Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động ngoại giao văn hóa của đảng và nhà nước việt nam từ 1986 đến năm 2009...

Tài liệu Hoạt động ngoại giao văn hóa của đảng và nhà nước việt nam từ 1986 đến năm 2009

.PDF
132
66
62

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi Vµ nh©n V¨n ******** TrÇn thÞ thuý hµ Ho¹t ®éng ngo¹i giao v¨n ho¸ cña ®¶ng vµ nhµ n-íc viÖt nam tõ n¨m 1986 ®Õn n¨m 2009 luËn v¨n th¹c sÜ CHUY£N NGµNH: LÞCH Sö §¶NG M· sè : 60 22 56 Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS. ph¹m quang minh Hà Nội - 2010 1 MỤC LỤC Nội dung Trang MỤC LỤC 1 DANH MỤC CHỨ VIẾT TẮT 3 MỞ ĐẦU 4 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ VÀ NGOẠI GIAO VĂN HOÁ 10 1.1. Văn hoá - giao lưu văn hoá – cốt lõi của ngoại giao văn hoá 10 1.1.1. Văn hoá 10 1.1.2. Giao lưu văn hoá 14 1.1.3. Ngoại giao 15 1.2. Ngoại giao văn hoá 17 1.2.1. Khái niệm ngoại giao văn hoá 17 1.2.2. Nội hàm của ngoại giao văn hoá 20 1.2.3. Vai trò của ngoại giao văn hoá 21 Tiểu kết chương 1 24 Chương 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HOÁ CỦA 25 ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2009 2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động tới sự thay đổi quan điểm đối 25 ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam 2.1.1. Bối cảnh quốc tế 25 2.1.2. Bối cảnh trong nước 30 2.2. Quan điểm chỉ đạo về ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ 33 năm 1986 đến năm 2009 2.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về ngoại giao văn hoá từ năm 1986 đến năm 2009 2 33 2.2.2. Chủ trương của Bộ Ngoại giao về ngoại giao văn hoá 2.3. Thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hoá Việt Nam từ năm 1986 đến năm 39 44 2009 2.3.1. Công tác thông tin tuyên truyền 47 2.3.2. Xây dựng các cơ sở, công trình văn hóa, lịch sử Việt Nam ở nước ngoài 51 2.3.3. Tham gia các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ 51 thuật trong và ngoài nước 2.3.4. Kết hợp các hoạt động ngoại giao văn hóa với các hoạt động đối ngoại 55 2.3.5. Xây dựng thông điệp và thương hiệu quốc gia 56 2.3.6. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài 57 2.3.7. Quan hệ với UNESCO và các thể chế hợp tác quốc tế khác về văn hóa 59 2.3.8. Quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè quốc tế thông qua các hoạt 61 động du lịch 2.4. Dấu ấn Năm ngoại giao văn hoá 2009 64 Tiểu kết chương 2 67 Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU 69 3.1. Một số thành tựu của hoạt động ngoại giao văn hoá 69 3.2. Một số hạn chế của hoạt động ngoại giao văn hoá 70 3.3. Một số kinh nghiệm chủ yếu đối với hoạt động Ngoại giao văn hoá 76 3.3.1. Một số nhiệm vụ cụ thể 76 3.3.2. Xây dựng cơ chế, chính sách, định hướng phù hợp 78 3.3.3. Tăng cường công tác đào tạo cho đội ngũ cán bộ chuyên môn 79 3.3.4. Tăng cường chất lượng của các hoạt động ngoại giao văn hóa 81 3.3.5. Tiếp tục nâng cao hiệu quả của các hoạt động thông tin, tuyên truyền 83 3.3.6. Khai thác hiệu quả tiềm năng ngoại giao văn hoá đối với cộng đồng 85 người Việt Nam ở nước ngoài 3.3.7. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động ngoại giao văn hóa 85 3.3.8. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu 87 3.3.9. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức cộng đồng về 87 ngoại giao văn hoá 3 Tiểu kết chương 3 89 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC 99 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ACCD ASEAN ASEM APEC BCHTW Advisory Committee of Cultural Diplomacy Ủy ban tư vấn về Ngoại giao văn hóa Association of South - East Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á The Asia - Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á-Âu Asia - Pacific Economic Co-operation Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương Ban Chấp hành Trung ương CNXH Bureau International Exhibiton Tổ chức triển lãm thế giới Cable News Network Mạng tin tức truyền hình cáp Chủ nghĩa xã hội CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá CNTB Chủ nghĩa Tư bản IFACCA PGS The International Federation Arts Councils and Culture Agencies Liên đoàn quốc tế các hội đồng nghệ thuật và quản lý văn hóa Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài The Indian Council for Cultural Relations Hội đồng giao lưu văn hoá Ấn Độ National Broadcasting Company Công ty phát thanh quốc gia International Network on Cultural Policy Mạng lưới chính sách văn hóa quốc tế New Economic Policy Chính sách kinh tế mới Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức Phó giáo sư PGS.TSKH Phó giáo sư. Tiến sĩ khoa học BIE CNN FDI ICCR NBC INCP NEP ODA 4 UNESCO VOA WTO XHCN United nation educational, scientific and cultural Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên Hợp Quốc Voice of America Đài tiếng nói Hoa Kỳ World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nếu tra cứu cụm từ “ngoại giao văn hoá” bằng công cụ tìm kiếm Google, chúng ta sẽ có kết quả khoảng 12.800.000 đơn vị tài liệu liên quan. Con số đó sẽ là 345.000 đối với cụm từ ngoại giao văn hoá bằng tiếng Anh (Cultural Diplomacy). Có thể thấy rằng, trong thời đại ngày nay có rất nhiều mối quan tâm dành cho ngoại giao văn hoá. Quan tâm đến lĩnh vực này không chỉ riêng các chính phủ, mà còn của cả cộng đồng, mỗi cá nhân trong xã hội. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Ngoại giao văn hóa là một trụ cột của nền ngoại giao hiện đại Việt Nam trong bối cảnh mới. Năm 2009, năm mà ngành ngoại giao xác định là Năm ngoại giao văn hóa để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của công tác này. Quán triệt tinh thần đó, Việt Nam chủ trương sẽ phối hợp chặt chẽ ngoại giao nhà nước với đối ngoại của Đảng và ngoại giao nhân dân, đẩy mạnh nền ngoại giao toàn diện với việc triển khai chủ động, hài hòa, có trọng tâm, trọng điểm và gắn kết chặt chẽ các hoạt động ngoại giao. Năm 2006, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 25 đã thống nhất và đi vào triển khai đồng bộ chính sách ngoại giao Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa. Trong đó, ngoại giao văn hóa đóng vai trò là nền tảng tinh thần, biện pháp, nội dung và mục tiêu của chính sách đối ngoại Việt Nam, hỗ trợ cho ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế để tạo thành một tổng thể chính sách, phát huy tốt nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Từ đó đến nay, công tác ngoại giao văn hoá đã đạt được một số kết quả quan trọng bước đầu, khẳng định vị trí và vai trò của mình trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 5 Trong hai ngày 15 và 16 tháng 10 năm 2008, Hội thảo Quốc gia: “Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững” đã được tổ chức tại Hà Nội. Tại hội thảo này, nhiều ý kiến nhất trí cho rằng, ngoại giao văn hoá là một hoạt động đối ngoại đặc thù, đã và đang góp phần giới thiệu, tuyên truyền về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Vị thế của Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây. “Việt Nam đất nước an toàn và bình yên nhất” là lời của nhiếp ảnh gia người Nga Sergei Kovalchuk trong cuốn album ảnh Cửa sổ nhìn vào Đông Dương gồm 150 bức ảnh được chọn từ hơn 10.000 bức ảnh về Việt Nam và Campuchia mới được phát hành. Không phải không có căn cứ mà Việt Nam được lựa chọn là nơi tổ chức không ít những hội nghị cấp cao của khu vực và thế giới: Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (1997), Hội nghị cấp cao ASEAN 6 (12/1998), lễ kết nạp Campuchia vào ASEAN (4/1999), Hội nghị ASEM 5 (10/2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 (11/2006), và nhiều hội nghị của ASEAN (2010) khi Việt Nam đảm nhận trọng trách chủ tịch ASEAN.... Qua đó, Việt Nam đã chứng tỏ cho bạn bè quốc tế biết đến Việt Nam, một đất nước hoà bình, đây là một thành công không nhỏ của chính sách đối ngoại, trong đó có những đóng góp của ngoại giao văn hoá. Tuy nhiên, có thể thấy rằng ngoại giao văn hoá là một nội dung rất mới, không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách, mà còn đối với cả giới nghiên cứu, các nhà hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và đông đảo những người quan tâm. Ngoại giao văn hóa là gì? Hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam được thực hiện như thế nào trong thời gian qua? Làm thế nào để phát triển hơn nữa ngoại giao văn hóa, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế? v.v Đây là những lý do chính để em chọn “Hoạt động Ngoại giao văn hoá của Đảng và nhà nước Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2009” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình. 2. LÞch sö nghiên cứu vÊn đề 6 Ở Việt Nam, nhìn chung những công trình của các nhà nghiên cứu về ngoại giao Việt Nam có một số lượng không nhỏ, nhưng lại chủ yếu đề cập đến ngoại giao nói chung hoặc ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị. Số các công trình về ngoại giao văn hoá còn khiêm tốn. Trong số đó phải kể đến cuốn “Đối thoại liên văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây” của tác giả Hữu Ngọc. Một số bài viết, bài phát biểu của các nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu ngoại giao, nghiên cứu văn hoá trình bày trong Hội thảo quốc gia: “Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững” được tổ chức trung tuần tháng 10 năm 2008, tại Hà Nội. Bên cạnh đó là một số bài của tác giả Vũ Dương Huân được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu quốc tế những năm gần đây. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu, có ý nghĩa gợi mở cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn sau này. Bên cạnh đó còn có các công trình khác viết về ngoại giao Việt Nam trong các thời kỳ. Các công trình này đã tập trung chủ yếu về chính sách và các hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong những khoảng thời gian tương ứng. Tuy nhiên ngoại giao Việt Nam thời kỳ chiến tranh chủ yếu là vấn đề quân sự, chính trị; đến thời hoà bình thì hàm lượng kinh tế đã tăng lên trong các hoạt động đối ngoại, hợp tác. Đây đó trong các công trình này cũng đã đề cập đến những quan điểm của ngoại giao Việt Nam về văn hoá dân tộc, về phong cách tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tầm quan trọng của giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Gần đây nhất, năm 2009, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành cuốn Ngoại giao và công tác ngoại giao của Vũ Dương Huân trình bày những nội dung liên quan đến ngoại giao và công tác ngoại giao, trong đó dành 1 chương nói về ngoại giao văn hoá. Như vậy, ngoại giao văn hoá vẫn còn là một đề tài mới cần được tiếp tục nghiên cứu trong tương lai. Ở nước ngoài, mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng trong thực tiễn ngoại giao của mình mỗi quốc gia đều đã thực thi những hoạt động mang tính chất ngoại giao văn hoá dưới nhiều hình thức, với nội dung phong phú. Ngoại giao văn hoá cũng đã là chủ đề nghiên cứu của nhiều học giả, trong số đó phải kể đến những 7 bài viết liên quan đến Ngoại giao văn hoá của CAC (Center for Art and Culture, thành lập năm 2003 thuộc Central European University), ICD (Institute for Cultural Diplomacy - thành lập năm 1999, trụ sở tại Berlin), hay cuốn Ngoại giao văn hoá của Lý Trí (Trung Quốc)… Tổ chức CAC được thành lập nhằm mục đích khuyến khích các nghiên cứu, phát triển các môn học thuộc lĩnh vực nghệ thuật, văn hoá, ngoại giao văn hoá ... còn IDC là một tổ chức quốc tế hoạt động với mục đích góp phần xây dựng và phát triển hoà bình thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trao đổi văn hoá quốc tế, nhấn mạnh đến các nghiên cứu về ngoại giao văn hoá. Ngoài ra, một số bài viết về ngoại giao văn hoá như: Cultural Diplomacy The Linchpin of Public Diplomacy của Uỷ ban tư vấn về ngoại giao văn hoá Mỹ (2005); Globalization and Cultural Diplomacy của Harvey B. Feigen Baum (CAC); hay Modern Diplomacy của Jovan Kurbalija Malta .... Tựu chung lại, các công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước đã khẳng định vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của ngoại giao văn hoá trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia trong đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích chính của luận văn là đánh giá hoạt động ngoại giao văn hoá của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 1986-2009, qua đó làm nổi bật tầm quan trọng của ngoại giao văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. * Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn đề ra một số nhiệm vụ cụ thể sau đây: (1) Làm rõ khái niệm ngoại giao văn hoá thông qua việc giới thiệu các quan điểm và thực tiễn ngoại giao văn hoá của một số quốc gia trên thế giới (2) Trình bày một cách hệ thống các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về ngoại giao văn hoá từ năm 1986 đến năm 2009 và những hoạt động tiêu biểu thực hiện chủ trương này trong thực tế. 8 (3) Đánh giá những thành tựu, hạn chế của hoạt động ngoại giao văn hoá từ năm 1986 đến năm 2009 và đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động ngoại giao văn hoá trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về ngoại giao văn hoá và các hoạt động ngoại giao văn hoá trong thực tiễn giai đoạn 1986 - 2009 . - Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 khi đường lối Đổi mới được chính thức thông qua tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng và kết thúc vào năm 2009 là năm được xác định là Năm ngoại giao văn hoá của Việt Nam. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu * Nguồn tài liệu: gồm các nhóm sau - Nhóm tài liệu thứ nhất: các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986), VII (6/1991), VIII (6/1996), IX (4/2001), X (4/2006); Văn kiện của Đảng và Nhà nước về ngoại giao văn hoá, những nghị quyết của các Hội nghị ngành Ngoại giao Việt Nam. - Nhóm tài liệu thứ hai: các bài phát biểu, các tuyên bố của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà ngoại giao - Nhóm tài liệu thứ ba: những cuốn hồi ký của các nhà hoạt động ngoại giao Việt Nam trong các thời kỳ. - Nhóm tài liệu thứ tư: các sách chuyên khảo, các bài tạp chí, các bài báo về ngoại giao văn hoá. - Nhóm tài liệu thứ năm là các bài viết trên các Website của chính phủ như: www.cpv.org.vn, www.mofa.gov.vn, .... * Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử - lôgíc có kết hợp với phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh. Các phương pháp trên được vận dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn. 6. Đóng góp của luận văn 9 - Hệ thống những kiến thức cơ bản về ngoại giao văn hoá. - Hệ thống hoá những quan điểm ngoại giao văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam qua từng giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2009 - qua đó làm rõ sự thay đổi nhận thức của Đảng về ngoại giao văn hoá và vai trò của ngoại giao văn hoá. - Khái quát hoạt động ngoại giao văn hoá của Đảng và Nhà nước, thông qua việc đánh giá thành tựu, hạn chế, thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm của hoạt động này. - Sưu tập kinh nghiệm hoạt động ngoại giao văn hoá của một số nước trong khu vực và thế giới. 7. Về kết cấu luận văn - Tên đề tài: “Hoạt động Ngoại giao văn hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2009” - Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia làm ba chương: Chương 1. Khái quát về văn hoá và ngoại giao văn hoá Chương 1 trình bày những khái niệm liên quan đến ngoại giao văn hoá, trong đó có khái niệm văn hoá, ngoại giao và nhất là ngoại giao văn hoá để có một cách nhìn khái quát về ngoại giao văn hoá nói chung và ngoại giao văn hoá Việt Nam nói riêng. Từ đó khẳng định tầm quan trọng của ngoại giao văn hoá trong chính sách đối ngoại của quốc gia bên cạnh ngoại giao kinh tế và ngoại giao chính trị. Chương 2. Thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2009 Chương 2 tập trung tìm hiểu quan điểm, chủ trương, chính sách ngoại giao văn hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2009 và phân tích thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hoá Việt Nam trong giai đoạn này, đặc biệt là những thành công của Năm ngoại giao văn hoá 2009. Chương 3. Triển vọng của Ngoại giao văn hoá Việt Nam Cùng với việc khẳng định những thành tựu đạt được của các hoạt động ngoại giao văn hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2009, 10 chương 3 còn đánh giá những hạn chế cũng như nguyên nhân tồn tại của các hoạt động này, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại giao văn hoá trong thời gian tới. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ VÀ NGOẠI GIAO VĂN HOÁ Ngoại giao văn hoá trước hết liên quan tới hai yếu tố ngoại giao và văn hoá. Vì vậy, để có thể định hình được một khái niệm về ngoại giao văn hoá cần tìm hiểu những khái niệm văn hoá, ngoại giao, và các khái niệm khác có liên quan. 1.1. Văn hoá - giao lưu văn hoá - cốt lõi của ngoại giao văn hoá 1.1.1. Văn hoá Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống từ rất sớm. Quẻ Bi của Chu Dịch viết Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ - xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ. Người sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 Tr.CN) thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người - văn trị giáo hoá. Văn hoá ở đây được dùng để đối lập với vũ lực. Ở phương Tây, trong tiếng Anh văn hoá là culture, trong tiếng Đức là kultur, trong tiếng Nga là kultura. Những chữ này có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hoá với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục, đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ phát triển những giá trị nhân văn và có những phẩm chất tốt đẹp. Thế kỷ XIX, nhà nhân loại học E.B.Taylor định nghĩa, văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Cho tới nay, đã có trên dưới 500 định nghĩa khác nhau về văn hoá, tuỳ theo từng góc độ mà người ta quan tâm hoặc muốn nhấn mạnh. 11 Theo một số học giả người Mỹ, “Văn hoá là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc”. Nêru, nhà hoạt động xã hội và nhà văn hoá lớn của Ấn Độ đã từng nói: “Văn hoá là khả năng hiểu biết lẫn nhau, làm cho mình hiểu người khác và người khác hiểu mình” [28: tr.55]. Viện sĩ Likhachốp nói “văn hoá là biết lắng nghe” [28: tr.55], nghĩa là tôn trọng ý kiến, quan điểm của nhau, tôn trọng những khác biệt, không áp đặt, không tự lấy mình làm chuẩn để đánh giá văn hoá của dân tộc khác. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày như ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ững những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [43: tr.431] Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hoá là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử ... cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hoá với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. [66: tr.21-22] PGS. Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hoá mang tính chất thao tác luận (theo ông các định nghĩa trước mang tính tinh thần luận): “Không có cái vật gì là văn hoá cả và ngược lại bất kỳ vật gì cũng có cái mặt văn hoá. Văn hoá là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của mỗi tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hoá khác nhau là độ khúc xạ”. [66: tr.22] 12 GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cũng đã đưa ra một định nghĩa văn hoá như sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [66: tr.22] GS.TSKH Vũ Minh Giang khẳng định: “Văn hoá là tất cả những sáng tạo hữu thức của một cộng đồng người vì mục đích tồn tại và phát triển” [18]. Theo đó, những thứ do con người tạo ra không vì mục đích tồn tại và phát triển của nhân loại như: bom nguyên tử, chất hoá học điôxin ... không được xem là văn hoá. Trong ý nghĩa rộng nhất, “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội... Văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân... tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”. Theo đó, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hoá là chìa khóa của mọi sự phát triển. Đây chính là cách hiểu phổ biến nhất về văn hoá được nêu ra bởi UNESCO. [66: tr.23] Đầu thế kỷ XXI, nhận thức này được UNESCO khẳng định lại trong Tuyên bố toàn cầu về Đa dạng văn hoá (11/2001): “Văn hoá là một tổng hợp các đặc điểm tinh thần, thể chất, tri thức và Tù nhiªn tình cảm đặc trưng cho một xã hội cho một nhóm xã hội, bao hàm không chỉ nghệ thuật và Con người văn hoá mà còn cả lối sống, cách thức chung sống với nhau, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng. Những đặc trưng của các yếu tố cấu thành đó giúp ta phân biệt được một xã hội (hoặc một nhóm xã hội) M«i tr-êng x· héi Hoµn c¶nh lÞch sö Hình 1.1. Các tác nhân tạo nên văn hoá (Nguồn: [18]) 13 với các xã hội (hoặc nhóm xã hội) khác”. Như vậy, tổng hợp lại tất cả những quan điểm, văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nói cách khác, chủ thể sáng tạo ra văn hoá là con người. Văn hoá của mỗi vùng miền, mỗi quốc gia lãnh thổ lại được quy định bởi môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và điều kiện lịch sử. Hay, các yếu tố tạo thành văn hoá gồm: con người - chủ thể sáng tạo ra văn hoá, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và điều kiện lịch sử. Nền văn hoá dân tộc quy định cách ứng xử của một dân tộc với bên trong (các yếu tố nội sinh) và với bên ngoài (các yếu tố ngoại sinh). Bằng quá trình giao thoa và tiếp biến văn hoá, mỗi dân tộc cố tận dụng những thành tựu của dân tộc khác để làm giàu thêm nền văn hoá của mình, đồng thời phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao.... Do vậy, dấu ấn của nền văn hoá xuất hiện trên mọi mặt của đời sống cộng đồng, trong đó có lối ứng xử với bên ngoài, nói bao quát hơn là đường lối đối ngoại của quốc gia đó. Do vị trí địa lý của mình, Việt Nam có một vị thế địa - văn hoá, địa - chính trị khá đặc biệt. Vị thế ấy tạo điều kiện cho văn hoá Việt Nam đón nhận nhiều nền văn hoá khác nhau. Có thể đó là nền văn hoá đến từ lục địa Trung Hoa, có thể đó là nền văn hóa đến từ Ấn Độ, nhưng cũng có khi đó là nền văn hoá đến từ phương Tây. Tuy vậy, nét đặc biệt của văn hoá Việt Nam là “sự không chối từ” - chữ dùng của J.Frây. Hay đó chính là sự cởi mở trong việc tiếp nhận văn hoá nước ngoài, tiếp thu tinh hoa của mọi nền văn hoá làm giàu cho văn hoá của mình. Thiên nhiên Việt Nam là điểm xuất phát của văn hoá Việt Nam. Văn hoá là sự thích nghi và biến đổi tự nhiên. Thiên nhiên đặt ra trước con người những thử thách. Văn hóa là sản phẩm của con người, là sự phản ứng, là sự trả lời trước những thách đố của tự nhiên. Cũng từ vị trí địa lý này, những thách đố đến từ lịch sử, thách đố của môi trường xã hội cũng khiến hình thành văn hoá ứng xử của con người Việt Nam trong suốt diễn trình văn hoá dân tộc (ứng xử với thiên nhiên, ứng xử với con người, với xã hội, với những thách đố lịch sử....). Văn hoá gắn liền với phát triển. Ở một góc độ nhất định, văn hoá có liên quan chặt chẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội... Đối với mỗi cá nhân nói riêng, mỗi cộng đồng nói chung, hay 14 rộng hơn đó là đối với mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, đặc trưng văn hoá được biểu hiện qua “ứng xử” của họ trong các hoạt động kinh tế, xã hội .... bên trong và bên ngoài, hay đối nội và đối ngoại. 1.1.2. Giao lưu văn hoá Giao lưu văn hoá là một hiện tượng phổ biến của xã hội loài người, một quy luật vận động và phát triển của các dân tộc và của các nền văn hoá. Giao lưu văn hoá phản ánh sự học hỏi và tiếp nhận lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia về thế giới quan, hệ tư tưởng, phong tục, tập quán, tôn giáo, đạo đức, đặc biệt là những thành tựu về trí tuệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kinh nghiệm quản lý đất nước.... Giao lưu còn là đặc điểm vận động của văn hoá. Đó là quá trình trao đổi những giá trị giữa những cộng đồng người có văn hoá khác nhau do tiếp xúc trực tiếp, tự nguyện hay cưỡng bức ... gây ra những biến đổi nhiều hay ít trong quá trình phát triển của các nền văn hoá. Giao lưu văn hoá có cơ sở là trao đổi kinh tế, ngoài ra còn có những hoạt động trao đổi phi kinh tế như trao đổi vật phẩm, tặng phẩm tôn giáo ..., quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao.... Nói cách khác, giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn diễn ra, luôn đặt mỗi tộc người phải xử lý tốt quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Hai yếu tố này có khả năng chuyển hoá cho nhau và rất khó tách biệt trong một thực thể văn hoá. Giao lưu văn hoá nhằm nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, góp phần vào quá trình hội nhập quốc tế và qua đó thúc đẩy sự phát triển của đất nước và là yếu tố cơ bản để gìn giữ hoà bình thế giới. Ngoài ra, giao lưu văn hoá còn giúp một nền văn hoá có thể khẳng định được mình trong môi trường văn hoá chung và tiếp thu những tinh hoa từ nền văn hoá khác. Như vậy, giao lưu văn hoá là nhu cầu tự nhiên của loài người, quy luật tất yếu của đời sống, nhưng cũng là một thách thức trong bối cảnh toàn cầu hoá. 15 Giữa các hoạt động ngoại giao và bản sắc văn hóa dân tộc có mối liên quan chặt chẽ. Nói cách khác, ngoại giao cũng là một phần của văn hoá. Chính sách đối ngoại của mỗi dân tộc ít nhiều đều chịu ảnh hưởng và sự chi phối bởi chính nền văn hóa của dân tộc đó. Trong quá trình phát triển, mỗi nền văn hóa đều tiếp xúc, giao lưu và đối thoại với nhiều nền văn hóa khác nhau. Giao lưu nhằm tăng cường nâng cao sự hiểu biết và nhận thức về những giá trị chung của toàn nhân loại và tôn trọng sự khác biệt của từng dân tộc. Đồng thời tạo cơ hội cho các nền văn hóa hợp tác cùng chung sống hòa bình vì sự phát triển bền vững. Quá trình tiếp xúc, giao lưu và đối thoại văn hóa, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng nhờ đó được phong phú, sáng tạo hơn. Chính sự đa dạng của các nền văn hóa đã làm nảy sinh nhu cầu giao lưu và đối thoại văn hóa. Ngày nay, không một dân tộc trên thế giới nào tồn tại tách biệt mà không có sự giao lưu văn hoá với các dân tộc khác. Sự giao lưu văn hoá là nhu cầu nội tại của sự phát triển văn hoá. Một nền văn hoá không có sự giao lưu thì sẽ xơ cứng, mất sức sống, dần dần tàn lụi và chủ nhân của nó sớm muộn cũng sẽ biến khỏi vũ đài lịch sử. Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa mở ra những cơ hội mới cho các cộng đồng hiểu nhau và cho chính mỗi cộng đồng hiểu rõ mình. Do vậy sự tương tác giữa các nền văn hóa là một thuộc tính và là tiền đề cho sự phát triển xã hội. Văn hoá chính là nền tảng, mục tiêu và nội dung của hoạt động ngoại giao nói riêng hay của đời sống quan hệ quốc tế nói chung. 1.1.3. Ngoại giao Chính sách của một quốc gia gồm chính sách đối nội và chính sách đối ngoại, trong đó chính sách đối ngoại là tổng thể mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, biện pháp, phương pháp, phương tiện cơ bản mà quốc gia theo đuổi trong quan hệ với các quốc gia, chủ thể khác trên trường quốc tế, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chính sách đối ngoại là sự tiếp tục của chính sách đối nội và mang tính giai cấp sâu sắc. Ngoại giao chính là phương tiện quan trọng nhất thể hiện mục tiêu của chính sách đối ngoại. Ngoại giao (diplomacy) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp diploma. Mặc dù đã xuất hiện từ lâu, song khái niệm ngoại giao đến nay được hiểu khá khác nhau. 16 Trước hết, nhà ngoại giao, nhà báo người Anh, Nilcolson cho rằng: “Trong ngôn ngữ nói, từ ngoại giao được sử dụng để ám chỉ nhiều nội dung rất khác nhau. Nó được hiểu là quan hệ đối ngoại. Trong các trường hợp khác lại ngụ ý là đàm phán. Từ đó cũng được sử dụng để nói đến cơ quan ở nước ngoài của Bộ Ngoại giao. Cuối cùng, từ đó còn có nghĩa là khả năng đặc biệt khôn khéo trong đàm phán quốc tế và với nghĩa xấu là xảo quyệt trong thương lượng”. [28: tr.16] Quan điểm trên chia sẻ nhiều điểm chung với khái niệm ngoại giao được trình bày trong từ điển Oxford: “Ngoại giao là việc tiến hành quan hệ quốc tế bằng cách đàm phán, là phương pháp mà các đại sứ, công sứ ... sử dụng để điều chỉnh và tiến hành các quan hệ đó, là công tác hoặc nghệ thuật của nhà ngoại giao” [23: tr.16]. Ở Pháp, người ta định nghĩa: “Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến các mối quan hệ giữa các quốc gia: đại diện quyền lợi của một chính phủ ở nước ngoài, quản lý công việc quốc tế, hướng dẫn và tiến hành đàm phán giữa các quốc gia” [28: tr.17] Theo những nghiên cứu ở Liên Xô trước đây và Nga hiện nay: “Ngoại giao là hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ và của các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại, nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của chính sách đối ngoại của quốc gia, cũng như nhằm bảo vệ quyền lợi quốc gia ở nước ngoài” [28: tr.17] Một giáo sư Trung Quốc cũng đã nêu khái niệm ngoại giao như sau: Một hành vi chính thức của quốc gia thông qua phương pháp hoà bình, cơ quan đại diện, các đại diện chính thức, qua trao đổi đàm phán và các phương thức hoà bình khác thực hiện chủ quyền đối với bên ngoài để xử lý quan hệ đối ngoại của quốc gia và tham gia công việc quốc tế; ngoại giao là biện pháp quan trọng thực hiện mục tiêu đối ngoại quốc gia, đồng thời cũng là con đường quan trọng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Như vậy, theo các học giả phương Tây, ngoại giao vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, họ chú ý khía cạnh nghệ thuật hơn là góc độ khoa học. Họ thường nhấn mạnh vai trò, tài năng cá nhân của các nhà ngoại giao, các nhà đàm phán. 17 Ở Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “Ngoại giao là một ngành khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của các khả năng, là hoạt động của các cơ quan làm công tác đối ngoại và các đại diện có thẩm quyền, thực hiện các nhiệm vụ chính sách đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ các quyền lợi và lợi ích của nước mình, của các cơ quan, tổ chức và công dân mình ở nước ngoài, góp phần giải quyết các vấn đề quốc tế chung bằng con đường đàm phán và các hình thức hoà bình khác .... Trước kia, ngoại giao là công việc của các bộ trưởng ngoại giao. Trong những thập kỷ gần đây, các vị đứng đầu quốc gia, đứng đầu chính phủ cũng làm công việc ngoại giao thông qua những cuộc gặp thượng đỉnh, những chuyến thăm chính thức, viếng thăm làm việc và đàm phán cấp cao. Ngoại giao còn được tiến hành trong các hội nghị và gặp gỡ ngoại giao; chuẩn bị và ký các điều ước quốc tế hoặc các văn kiện ngoại giao khác gồm hai bên hay nhiều bên, tham gia hoạt động của các tổ chức quốc tế và các cơ quan của tổ chức này ”. [28: tr.21] Như vậy có thể thấy, ngoại giao là một phạm trù rộng, được hình thành do nhiều yếu tố: ở phạm vi rộng đó là truyền thống văn hoá dân tộc, hẹp hơn đó là truyền thống gia đình, môi trường giáo dục và hoạt động nhận thức của mỗi người. Ở đây, trong những yếu tố tác động có một yếu tố đặc biệt quan trọng đó là văn hoá. Hoạt động ngoại giao của một đất nước là tiếng nói của cả một quốc gia dân tộc thông qua hoạt động không chỉ của một cá nhân đơn lẻ, mà còn là hoạt động cả một tập thể, một cộng đồng, và kế đó là hoạt động của chính quốc gia dân tộc ấy. Bởi vậy, để hình thành một phong cách ngoại giao của một dân tộc thì không thể phủ nhận yếu tố văn hoá truyền thống của chính dân tộc ấy. Truyền thống văn hoá, bản sắc văn hoá, những phẩm chất đã thẩm thấu trong mỗi cá nhân, mỗi con người những chủ thể của chính nền văn hoá đó. Có thể thấy rằng, các hoạt động ngoại giao và văn hoá đã có một mối liên hệ hữu cơ tự nhiên với nhau. 1.2. Ngoại giao văn hoá 1.2.1. Khái niệm ngoại giao văn hoá Ngoại giao văn hoá (cultural diplomacy) là một thành tố của sức mạnh mềm quyền lực mềm (soft power) - một thuật ngữ hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Cụm từ soft power được giáo sư Joseph Nye của Đại học Harvard đề cập 18 đến lần đầu tiên trong cuốn Bound to Lead: The changing nature of American power xuất bản năm 1990. Sau đó, ông tiếp tục phát triển thuật ngữ này trong cuốn Soft power: The means to success in world politics. Nên hiểu như thế nào về sức mạnh mềm? Tại sao nói văn hoá là một thành tố của sức mạnh mềm? Sức mạnh mềm được hiểu là khả năng đạt được những gì mình muốn thông qua hợp tác và sức hút tạo ra với đối phương. Nó đối lập với sức mạnh cứng (hard power) - sử dụng sức mạnh quân sự để cưỡng chế, và gây ảnh hưởng với bên ngoài. Sức mạnh mềm là một quyền lực vô hình, ảnh hưởng đến ý thức công chúng và dư luận quốc tế. Sức mạnh mềm gồm bốn yếu tố: sức hội tụ và hấp dẫn của nền văn hoá dân tộc; ảnh hưởng của chế độ xã hội, ý thức hệ, quan niệm giá trị, phương thức phát triển của nhà nước; sự kiểm soát và ảnh hưởng của quốc gia trên các mặt quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế và xây dựng thể chế quốc tế; sự hấp dẫn của hình tượng quốc gia (quốc gia đó có thông qua phương thức như đối thoại dân chủ, giao lưu rộng rãi, tôn trọng cảm nhận của các nước khác, chú ý đến lợi ích chung hay không?) Thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, các quốc gia rất chú trọng đến sức mạnh mềm của mình để đem lại hiệu quả cao trên mọi lĩnh vực. Một trong những thành tố tạo nên sức mạnh mềm đó chính là sức mạnh của giá trị văn hoá truyền thống, bản sắc của mỗi quốc gia. Văn hoá, đó chính là tài sản vô giá mà mỗi dân tộc có được trong quá trình xây dựng, bảo vệ, gìn giữ và phát huy lâu dài. Ngoại giao văn hoá đã tồn tại từ lâu trong lịch sử ngoại giao thế giới cũng như ngoại giao Việt Nam. Phong cách ngoại giao của mỗi quốc gia đều hàm chứa những giá trị văn hoá của chính mỗi quốc gia đó. Sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, ngoại giao văn hoá được quan tâm nhiều hơn, là một trong những nét đặc trưng của ngoại giao thế kỷ XXI, ngoại giao trong kỷ nguyên toàn cầu hoá, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Sau đây là một số quan niệm về ngoại giao văn hoá của các học giả nước ngoài. 19 Ngoại giao văn hóa là hình thức ngoại giao kiểu mới lấy riêng văn hóa làm nội dung. Hoạt động của ngoại giao văn hóa là hoạt động ngoại giao của quốc gia có chủ quyền lấy việc bảo vệ lợi ích văn hóa nước mình cùng việc thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia làm mục đích, tiến hành dưới sự chỉ đạo của chính sách văn hóa nhất định và dựa vào thủ đoạn văn hóa.[9: tr179-180] Ngoại giao văn hóa là sự giao lưu về tư tưởng, thông tin, nghệ thuật và các hình thức văn hóa khác được tiến hành nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia và dân tộc.[9: tr.179-180] Ngoại giao văn hóa là sự đầu tư mang tính lâu dài được tiến hành nhằm thúc đẩy quan hệ giữa chúng ta với nhân dân các nước khác… để thúc đẩy hiểu biết hai bên, để nhân dân các nước khác hiểu biết tốt hơn về lợi ích và chính sách quốc gia của chúng ta. [9: tr179-180] Ngoại giao văn hóa có thể hiểu là việc sử dụng các giá trị văn hóa, hình thức văn hóa, lợi thế văn hóa để thúc đẩy quan hệ với các quốc gia khác. Đồng thời, sử dụng nội dung ngoại giao, quan hệ ngoại giao để tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc; giao lưu, trao đổi để các quốc gia, các dân tộc ngày càng hiểu biết và tôn trọng các giá trị văn hóa và bản sắc của nhau. Trong một công trình xuất bản gần đây nhất nói về Ngoại giao và công tác đối ngoại, PGS.TS. Vũ Dương Huân đưa ra khái niệm: “Ngoại giao văn hoá hay tuyên truyền văn hoá đối ngoại là một bộ phận trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, là tổng hợp các hoạt động thông tin tuyên truyền, quảng bá văn hoá Việt Nam; trao đổi, giao lưu, hợp tác về văn hoá hoặc có nội dung văn hoá nhằm hỗ trợ giao lưu kinh tế, chính trị, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, phục vụ công tác phát triển nền văn hoá dân tộc, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, quá trình hội nhập quốc tế và thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, ngoại giao văn hoá là lĩnh vực đặc biệt của hoạt động ngoại giao, liên quan đến việc sử dụng văn hoá như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại của quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan