.4.1 Coi thông tin là hàng hóa
1.4.2 Quyền tiếp cận và truy cập thông tin là quyền cơ bản của mọi tổ chức,
mọi thành phần xã hội, mọi tầng lớp dân cƣ
1.4.3 Coi tổ chức dân sự là một tác nhân gắn kết giữa hệ thống thông tin khoa
học - công nghệ quốc gia và đối tƣợng sử dụng thông tin
1.4.4 Xã hội hóa thông tin khoa học - công nghệ và hoạt động thông tin khoa
học - công nghệ
1.4.5 Coi thông tin là tiền đề nhằm tiến tới xã hội thông tin và xã hội tri thức,
khẩn trƣơng ban hành và thực thi Luật tiếp cận thông tin
2.Chương 2: Thực trạng hoạt động thông tin khoa học – công nghệ của VUSTA
2.1. Bối cảnh mới và những thách thức của hoạt động thông tin khoa học - công
nghệ
2.1.1 Bối cảnh mới của hoạt động thông tin khoa học - công nghệ
2.1.2 Nhiệm vụ của VUSTA tham gia hoạt động thông tin khoa học – công
nghệ
2.1.3 Thách thức đối với VUSTA khi tham gia hoạt động thông tin khoa học –
công nghệ
2.2. Nhận diện bƣớc đầu về kết quả hoạt động thông tin khoa học – công nghệ tại
VUSTA
2.2.1 Hình thức hoạt động thông tin khoa học - công nghệ
2.2.2 Nội dung hoạt động thông tin khoa học – công nghệ của VUSTA
Chương 3: Xu hướng phát triển và những giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
động thông tin khoa học – công nghệ của các tổ chức dân sự
3.1 Xu hƣớng phát triển của hoạt động thông tin khoa học - công nghệ
3.2 Những giải pháp thúc đẩy hoạt động thông tin khoa học – công nghệ
trong các tổ chức xã hội dân sự
- Phần kết luận và khuyến nghị
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ
HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
TRONG CÁC TỔ CHỨC DÂN SỰ
1.1. Xã hội dân sự
1.1.1 Khái niệm
Từ trƣớc đến nay, khái niệm XHDS có 2 cách thể hiện là “xã hô ̣i công dân” (Citizen
Society) và “xã hô ̣i dân sƣ̣” (Civil Society).
Trong các tài liệu khoa học Anh - Mỹ, thuật ngữ “Citizen Society” không đƣợc
dùng nhƣ một khái niệm phổ biến. Điều này đƣợc quy định bởi tính độc lập, không
phụ thuộc vào Nhà nƣớc của các tổ chức công dân tại các quốc gia phát triển.
Trong khi đó, ở các nƣớc châu Á, một số nƣớc Đông Âu, Bắc Âu do thể chế chính
trị quy định nên các tổ chức đƣợc coi là dân sự không độc lập hoàn toàn với Nhà
nƣớc. Ranh giới giữa 2 khái niệm này trở nên không rõ rệt nhƣ ở các nƣớc tƣ bản
phát triển. Vì vậy, dẫn đến việc các nƣớc này, trong đó có Việt Nam, sử dụng cả hai
cách gọi XHCD hay XHDS để chỉ các tổ chức mang tính dân sự.
Thực tế, ở Việt Nam đến nay chƣa có một văn bản pháp lý nào trực tiếp đƣa ra định
nghĩa về XHDS hay XHCD. Tuy nhiên, dù vẫn đƣợc diễn đạt theo hai cách nhƣng
hiện nay khuynh hƣớng sử dụng XHDS trở nên phổ biến hơn. Theo đánh giá của
Liên minh Thế giới Vì sự tham gia của công dân - CIVICUS, trƣờng hợp tƣơng tự
cũng diễn ra ở nhiều nƣớc khác.
Nghiên cứu này thống nhất sử dụng cả hai cách gọi trên để chỉ XHDS.
Một số điểm khác biệt cơ bản giữa 2 khái niệm:
XÃ HỘI CÔNG DÂN
-
XÃ HỘI DÂN SỰ
Là một khái niệm pháp lý luôn gắn - Là một khái niệm mở, không chỉ gắn
liền với khái niệm Nhà nƣớc pháp với Nhà nƣớc mà còn gắn với khu vực
quyền.
gia đình và tƣ nhân.
- Biểu thị mặt đối lập biện chứng của
-
Biểu thị mặt đối lập biện chứng của
khái niệm nhà nƣớc pháp quyền
khái niệm chính trị xã hội - một khái
niệm rộng hơn rất nhiều so với khái
niệm nhà nƣớc pháp quyền.
-
Chủ yếu biểu thị cộng đồng xã hội, - Không những dùng để chỉ cộng đồng
bao gồm tất cả các công dân (từ 18 hoặc XHCD với tƣ cách pháp nhân do Nhà
21 tuổi trở lên) tồn tại với tƣ cách pháp nƣớc quy định, mà còn dùng để chỉ tất
nhân trong một quốc gia dân tộc nhất cả mọi ngƣời và mọi tổ chức, mọi nhóm
định; các pháp nhân khác nhƣ tổ chức xã xã hội tồn tại và hoạt động trong cộng
hội, tổ chức cộng đồng, tổ chức tôn đồng..
giáo…bao giờ cũng là những thể tập hợp
pháp nhân của công dân.
Nhƣ vậy, khái niệm XHDS rộng hơn khái niệm XHCD.
Khái niệm XHDS đã đƣợc các triết gia thời kỳ Khai Sáng ở Âu châu sử dụng. Các
tƣ tƣởng gia nhƣ Hobbes, Locke, Rousseau dùng XHDS (civil society) để chỉ một
trạng thái xã hội khi con ngƣời đã bắt đầu sống quần tụ với nhau, khác với trạng
thái thiên nhiên (state of nature). Xã hội càng phát triển thì lại càng nẩy nở thêm
nhiều sắc thái và bộ phận khác nhau. Do đó, các nhà tƣ tƣởng thuộc thế kỷ 19 và thế
kỷ 20 nhƣ Hegel, Marx, Gramsci, Diamond đều có những khái niệm không giống
nhau, và không thể thống nhất về một định nghĩa cho XHDS. Tuy nhiên, các học
giả thuộc thế kỷ 20 đều đồng ý: XHDS là sự hiện hữu của một lãnh vực công nằm
giữa nhà nƣớc, thị trƣờng, và cá nhân. Chính trong lãnh vực công này
(Publicsphere) mà các công dân hoạt động "nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tƣ
tƣởng, trao đổi thông tin, thực hiện các mục tiêu chung có tính chất tƣơng hỗ, kiến
nghị với nhà nƣớc và buộc các viên chức nhà nƣớc phải chịu trách nhiệm trong
công vụ".
"XHDS là khái niệm xuất hiện sớm nhất ở nƣớc Anh (1594). Nó đƣợc hiểu là
những con ngƣời sống trong cộng đồng. Sau đó, khái niệm này có hai nghĩa. Trong
lý thuyết của các nhà triết học Scottish (thế kỷ XVIII), XHDS có nghĩa là xã hội
văn minh với một Nhà nƣớc không độc đoán. Đến thế kỷ XIX, ở nƣớc Đức, trong
các trƣớc tác chính trị của Hêgen, thuật ngữ XHDS phân biệt với Nhà nƣớc. Hêgen
mô tả XHDS nhƣ là một phần của đời sống đạo đức, bao gồm ba yếu tố gia đình,
XHDS và Nhà nƣớc, khái niệm hàm nghĩa lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó các cá
nhân theo đuổi những lợi ích riêng trong giới hạn đã đƣợc pháp luật thừa nhận. Nhà
triết học này nhấn mạnh rằng, một XHDS tự tổ chức cần phải do Nhà nƣớc cân
nhắc và đặt trật tự cho nó, nếu không xã hội đó sẽ trở thành tƣ lợi và không đóng
góp gì cho lợi ích chung.
Xét về những điều kiện lịch sử của XHDS, nó có thể đƣợc coi là một thành quả của
sự phát triển lịch sử nhân loại. XHDS xuất hiện lần đầu tiên tại một số nơi ở châu
Âu vào cuối thế kỷ XVIII. Các giai cấp trung lƣu mới cùng với giới hữu sản đang
thƣơng mại hóa, đòi hỏi những điều kiện khuyến khích sự phát triển của tích luỹ tƣ
nhân, trong khi Nhà nƣớc vẫn duy trì trật tự và tính ổn định hợp pháp nhƣng không
còn có thể áp đặt những trật tự tôn giáo trung cổ. Đây là giai đoạn Nhà nƣớc phát
triển mạnh để duy trì luật pháp và trật tự mới dựa trên những nguyên lý của triết học
Khai sáng.
Bốn nguyên lý sau của triết học Khai sáng đƣợc coi là gắn liền với sự xuất hiện của
XHDS trong thời đại này:
- Sự thay thế cái siêu nhiên bằng tự nhiên, tôn giáo bằng khoa học, quyết định của
thần thánh bằng quy luật của tự nhiên.
- Đề cao vai trò của lý tính dựa trên kinh nghiệm, coi đó là công cụ giải quyết các
vấn đề xã hội.
- Lòng tin vào tính thiện của con ngƣời và do đó, vào tiên bộ của nhân loại.
- Sự quan tâm tới những quyền con ngƣời, đặc biệt là quyền tự do.
Từ quan điểm này, các nhà triết học Khai sáng nhìn XHDS nhƣ là một sự thay thế
về mặt xã hội cho trạng thái tự nhiên, cho việc đề cao tính cá nhân và tinh thần hiệp
hội đang nổi lên ở thời kỳ đó.
Khái niệm XHDS còn đƣợc đặc trƣng bằng tinh thần cộng đồng. Các nhà xã hội
học, đặc biệt là Tocqueville, coi nƣớc Mỹ thế kỷ XIX là điển hình về mặt này. Giải
thích về tinh thần hiệp hội ở Mỹ thế kỷ XIX, giới phân tích nhấn mạnh vào sự tự
nguyện, tinh thần cộng đồng và đời sông hiệp hội độc lập nhƣ là những cơ chế đảm
bảo sự cố kết xã hội đặc thù tại một xã hội đa sắc tộc. Sự tự nguyện và tinh thần
cộng đồng của các công dân theo nghĩa đó là đặc trƣng cho "bản chất" của khu vực
dân sự và nó góp phần vào họat động có hiệu quả của Nhà nƣớc. Về sau này, nhiều
phân tích đều nhấn mạnh tới tính đặc thù này và coi đó là cái tạo nên sự năng động
của xã hội Mỹ.
Khái niệm XHDS:
Định nghĩa của Liên minh Thế giới Vì sự tham gia của công dân:
XHDS là “Diễn đàn giữa gia đình, nhà nƣớc và thị trƣờng, nơi mà mọi con ngƣời
bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung” (CIVICUS 2005).
Định nghĩa này khác với hầu hết các khái niệm XHDS ở phƣơng Tây:
- Thứ nhất, nó thể chế hóa, ghi nhận các điều kiện và các nhóm không chính thống
trong XHDS.
- Thứ hai, XHDS đƣợc coi là một “diễn đàn”, một không gian nơi mà mọi ngƣời có
thể đến với nhau và tìm cách gây ảnh hƣởng với xã hội lớn hơn. Hơn nữa, ngƣời ta
nhận thấy rằng các ranh giới giữa XHDS, thị trƣờng, Nhà nƣớc và gia đình là mờ
nhạt.
- Thứ ba, khái niệm này căn cứ theo “chức năng” hơn là theo “hình thức” tổ chức.
Trong bối cảnh Việt Nam, cách tiếp cận nhƣ của CIVICUS là bổ ích cho việc phân
biệt giữa các tổ chức quần chúng trong vai trò thực hiện các chính sách của Đảng và
các hoạt động ở cấp cơ sở nơi mà mọi ngƣời hỗ trợ nhau trong cuộc sống và các
hoạt động văn hóa. Cuối cùng, định nghĩa của CIVICUS bỏ ngỏ khả năng cho sự
khác biệt giữa các địa phƣơng do tính cởi mở của tổ chức này. Thay vào đó nó cho
rằng XHDS không có điều gì khác biệt hơn chính bản thân nó, làm cho nó ít thiên
về phƣơng Tây hơn so với hầu hết các định nghĩa về XHDS, và không gây ra đối
đầu giữa Nhà nƣớc và XHDS. Tại Việt Nam, Nhà nƣớc có vai trò quan trọng hơn
đối với các CSO so với nhiều nƣớc khác, ranh giới giữa XHDS và Nhà nƣớc chắc
chắn là không rõ ràng, nhƣng ranh giới giữa XHDS liên quan đến gia đình và thị
trƣờng cũng mờ nhạt.
Theo Viện Những vấn đề Phát triển Việt Nam - VIDS:
Tổ chức dân sự là các tổ chức xã hội nằm ngoài nhà nƣớc, nằm ngoài các hoạt động
của doanh nghiệp (thị trƣờng), nằm ngoài gia đình để liên kết ngƣời dân với nhau vì
mục đích chung.
Thành phần quan trọng của tổ chức dân sự là các hội, hiệp hội trong dân chúng,
trong làng xóm, mang tính chất liên kết cộng đồng. Theo đó thì ở Việt Nam, MTTQ
là CSO lớn nhất, bao gồm các đoàn thể (công đoàn, phụ nữ, thanh niên, nông
dân…), hội nghề nghiệp, các NGO…
Mặt khác có thể coi XHDS là diễn đàn, là nơi mọi ngƣời bắt tay nhau để thúc đẩy
quyền lợi chung. XHDS hỗ trợ ngƣời dân thực thi luật pháp, đồng thời phản ánh
nguyện vọng ngƣời dân. Nếu thể chế nhà nƣớc hoạt động dựa vào luật, thể chế thị
trƣờng hoạt động dựa vào lợi nhuận thì XHDS vẫn tuân theo pháp luật, tuân theo thị
trƣờng, nhƣng thúc đẩy khía cạnh đạo đức, khai thác tính nhân văn, tính cộng đồng.
Cách hiểu khái niệm tổ chức dân sự sử dụng trong luận văn:
Nhƣ vậy, các định nghĩa phổ biến về " tổ chức dân sự” hiện nay đều nhấn mạnh tới
tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá
trị của mình. Theo tinh thần này, tổ chức dân sự đƣợc tạo thành bởi một loạt các
đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại (công đoàn và các đoàn
thể có tính chuyên nghiệp) và những tổ chức truyền thống dựa trên mối quan hệ họ
hàng, dân tộc, văn hóa và khu vực, giữa các tổ chức chính thức và phi chính thức.
Những đoàn thể tự nguyện làm việc vì quyền lợi chung. Chúng định hình thành và
khuyến khích phát triển bởi các cộng đồng địa phƣơng. Nói một cách đơn giản, các
tổ chức dân sự thể hiện nguyện vọng và nhu cầu của ngƣời dân. Ngƣời dân tự tổ
chức lại căn cứ theo các nhu cầu, nguyện vọng hay tín ngƣỡng chung và thể hiện
thành các loại hình họat động.
Kế thừa những hạt nhân cơ bản của các định nghĩa và khái niệm trên, bản chất của
tổ chức dân sự hiểu một cách chung nhất: bao gồm tổng thể các tổ chức xã hội và
các mối quan hệ xã hội đƣợc hình thành theo nguyên tắc tự nguyên, tự quản trong
khuôn khổ pháp lý và đạo lý, độc lập tƣơng đối với nhà nƣớc nhằm bảo vệ lợi ích
của mỗi ngƣời dân và của toàn xã hội.
1.1.2 Bản chất của XHDS
Khi bàn về bản chất của XHDS, một mặt, C.Mác cho rằng bản chất của con
ngƣời là ích kỷ, tƣ lợi. Nhƣng mặt khác, ông khẳng định rằng con ngƣời cũng mang
bản chất cộng đồng và chính bản chất cộng đồng này mới là cấu thành nên bản chất
thật sự của XHDS. C.Mác khẳng định: “Rốt cuộc, con ngƣời với tƣ cách là thành viên
của XHCD, có nghĩa là con ngƣời theo đúng nghĩa của nó, đó là homme khác biệt với
citoyen, bởi vì nó là con ngƣời trong sự tồn tại cảm tính, cá nhân, trực tiếp của nó, còn
con ngƣời chính trị thì chỉ là con ngƣời trừu tƣợng, nhân đạo, con ngƣời với tƣ cách là
nhân vật ẩn dụ, nhân vật pháp lý”10. Và “Kỳ thực, chỉ với tƣ cách pháp nhân, tức hội,
gia đình v.V.. Thì con ngƣời trừu tƣợng mới nâng con ngƣời của mình lên tới trình độ
sự tồn tại chân chính”11. Một khi vấn đề công dân trở thành vấn đề chung của mỗi cá
nhân, và chức năng chính trị trở thành chức năng chung của các cá nhân, XHDS đƣợc
giải phóng khỏi chính trị - cùng lúc đó tính ích kỷ ràng buộc, cản trở XHDS đƣợc xoá
bỏ.
10
11
C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, H., tr.556.
Sđd, tr.557.
- Xem thêm -