Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động của hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội thực trạng và hướng ...

Tài liệu Hoạt động của hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội thực trạng và hướng hoàn thiện

.PDF
116
10
138

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ®ç thÞ nh- h¶o Ho¹t ®éng cña héi ®ång d©n téc vµ c¸c ñy ban cña quèc héi thùc tr¹ng vµ h-íng hoµn thiÖn luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ®ç thÞ nh- h¶o Ho¹t ®éng cña héi ®ång d©n téc vµ c¸c ñy ban cña quèc héi thùc tr¹ng vµ h-íng hoµn thiÖn Chuyªn ngµnh : Lý luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt M· sè : 60 38 01 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: GS.TS NguyÔn §¨ng Dung Hµ néi - 2010 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG DÂN TỘC 7 VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI 1.1. Sự ra đời và khái niệm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của 7 Quốc hội 1.1.1. Sự cần thiết phải có cơ quan chuyên môn trong hoạt động 7 của Quốc hội 1.1.1.1. Sự hình thành các Ủy ban thường trực trong Quốc hội/ 7 Nghị viện 1.1.1.2. Sự cần thiết phải có các Ủy ban trong hoạt động của Quốc hội 1.1.2. Sự ra đời Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban trong Quốc hội 9 10 nước ta 1.1.3. Khái niệm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 12 1.2. Vị trí, vai trò, chức năng cơ bản của Hội đồng Dân tộc và 12 các Ủy ban của Quốc hội 1.3. Mô hình của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 21 1.3.1. Ủy ban chuyên môn (Ủy ban thường trực) 21 1.3.2. Ủy ban lâm thời 22 1.3.3. Mô hình Ủy ban một số nước 22 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN 24 TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI 2.1. Thực trạng hoạt động thẩm tra 24 2.1.1. Các quy định pháp luật về hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 24 2.1.2. Thực trạng hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 28 2.1.2.1. Nhận xét chung 28 2.1.2.2. Nội dung thẩm tra 31 2.1.2.3. Phương thức thẩm tra 35 2.1.2.4. Báo cáo thẩm tra 36 2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của quốc hội 38 2.2.1. Các quy định pháp luật về hoạt động giám sát 39 2.2.2. Thực trạng hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội 45 2.2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 54 2.3. Tham khảo cách thức tiến hành xem xét dự luật và giám sát ở Ủy ban một số Nghị viện trên thế giới 58 2.3.1. Xem xét dự luật ở Ủy ban 58 2.3.2. Giám sát ở Ủy ban 63 Chương 3: 68 ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI 3.1. Những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 68 3.2. Các giải pháp đổi mới hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 73 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với tầm quan trọng trong hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Điều 83 Hiến pháp và Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội qui định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước [16], [17]. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo bằng kỳ họp Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội. Cùng sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, thời gian qua, hoạt động của Quốc hội đã không ngừng được đổi mới, khẳng định vị thế, vai trò quan trọng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong bộ máy nhà nước. Đánh giá những kết quả đã đạt được, tại báo Báo số 18/BC-QH11, ngày 27 tháng 4 năm 2007, do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng trình bày tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XI nêu rõ: Quốc hội khóa XI là nhiệm kỳ Quốc hội có nhiều đổi mới về tổ chức, hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình. Hoạt động lập pháp được đẩy mạnh, số lượng, chất lượng được nâng lên. Hoạt động giám sát đã mang tính định 1 hướng, đi vào trọng tâm, có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, đạt được những kết quả bước đầu rất tích cực. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thực chất hơn, giảm dần tính hình thức. Hoạt động ngoại giao nghị viện tiếp tục được mở rộng và tăng cường. Phương thức hoạt động, lề lối làm việc ngày càng phát huy dân chủ; nhân dân quan tâm và tin tưởng hơn vào Quốc hội. Những kết quả đạt được này do có sự lãnh đạo đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; Quốc hội đã kế thừa và phát huy tốt thành quả sự nghiệp đổi mới của đất nước và của Quốc hội các nhiệm kỳ trước; do nhận thức của cả hệ thống chính trị và xã hội được nâng lên, sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và tinh thần cộng tác phối hợp chặt chẽ của Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan hữu quan và nhân dân. Đồng thời cũng là từ sự nỗ lực phấn đấu, đổi mới mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội [33]. Phát huy những thành tựu đạt được, cùng xu hướng phát triển chung của đất nước, cơ cấu, tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã và đang được nghiên cứu để có những qui định phù hợp. Bên cạnh đó, công tác lập pháp, giám sát cũng từng bước được cải tiến, đổi mới để tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng được bố trí hợp lý hơn. Thường trực Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban cũng là những đại biểu Quốc hội có uy tín, có kinh nghiệm hoạt động Quốc hội. Năng lực hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội ngày càng được nâng lên. Nhiều báo cáo thẩm tra, thuyết trình và kết luận, kiến nghị của các cơ quan Quốc hội - có chất lượng cao, phản ánh trúng thực tế cuộc sống, có tính thuyết phục cao... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh, hoạt động của Quốc hội vẫn còn nhiều yếu kém, cũng tại Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã ghi: 2 Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của Quốc hội cũng còn những hạn chế: chất lượng một số dự án luật, pháp lệnh chưa cao; quy trình lập pháp có đổi mới nhưng vẫn còn nhiều công đoạn có thể rút ngắn, việc đổi mới chưa đồng bộ; hoạt động giám sát hiệu quả chưa cao, hiệu lực còn hạn chế; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa làm được nhiều….Việc quyết định các vấn đề quan trọng tuy đã có tiến bộ nhưng vấn phải tiếp tục khắc phục tính hình thức… Tổ chức của Quốc hội vẫn chưa ngang tầm với nhiệm vụ [33]. Những tồn tại ở trên cũng một phần bắt nguồn từ hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội hiện nay. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội với địa vị pháp lý là những cơ quan của Quốc hội, có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, cũng như mong muốn góp phần nhỏ vào việc kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Quốc hội, tôi xin chọn đề tài: "Hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội Thực trạng và hướng hoàn thiện". 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, nhưng trong điều kiện đổi mới 3 đất nước, tình hình quốc tế có nhiều biến đổi lớn với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ cũng đòi hỏi phải phân tích, đánh giá và nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò cũng như hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phục vụ mục đích tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong phạm vi đề tài của mình, tác giả sẽ tập trung đi sâu vào hai mảng hoạt động chính và cơ bản của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đó là hoạt động thẩm tra và hoạt động giám sát. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích Mục đích của đề tài là làm rõ hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội - thực trạng và đề ra giải pháp hoàn thiện. Để đạt được mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về nguồn gốc, tính chất, vai trò, chức năng của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, nhằm chỉ ra những tồn tại, đề xuất những giải pháp để tiếp tục đổi mới hoạt động đặc biệt là hoạt động thẩm tra và hoạt động giám sát nhằm góp phần phát huy vai trò của Quốc hội trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. - Nhiệm vụ Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu sự hình thành các Ủy ban thường trực trong Quốc hội/ Nghị viện các nước trên thế giới và sự ra đời của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban trong Quốc hội nước ta. - Đánh giá thực trạng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong đó tập trung vào hai hoạt động chính là hoạt động thẩm tra và hoạt động giám sát. - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả có đưa ra một số đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. 4 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Là một đề tài thuộc chuyên ngành Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, những vấn đề được nêu ra trong luận văn được khái quát thông qua việc phân tích, tổng hợp những nội dung liên quan đến việc quy định của pháp luật về hoạt động thẩm tra và giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Bên cạnh đó, tác giả phân tích, tổng hợp thực trạng của các hoạt động này để đề ra những giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Dựa trên phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên tắc của lý luận về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về Nhà nước, pháp luật trong thời kỳ đổi mới, Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích, phương pháp rà soát, tập hợp, tổng hợp, so sánh... 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Một là, dựa vào những tài liệu, luận văn đã tìm hiểu những chế định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Hai là, dựa vào tình hình hoạt động hiện nay của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tác giả đánh giá những mặt đã làm được và những mặt còn tồn tại trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Đây là những đóng góp nhằm tổng kết thực tiễn hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tập trung vào hai mảng hoạt động chính là thẩm tra và giám sát, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Ba là, luận văn đã đề xuất những phương hướng và giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. 5 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Chương 2: Thực trạng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Chương 3: Đổi mới hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI 1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ KHÁI NIỆM HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI 1.1.1. Sự cần thiết phải có cơ quan chuyên môn trong hoạt động của Quốc hội 1.1.1.1. Sự hình thành các Ủy ban thường trực trong Quốc hội/ Nghị viện Cơ cấu tổ chức của Quốc hội/ Nghị viện ở nghĩa chung nhất là cấu trúc nội tại bên trong, được lập ra để thực hiện (hoặc giúp thực hiện) các chức năng, nhiệm vụ chung của Quốc hội/ Nghị viện. Cơ cấu tổ chức các cơ quan này là một trong những yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động của chúng. Vấn đề Quốc hội/ Nghị viện được tổ chức ra sao, gồm những cơ quan nào, qua lý luận và thực tiễn các nước trên thế giới là hết sức đa dạng, mỗi một quốc gia, tùy thuộc vào chế độ chính trị của mình, có những cách tổ chức khác nhau, nhưng nhìn chung, vấn đề được xoay quanh việc lựa chọn, phân định thẩm quyền giữa các cơ cấu: các viện (một viện hay hai viện), các ủy ban (Ủy ban thường trực) và các đảng đoàn nghị sĩ. Ở Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa, do tính chất hoạt động không thường xuyên, dẫn đến việc phải tổ chức ra cơ quan thường vụ, thường trực dưới hình thức Đoàn Chủ tịch hay Ủy ban thường vụ. Nhìn chung, Nghị viện các nước thường có những cơ cấu sau đây: các viện, các cơ quan lãnh đạo của Nghị viện, viện (dưới hình thức Chủ tịch Nghị viện hay Văn phòng Nghị viện), Ủy ban của Nghị viện, các Đảng đoàn Nghị viện và Bộ máy hành chính phục vụ. Ủy ban của Nghị viện là một cơ cấu tổ chức được thành lập chính thức ở hầu hết tất cả Nghị viện các nước trên thế giới. Sự hiện diện của các ủy 7 ban bắt nguồn từ nhu cầu khách quan của hoạt động của cơ quan đại diện: với một cơ quan lớn và đông đảo như nghị viện hoặc từng viện thì việc thảo luận bất kỳ vấn đề gì cũng không thể có hiệu quả nếu không có sự xem xét trước. Hơn nữa càng ngày càng xuất hiện nhiều vấn đề thuộc trách nhiệm xem xét của nghị viện. Vì vậy mà vị trí các ủy ban của nghị viện ngày càng phát triển và cần thiết cho việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của nghị viện. Theo kết quả khảo sát của Liên minh nghị viện năm 1986 thì chỉ có 2 nước trong số 83 nước được khảo sát là không thành lập ủy ban thường trực [40, tr. 1]. Báo cáo của Viện dân chủ quốc gia Hoa Kỳ cũng đã nhận xét: "Hầu hết các nghị viện dân chủ trên thế giới đều dựa vào hệ thống các ủy ban để tiến hành các hoạt động của mình" [40, tr. 12]. Các quyết định của ủy ban có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của Quốc hội/Nghị viện. Nói như W. Wilson, tổng thống thứ hai mươi tám của Hoa Kỳ: "Quốc hội phiên toàn thể là phiên trình diễn, Quốc hội trong ủy ban là Quốc hội làm việc" [48, tr, 56]. Ủy ban Nghị viện xuất hiện đầu tiên ở Viện bình dân Anh với tư cách là ủy ban của toàn viện (Committee of the whole House). Đây là cơ quan làm việc của Hạ viện mà thành phần là tất cả các đại biểu muốn tham gia. Các thành viên có thể phát biểu, tranh luận nhiều lần về một vấn đề nào đó mà không cần theo một thủ tục chặt chẽ nào. Chủ tịch Hạ viện không điều khiển các phiên họp như vậy cũng với ý coi đó là mang tính tư vấn. Tuy nhiên, do thiếu chặt chẽ nên có những vấn đề đưa ra thảo luận không được tế nhị cho lắm. Đến cuối thế kỷ XIX, do nhu cầu ngày càng phải xem xét nhiều dự luật và mang tính chuyên môn cao nên người ta đi đến sự cần thiết phải tổ chức những ủy ban tồn tại thường xuyên với những trình tự hoạt động được quy định một cách chặt chẽ từ đó được gọi là Ủy ban thường trực (mặc dù hiện nay, ủy ban kiểu tự do vẫn còn tồn tại dưới hình thức này hoặc hình thức khác). Về tính chất, các ủy ban ngay từ thời xa xưa cho đến nay đều được coi là cơ quan trợ giúp. Tuy nhiên trong điều kiện chuyên môn cao như hiện nay 8 các ý kiến của ủy ban có ý nghĩa rất quyết định. Vì vậy, còn thấy một thực tế là các ủy ban như là làm thay cho cả nghị viện về lĩnh vực đó. Về phân loại, các ủy ban của Nghị viện nói chung thường được phân làm hai loại: ủy ban thường trực và ủy ban lâm thời (Ủy ban "ad hoc"). Ủy ban thường trực được tổ chức theo lĩnh vực chuyên ngành và có ở hầu hết các Nghị viện, còn ủy ban "ad hoc" được một số nước thành lập thêm ra để xem xét một vấn đề cụ thể nào đó và sẽ chấm dứt hoạt động ngay sau khi đưa ra kết luận cho các Viện. Trên thế giới có nước như Đan Mạch chỉ có uỷ ban "ad kết" (không kể có một vài ủy ban đặc biệt) nhưng có nước như Anh tuy tổ chức ra các ủy ban thường trực song thực tế lại là các ủy ban lâm thời với nghĩa chúng được tổ chức để xem xét một dự luật nào đó và mang ký hiệu theo chữ cái A,B,C (thực tế ít khi vượt quá 6). Ngoài ra ở nhiều nước còn tổ chức các ủy ban đặc biệt (select commitee). Số lượng các ủy ban ở từng nước rất khác nhau. Phần đông các nước tổ chức ủy ban tương ứng với các bộ. Ở Bỉ, Nhật bản có 6 ủy ban, Chilê, Nauy - 13, Mỹ, Achentina - từ 18 đến 22, Đức - đến 28 [1, tr. 40-46]. 1.1.1.2. Sự cần thiết phải có các Ủy ban trong hoạt động của Quốc hội Ủy ban của Quốc hội được định nghĩa một cách đơn giản là một tập hợp các nghị sĩ được phân công làm một số công việc cụ thể của Quốc hội [53]. Trong nghị viện, Ủy ban là nơi các nội dung công việc được thảo luận trong các phòng họp kín, theo quy trình ít gò bó hơn nên các nghị sĩ thoải mái trình bày quan điểm của mình và ít bị các đảng chính trị và ngành hành pháp chi phối hơn. Nghiên cứu lịch sử hình hình các Ủy ban thường trực trong nghị viện cho thấy sự hình thành các Ủy ban trong Nghị viện mang tính tất yếu để đi đến một Nghị viện hoạt động chuyên nghiệp. Trong điều kiện thời gian làm việc của Nghị viện luôn bị hạn chế, thì việc duy trì hệ thống Ủy ban giúp cho công việc của Nghị viện được chia nhỏ 9 thành những nội dung cụ thể, cách làm này tiết kiệm được tối đa thời gian làm việc của Nghị viện. Tổ chức nghị viện thành các Ủy ban sẽ giúp cho các nghị sĩ được chuyên môn hóa và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với công việc phù hợp với trình độ chuyên môn của mình. Từ đó, các nghị sĩ sẽ có điều kiện đi sâu vào những vấn đề mình quan tâm và có điều kiện theo dõi tốt hơn các hoạt động của ngành hành pháp trong lĩnh vực mình phụ trách cũng như dễ dàng hơn trong việc tạo ra mạng lưới các mối quan hệ có liên quan đến công việc của mình. Trên thực tế là nghị viện phải ra quyết định của mình dựa trên đa số và nghị viện thường thiếu thông tin để đưa ra các quyết định của mình cũng như các thông tin để kiểm tra các quyết định của mình được thực hiện thế nào trên thực tế. Nhằm tăng thêm tính chắc chắn cho các quyết định của nghị viện, giải pháp được lựa chọn là Nghị viện thành lập và giao nhiệm vụ cho Ủy ban gồm các nghị sĩ có chuyên môn để tiến hành thu thập và xử lý thông tin làm cơ sở cho các quyết định của nghị viện. Các Ủy ban chuyên trách này gồm các nghị sĩ với năng lực chuyên môn sâu, có thể thu thập thông tin một cách có hiệu quả để phục vụ cho nhu cầu chung của nghị viện thông qua các kênh thông tin cá nhân hoặc của cả Ủy ban. Rõ ràng những thông tin này có giá trị cho tất cả các thành viên còn lại và họ sẽ cảm thấy yên tâm hơn với những thông tin nhận được từ những đại biểu Quốc hội có kinh nghiệm về lĩnh vực mà Quốc hội đang xem xét. 1.1.2. Sự ra đời Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban trong Quốc hội nƣớc ta Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các cơ quan của Quốc hội nước ta chúng ta thấy, các cơ quan này đã có một quá trình phát triển liên tục, lâu dài gắn liền với hoạt động của Quốc hội. Ngay trong khóa Quốc hội Khóa I từ 1946 đến 1960 (trong Hiến pháp 1946 gọi là Nghị viện nhân dân), dù chưa có Luật tổ chức Quốc hội và trong Hiến pháp cũng không quy định cụ 10 thể về việc thành lập các Ủy ban nhưng không phải vì vậy mà Quốc hội không có các Ủy ban. Trên thực tế, để xem xét các dự án luật do Chính phủ trình, Quốc hội đã thành lập các tiểu ban xem xét các dự án luật đó. Các tiểu ban này do Quốc hội lập ra tại kỳ họp và sau khi hoàn thành nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật thì tự giải thể [42, tr. 12-13]. Sau khi Hiến pháp 1959 được Quốc hội Khóa I thông qua tại kỳ họp thứ 11, ngày 31-12-1959 và Luật tổ chức Quốc hội được Quốc hội Khóa II thông qua tại kỳ họp thứ nhất, ngày 14-7-1960 thì tổ chức và nhiệm vụ của các Ủy ban dự án pháp luật, Ủy ban kế hoạch và ngân sách đã được quy định rõ tại Điều 57 của Hiến pháp năm 1959 và các Điều 33, 34, 35 và 36 Luật tổ chức Quốc hội năm 1960. Tại Điều 57 của Hiến pháp năm 1959 còn quy định cho Quốc hội "có thể thành lập những Ủy ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội". Theo đúng quy định tại Điều này, trong Báo cáo tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa II, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã "đề nghị với Quốc hội thành lập Ủy ban dân tộc của Quốc hội để giúp Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc nghiên cứu các vấn đề luật pháp có quan hệ đến quyền tự trị, đến đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các dân tộc thiểu số" [30, tr. 173]. Quốc hội đã tán thành đề nghị trên đây và ngày 20/4/1961 đã đề ra Nghị quyết thành lập Ủy ban dân tộc. Cùng với tinh thần đó, ngày 30-4-1963 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa II đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban thống nhất của Quốc hội [30, tr. 1249-1251]. Như vậy là trong Khóa II Quốc hội đã thành lập 4 ủy ban. Quốc hội Khóa III (1964-1971) thành lập thêm Ủy ban Văn hóa và Xã hội [31, tr. 1155-1158] cùng với 4 Ủy ban có tên gọi như 4 Ủy ban của Quốc hội Khóa II. Đến Quốc hội Khóa IV, sáu Ủy ban đã được thành lập trong đó 5 Ủy ban có tên gọi như 5 Ủy ban của Quốc hội Khóa III và 1 Ủy ban mới là Ủy ban Đối ngoại [32, tr. 526-527]. Sáu Ủy ban có tên gọi như của Quốc hội Khóa IV đã được thành lập trong Quốc hội Khóa V và Quốc hội Khóa VI. 11 Trong Quốc hội các Khóa VII, VIII, IX, X và XI đều thành lập 8 cơ quan của Quốc hội theo Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 và Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 nhưng có thay đổi tên gọi do có sự phân công lại lĩnh vực Ủy ban phụ trách hoặc cho phù hợp với tổ chức và hoạt động của cơ quan đó. Đến Khóa XII thì Quốc hội thành lập 10 cơ quan quan của Quốc hội. theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức của Quốc hội (Luật số 83/2007/QH11 ngày 11-4-2007) với 7 cơ quan giữ nguyên tên gọi trước đây và 3 Ủy ban mới là Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. (xem thêm Phụ lục I, Thống kê số cơ quan của Quốc hội mỗi khóa và số thành viên của mỗi cơ quan đó) 1.1.3. Khái niệm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội Theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội thành lập. Có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội thành lập có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc 12 hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Hội đồng Dân tộc (Điều 26, Luật tổ chức Quốc hội) 1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc; 2. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số; 3. Tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực hiện các văn bản đó; 4. Kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc của Nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến dân tộc thiểu số. 13 Ủy ban Pháp luật (Điều 27, Luật tổ chức Quốc hội; Khoản 2, Điều 28, Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội) 1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, về hình sự, dân sự, hành chính và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao, dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đề nghị của cơ quan khác, của tổ chức, của đại biểu Quốc hội về xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị của đại biểu Quốc hội về luật, pháp lệnh; 2. Chủ trì thẩm tra đề án về thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 3. Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án, các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 4. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua; 5. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, về hình sự, dân sự, hành chính; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách; giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát hoạt động điều tra, thi hành án; 6. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan 14 nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách; 7. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan, các biện pháp cần thiết nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật. Ủy ban Tƣ pháp (Điều 27a, Luật tổ chức Quốc hội) 1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; 2. Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án; thẩm tra các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; chủ trì thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng; 3. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; 4. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách; 15 5. Giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng; 6. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp. Ủy ban Kinh tế (Điều 28, Luật tổ chức Quốc hội) 1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính, tiền tệ và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; 2. Chủ trì thẩm tra dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương, tổng quyết toán ngân sách nhà nước; 3. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính, tiền tệ; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện dự toán ngân sách nhà nước và việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ; 4. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Uỷ ban phụ trách; 5. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các vấn đề về quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính, tiền tệ. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan