Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phầ...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần thương mại xây lắp công nghiệp Thăng Long

.DOC
69
255
73

Mô tả:

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT Lời mở đầu................................................................................................. Chương I:Lý luận chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp.................... I.Tổng quan về đấu thầu................................................................................. 1.Khái niệm chung....................................................................................... 1.1.Đấu thầu............................................................................................ a.Sự cần thiết của việc ban hành luật đấu thầu................................... b.Khái niệm đấu thầu : Có rất nhiều những quan điểm...................... c. Phân loại các hình thức đấu thầu.................................................... c.1Dựa vào hình thức lựa chọn nhà thầu............................................................... c.2Dựa vào phương thức áp dụng đấu thầu........................................................ c.3Dựa vào tính chất nội dụng của công việc gói thấu phân thành:.................... 1.2.Đấu thầu xây lắp.............................................................................15 2.Pháp luật về đấu thầu và đấu thầu xây lắp.......................................... II.Pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực đấu thầu xây lắp.......... 1.Các quy định cơ bản của pháp luật đấu thầu...................................... 2.Khái quát về quy trình đấu thầu........................................................... 2.1. Chuẩn bị đấu thầu..........................................................................24 2.2. Tổ chức đấu thầu...........................................................................27 2.3. Đánh giá hồ sơ dự thầu.................................................................28 2.4. Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu.....................................29 2.5. Thông báo kết quả đấu thầu..........................................................30 2.6. Thương thảo, hoàn thiện hợp đồng và ký kết hợp đồng.................31 3.Chế định ký kết hợp đồng trong đấu thầu cung ứng và xây............. a. Hình thức trọn gói......................................................................... b. Hình thức theo đơn giá................................................................. c. Hình thức theo thời gian............................................................... d . Hình thức theo tỷ lệ phần trăm.................................................... 4.Các chế tài xử lý các vi phạm pháp luật về đấu thầu ......................... Chương II: Thực tiễn áp dụng pháp luật đấu thầu tron......................36 I.Tổng quan về Công ty cổ phần thương mại xây lắp Công nghiệp Thăng Long.................................................................................................... 1.Sơ lược lịch sử hình thành và quá trình phát triể............................... 2.Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ chủ yếu..................................... 3. Hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh trong.............................. II.Khái quát chung hoạt động đấu thầu xây lắp của Công ty................... 1.Tư cách pháp lý, vai trò của Công ty Thăng Long trong các cuộc đấu thầu...................................................................................................... 2.Năng lực của Công ty cổ phần thương mại xây lắp Công nghiệp Thăng Long trong tổ chức và tham gia đấu thầu................................... a.Năng lực tài chính.......................................................................... b.Năng lực tổ chức............................................................................ c.Nguồn lực con người..................................................................... 3. Thành tựu, kết quả tiêu biểu trong công tác đấu .............................. III. Quy trình thực tham gia dự thầu cung ứng thiết bị........................ 1.1. Quy trình tham gia dự thầu cung ứng thiết bị và thi công công....52 1.1.1 Chuẩn bị Hồ sơ dự thầu........................................................... 1.1.2. Khi dự thầu nhà thầu phải nộp................................................ a. Nộp Hồ sơ dự thầu và tham gia mở thầu..................................... b. Thương thảo và ký kết hợp đồng.................................................. c. Triển khai thực hiện gói thầu....................................................... Chương III: Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp........................61 I. Nhìn nhận và đánh giá các quy định của pháp luật về đấu thầu........ 1.Ưu điểm................................................................................................... 2.Nhược điểm............................................................................................. II.Đánh giá việc áp dụng pháp luật đấu thầu tại Công ty cổng................ 1.Kết quả đạt được.................................................................................... III.Kiến nghị................................................................................................... 1.Kiến nghị với nhà nước.......................................................................... Kết luận.................................................................................................... 70 Lời mở đầu Cơ chế kinh tế thị trường đã và đang làm thay đổi bộ mặt của đất nước trong những năm vừa qua. Mức độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm vừa qua tương đối cao và có tính chất bền vững. Nhà nước đang thực hiện chính sách đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Để có thể thực hiện được điều này thì Nhà nước đã không ngừng khuyến khích mọi ngành nghề thuộc nền kinh tế quốc dân bằng những chính sách hợp lý.Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, chính sách Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước lại càng được nhà nước đặt ưu tiên lên hang đầu. Với những chính sách mới của Nhà nước thì các doanh nghiệp có “đất” để thể hiện mình khi mà đất nước đã hội nhập nền kinh tế thế giới và đặc là gia nhập tổ chức kinh tế toàn cầu WTO. Và cái mảnh “đất” ấy không hề dễ chịu cho các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh mình để có thể thích nghi được với mảnh đất đầy khó khăn trên. Một phương thức mà Nhà nước góp phần giúp đở các doanh nghiệp sống trên mảnh đất bé đấy là Luật Đấu thầu 2005 và các Nghị định hướng dẫn thi hành giúp cho các doanh nghiệp sống trên mảnh “đất ” đó có thể cạnh tranh lành mạnh và có thể phát triển một cách công bằng. Do vậy ta có thể thấy được tầm quan trọng của công tác đấu thầu lớn như thế nào tới sự phát triển của đất nước nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng. Hiện nay, đấu thầu xây lắp đã trở thành một hoạt động phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Nó không những giúp cho các chủ đầu tư chọn được cho mình nhà thầu đủ năng lực và đáp ứng được với yêu cầu của gói thầu. Không những vậy việc đấu thầu giúp cho các nhà thầu ngày càng hoàn thiện mình và nâng cao năng lực của mình để có thể tham gia đấu thầu các gói thầu khác. Một minh chứng đó là trong những năm qua, nhờ có hoạt động đấu thầu mà Công ty cổ phần thương mại xây lắp công nghiệp Thăng Long đã và đang khẳng định vị thế của mình trong ngành xây lắp của đất nước. Công ty đã không ngừng nâng cao trình độ của các công nhân viên và đầu tư trang thiết bị thuộc lại hiện đại nhất để có thể đáp ứng được các gói thầu khó khăn nhất. Qua những hiểu biết mà em được học tại trường và những kiến thức thực tế được tiếp xúc tại công ty, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần thương mại xây lắp công nghiệp Thăng Long” Chương I:Lý luận chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp I.Tổng quan về đấu thầu 1.Khái niệm chung 1.1.Đấu thầu a.Sự cần thiết của việc ban hành luật đấu thầu Việc ban hành Luật đấu thầu là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý dự án, khắc phục các tồn tại hiện có để mang lại hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng các nguồn tiền còn hạn hẹp của đất nước, đồng thời cũng xuất phát từ các lý do sau đây: Một là, chủ trương ban hành văn bản pháp luật có tính pháp lý cao về đấu thầu đã được Quốc hội thông qua từ nhiều năm trước đây. Dự án Pháp lệnh đấu thầu (PLĐT) đã được Quốc hội khóa X đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 1999 và tiếp đó luôn được đưa vào chương trình xây dựng pháp luật hàng năm. Đến tháng 6/2005, Dự án PLĐT đã qua 10 lần dự thảo, trong đó Dự thảo lần 10 đã được Chính phủ thông qua và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Tuy nhiên, do tầm quan trọng của công tác đấu thầu, phù hợp với xu hướng tăng cường ban hành luật của Quốc hội và yêu cầu hội nhập quốc tế, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ nâng Pháp lệnh đấu thầu thành Luật đấu thầu. Hai là, việc ban hành Luật đấu thầu sẽ tạo ra sự thống nhất trong quy định đối với việc chi tiêu sử dụng vốn nhà nước, từ đó khắc phục được những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện do có các quy định khác nhau về đấu thầu tại nhiều văn bản pháp lý. Vấn đề chi tiêu sử dụng nguồn vốn nhà nước luôn phức tạp, tiềm ẩn các hành vi gây thất thoát, tiêu cực nên mỗi nước đều ban hành các văn bản pháp lý cao nhất để quản lý với tên gọi như Luật Mua sắm công,… Ba là, để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, việc ban hành Luật đấu thầu sẽ tăng cường tính pháp lý cao nhất của các quy định về đấu thầu, phù hợp với xu hướng luật hóa của nước ta và các nước trên thế giới. Bốn là, Luật đấu thầu được ban hành sẽ làm cơ sở pháp lý chủ yếu, là Luật gốc về đấu thầu đối với các hoạt động chi tiêu sử dụng vốn nhà nước, đồng thời là khung pháp lý cho các đối tượng khác áp dụng khi xét thấy phù hợp. Hiện tại, khá nhiều văn bản Luật chuyên ngành khi đề cập về đấu thầu thường quy định là phải thực hiện theo các quy định của pháp luật về đấu thầu (được hiểu là Luật đấu thầu). Theo đó, Luật đấu thầu được ban hành sẽ làm căn cứ dẫn chiếu cho các luật khác, tạo sự thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện. Năm là, việc ban hành Luật đấu thầu chắc chắn sẽ là sự kiện có tính thuyết phục cao trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vì đây sẽ là một minh chứng thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng cao địa vị pháp lý, tăng cường tính công khai, minh bạch của công tác đấu thầu tại Việt Nam. Đồng thời, Quy chế Đấu thầu hiện hành cũng như Dự thảo Luật đấu thầu được soạn thảo về cơ bản phù hợp với thông lệ đấu thầu mua sắm công trên thế giới, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các quy định mua sắm công của các nước và của các tổ chức quốc tế, như quy định của các nhà tài trợ WB, ADB, JBIC…, Luật mẫu của UNCITRAL về đấu thầu (do Uỷ ban Luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc ban hành), Luật Mua sắm công của một số nước trên thế giới…. b.Khái niệm đấu thầu : Có rất nhiều những quan điểm khác nhau vế đấu thầu, theo từ điển tiếng việt thì đấu thầu được hiểu là việc tổ chức cuộc so đọ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được chấp nhận. Theo đó, thì đấu thầu là cuộc đọ sức công khai giữa các tổ chức kinh tế và tài chính Theo quan điểm của nhà thầu thì, khái niệm đấu thầu được hiểu là một phương thức kinh doanh mà thông qua đó nhà thầu với điều kiện và khả năng về năng lực tài chính, kỹ thuật, tiến độ đáp ứng được cơ bản các yêu cầu của Bên mời thầu, có cơ hội dành được hợp đồng, thực hiện các công việc của gói thầu. Theo quan điểm của Bên mời thầu đấu thầu là hính thức lựa chọn nhà thầu tốt nhất đáp ứng được các yêu cầu về kinh tế, về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ thi công và chi phí xây dựng công trình. Quan điểm này cũng như theo điều 4.2 của Luật đấu thầu năm 2005 quy định Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 của Luật đấu thầu trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Quan niệm theo quan hệ hợp đồng hoạt động đấu thầu là quan hệ hợp đồng giữa bên mua ( Bên mời thầu) và bên bán ( các nhà thầu). Tuy nhiên nó đặc biệt hơn vì đây là quan hệ trong đó chỉ có một người mua nhưng rất nhiều người bán Xét về bản chất đấu thầu là phương thức lựa chọn đối tác. Sau khi đấu thầu , bên mời thầu xếp hạng được một danh sách ưu tiên giao kết hợp đồng. Người trúng thầu là người đứng đầu danh sách ưu tiên giao kết hợp đồng.. Nguời trúng thầu là người đứng đầu danh sách được ưu tiên thương thảo, ký kết đầu tiên, nếu không thành sẽ đến người tiếp theo. Pháp luật về hợp đồng không điều chỉnh việc lựa chọn đối tác, mà đó là quyền tự do của các chủ thể giao kết hợp đồng. Hình thức củ hợp đồng giao kết thông qua đấu thầu phải bằng văn bản. Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được người có thẩm quyền phê duyệt Tóm lại các quan điểm trên được nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau, nhưng có thể rút lại chung khái niệm đấu thầu, đó là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng cơ bản các yêu cầu của bên mời thầu nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch, và hiệu quả kinh tế cho gói thầu. c. Phân loại các hình thức đấu thầu c.1Dựa vào hình thức lựa chọn nhà thầu *Đấu thầu rộng rãi Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thấu không hạn chế số lượng nhà thầu tham dự. Việc lựa chọn nhà thầu để thực hiện các dự án sau đây phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi bao gồm các dự án sau đây: - Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển, bao gồm: + Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư xây dựng; +) Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt; +) Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn; + Dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật; + Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển; - Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; - Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải tạo, sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trình, nhà xưởng đã đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đối với đấu thầu rộng rãi, không hạn chế số lượng nhà thầu tham dự. Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải thông báo mời thầu để các nhà thầu biết thông tin tham dự. Bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời thầu cho các nhà thầu có nhu cầu tham gia đấu thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. *Đấu thầu hạn chế Trong trường hợp này truớc khi phát hành hồ sơ mời thầu, chủ đầu tư sẽ phê duyệt danh sách nhà thầu được coi là có đủ năng lực và kinh nghiệm để mời tham gia đấu thầu. Trên cơ sở Bên mời thầu sẽ gửi thư mời thầu tới các nhà trong danh sách đó, tuy nhiên phải mời tối thiểu 5 nhà thầu, trường hợp thực tế có ít hơn 5 nhà thầu, chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyển xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc hạn chế hoặc được áp dụng hình thức lựa chọn khác Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong các trường hợp sau đây( Điều 19 Luật đấu thầu) - Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu; - Gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Khi thực hiện đấu thầu hạn chế, phải mời tối thiểu năm nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm tham gia đấu thầu; trường hợp thực tế có ít hơn năm nhà thầu, chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa chọn khác. c.2Dựa vào phương thức áp dụng đấu thầu -Phương thức đấu thầu một túi hồ sơ được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC. Nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành một lần. - Phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính của tất cả các nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét, thương thảo. - Phương thức đấu thầu hai giai đoạn Được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, đa dạng và được thực hiện theo trình tự sau đây: + Trong giai đoạn một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có giá dự thầu; trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai; + Trong giai đoạn hai, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất về kỹ thuật; đề xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu. - Chỉ định thầu Chỉ định thầu được áp dụng trong các trường hợp sau đây: + Sự cố bất khả kháng do thiên tai, địch họa, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ định ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó phải cùng với nhà thầu được chỉ định tiến hành thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm ngày kể từ ngày chỉ định thầu; + Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài; + Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng Chính phủ quyết định khi thấy cần thiết; + Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng công suất của thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo đảm tính tương thích của thiết bị, công nghệ; + Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp có giá gói thầu dưới một tỷ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển; gói thầu mua sắm hàng hóa có giá gói thầu dưới một trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc dự toán mua sắm thường xuyên; trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu. Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy trình thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định. Trước khi thực hiện chỉ định thầu quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 1 Điều này, dự toán đối với gói thầu đó phải được phê duyệt theo quy định. - Mua sắm trực tiếp + Mua sắm trực tiếp được áp dụng khi hợp đồng đối với gói thầu có nội dung tương tự được ký trước đó không quá sáu tháng. + Khi thực hiện mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được lựa chọn thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự. + Đơn giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không được vượt đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp đồng trước đó. + Được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương tự thuộc cùng một dự án hoặc thuộc dự án khác. - Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm hàng hóa Chào hàng cạnh tranh được áp dụng trong trường hợp có đủ các điều kiện sau đây: + Gói thầu có giá gói thầu dưới hai tỷ đồng; + Nội dung mua sắm là những hàng hoá thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau về chất lượng. + Khi thực hiện chào hàng cạnh tranh, phải gửi yêu cầu chào hàng cho các nhà thầu. Nhà thầu gửi báo giá đến bên mời thầu một cách trực tiếp, bằng fax hoặc qua đường bưu điện. Đối với mỗi gói thầu phải có tối thiểu ba báo giá từ ba nhà thầu khác nhau. -Tự thực hiện + Hình thức tự thực hiện được áp dụng trong trường hợp chủ đầu tư là nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thuộc dự án do mình quản lý và sử dụng. + Khi áp dụng hình thức tự thực hiện, dự toán cho gói thầu phải được phê duyệt theo quy định. Đơn vị giám sát việc thực hiện gói thầu phải độc lập với chủ đầu tư về tổ chức và tài chính. c.3Dựa vào tính chất nội dụng của công việc gói thấu phân thành: + Đấu thầu tuyển chọn tư vấn thiết kế kiến trúc công trính xây dựng Tư vấn đầu tư và xây dựng là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về trình độ chuyên môn để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình hình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư Việc lựa chọn nhà thầu tư vấn được thực hiện theo quy định của luật xây dựng được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2003. Tại Điều 55 của luật này quy định: các công trình sau đây trứoc khi lập dự án đầu tư xây dựng phải thi tuyển thiết kế kiến trúc: -Trụ sớ chính - Các công trình văn hóa, thể thao, các công trình, công cộng có quy mô lớn. - Các công trình có kiến trúc đặc thù + Đấu thầu mua sắm hàng hóa Khái niệm: đấu thầu mua sắm hàng hóa là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở sự cạnh tranh giữa các nhà thầucung cấp. Hàng hóa ở đây là có thể là máy móc, phương tiện vận chuyển, thiết bị, bản quyền sở hữu công nghiệp, nguyên liệu, nhiên liệu, vât liệu, hàng tiêu dung,( thành phẩn, bán thành phẩn) +Đấu thầu để lựa chọn đối tác thực hiện dự án Đây là quá trình lựa chọn đối tác để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó. Căn cứ vào danh mục đầu tư hàng năm do Chính phủ công bố hoặc nhà đầu tư đề xuất nếu dự án có từ hai đối tác trở lên lien quan thực hiện thì phải tiến hành đấu thầu để người có thẩm quyền có cơ sỏ xem xét lựa chọn đối tác để thực hiện dự án dưới dạng sau .Dự án đang là ý tưởng -Dự án đã có báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi được duyệt -Yêu cầu vệ một số nội dung công việc Đấu thầu trong xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các hạng mục công trình. Là phương. thức mà chủ đầu tư sử dụng để cạnh tranh giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một đơn vị có khả năng thực hiện tốt nhất các yêu cầu của dự án đầu tư xây dựng công trình 1.2.Đấu thầu xây lắp -Khái niệm Đấu thầu trong xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các hạng mục công trình. Là phương. thức mà chủ đầu tư sử dụng để cạnh tranh giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một đơn vị có khả năng thực hiện tốt nhất các yêu cầu của dự án đầu tư xây dựng công trình . 2.Pháp luật về đấu thầu và đấu thầu xây lắp + Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng - Sự ra đời của pháp luật đấu thầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ tại cuộc họp ngày 29/6/2005 đã thống nhất nâng Dự án Pháp lệnh Đấu thầu lên thành Dự án Luật Đấu thầu. Luật đấu thầu được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp tháng 11/2005 thay thế cho Qui chế đấu thầu trước đây là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý dự án, khắc phục các tồn tại hiện có để mang lại hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng các nguồn vốn còn hạn hẹp của đất nước. Vấn đề chi tiêu và sử dụng các nguồn vốn, nhất là nguồn vốn ngân sách luôn phức tạp và tiềm ẩn các hành vi gây thất thoát. Việc ban hành Luật Đấu thầu sẽ tạo ra sự thống nhất trong qui định đối với việc sử dụng các nguồn vốn, từ đó khắc phục được những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện do có nhiều qui định khác nhau về đấu thầu tại nhiều văn bản pháp lý trước đây. Luật đấu thầu thực hiện từ 1/4/2006 và các Nghị định hướng dẫn được ban hành sẽ làm cơ sở pháp lý chủ yếu, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và tình hình kinh tế – xã hội của đất nước, phù hợp với xu hướng luật hóa của Việt Nam và các nước trên thế giới. Mặt khác, việc ban hành Luật Đấu thầu sẽ là thông tin có tính thuyết phục cao trong quá trình gia nhập WTO vì đây là một minh chứng thể hiện tính công khai, minh bạch của công tác đấu thầu, phù hợp với thông lệ đấu thầu mua sắm công trên thế giới. Việt nam đang trong giai đoạn phát triển bước đầu, do vậy công việc về xây dựng cơ sở hạ tầng là một vấn đề tất yếu , không thể thiếu để đáp ứng được với những yêu cầu phát triển kinh tế . Việc Nhà nước ban hành Luật đấu thầu nói chung và Đấu thầu xây lắp nói riêng là một hệ quả tất yếu . Ở nước ta pháp luật về đấu thầu nói chung và pháp luật về đấu thầu xây lắp nói riêng, là đang trong quá trình hoàn thiện, nên những quy định đang còn thiếu tính chặt chẽ và chưa đồng bộ. Đấu thầu xây lắp được điểu chỉnh bởi nhiều văn bản cụ thể như sau : Luật Đấu thầu 2005 Luật Xây dựng số 16/2003/QH11. Nghị định 111/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Quyết định 06/2005/QĐ-BGTVT của Bộ giao thông vận tải về việc ban hành “ Một số quy định trong công tác Đấu thầu xây lắp các dự án đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn trong nước do Bộ giao thông vận tải quản lý”. Quyết định 1626/2005/QĐ-BGTVT của Bộ giao thông vận tại về việc ban hành một số quy định trong công tác Đấu thầu xây lắp đối với các dự án đầu tư do Bộ giao thông vận tải quản lý. Quyết định 60-BXD-VKT của Bộ Xây dựng về việc ban hành quy chế Đấu thầu xây lắp. -Những bất cập của công tác đấu thầu tại thời điểm chưa ban hành luật đấu thầu . Việt Nam là một đất nước có nền kinh tế thuộc loại yếu trên thế giới. Sau một khoảng thời gian dài đất nước bị khủng hoảng vì chiến tranh, tình hình kinh tế trong đất nước đã tụ hậu rất xa so với các nước trên thế giới. Không những vậy, những chính sách chỉ đạo khắc phục nền kinh tế sau một thời gian dài “ngủ quên” vì chiến tranh lại không hợp lý. Đó là Nhà nước đã quá cứng nhắc trong quá trình dập khuôn chính sách phát triển kinh tế của Nga và Trung Quốc. Nền kinh tế thì theo cơ chế bao cấp, nên tính cạnh tranh không có, và quá phụ thuộc vào các chính sách của nhà nước. Các doanh nghiệp lúc bấy giờ “ Sống cũng không được, chết cũng không xong”. Nhưng sau khi có những thay đổi tích cực trong công tác xây dựng lại nền kinh tế và chuyển dần từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Việc cạnh tranh trong công tác đấu thầu đã có những chuyển biến mới tuy là chưa hoàn toàn theo kịp với những nước phát triển. Ngoài những tiến bộ đã đạt được thì (đê) -Sự cần thiết có Luật đấu thầu mới. Việc ban hành Luật đấu thầu là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý dự án, khắc phục các tồn tại hiện có để mang lại hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng các nguồn tiền còn hạn hẹp của đất nước, đồng thời cũng xuất phát từ các lý do sau đây: Một là, chủ trương ban hành văn bản pháp luật có tính pháp lý cao về đấu thầu đã được Quốc hội thông qua từ nhiều năm trước đây. Dự án Pháp lệnh đấu thầu (PLĐT) đã được Quốc hội khóa X đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 1999 và tiếp đó luôn được đưa vào chương trình xây dựng pháp luật hàng năm. Đến tháng 6/2005, Dự án PLĐT đã qua 10 lần dự thảo, trong đó Dự thảo lần 10 đã được Chính phủ thông qua và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Tuy nhiên, do tầm quan trọng của công tác đấu thầu, phù hợp với xu hướng tăng cường ban hành luật của Quốc hội và yêu cầu hội nhập quốc tế, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ nâng Pháp lệnh đấu thầu thành Luật đấu thầu. Hai là, việc ban hành Luật đấu thầu sẽ tạo ra sự thống nhất trong quy định đối với việc chi tiêu sử dụng vốn nhà nước, từ đó khắc phục được những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện do có các quy định khác nhau về đấu thầu tại nhiều văn bản pháp lý. Vấn đề chi tiêu sử dụng nguồn vốn nhà nước luôn phức tạp, tiềm ẩn các hành vi gây thất thoát, tiêu cực nên mỗi nước đều ban hành các văn bản pháp lý cao nhất để quản lý với tên gọi như Luật Mua sắm công,… Ba là, để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, việc ban hành Luật đấu thầu sẽ tăng cường tính pháp lý cao nhất của các quy định về đấu thầu, phù hợp với xu hướng luật hóa của nước ta và các nước trên thế giới. Bốn là, Luật đấu thầu được ban hành sẽ làm cơ sở pháp lý chủ yếu, là Luật gốc về đấu thầu đối với các hoạt động chi tiêu sử dụng vốn nhà nước, đồng thời là khung pháp lý cho các đối tượng khác áp dụng khi xét thấy phù hợp. Hiện tại, khá nhiều văn bản Luật chuyên ngành khi đề cập về đấu thầu thường quy định là phải thực hiện theo các quy định của pháp luật về đấu thầu (được hiểu là Luật đấu thầu). Theo đó, Luật đấu thầu được ban hành sẽ làm căn cứ dẫn chiếu cho các luật khác, tạo sự thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện. Năm là, việc ban hành Luật đấu thầu chắc chắn sẽ là sự kiện có tính thuyết phục cao trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vì đây sẽ là một minh chứng thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng cao địa vị pháp lý, tăng cường tính công khai, minh bạch của công tác đấu thầu tại Việt Nam. Đồng thời, Quy chế Đấu thầu hiện hành cũng như Dự thảo Luật đấu thầu được soạn thảo về cơ bản phù hợp với thông lệ đấu thầu mua sắm công trên thế giới, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các quy định mua sắm công của các nước và của các tổ chức quốc tế, như quy định của các nhà tài trợ WB, ADB, JBIC…, Luật mẫu của UNCITRAL về đấu thầu (do Uỷ ban Luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc ban hành), Luật Mua sắm công của một số nước trên thế giới…. II.Pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực đấu thầu xây lắp 1.Các quy định cơ bản của pháp luật đấu thầu -.Đối tượng áp dụng Đối tượng áp dụng của Luật Đấu thầu là các tổ chứ , cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động đấu thầu các gói thầu thuộc các dự an quy định ở trên; các tổ chức, cá nhân lien quan đến hoạt động đấu thầu các gói thầu thuộc các dự án đó. Ngoài ra các đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu cũng được lựa chọn áp dụng các quy định của Luật Đấu thầu, bởi vì trên thực tế các tổ chức, cá nhân Đấu thầu các dự án không sử dụng vốn nhà nướ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế đấu thầu hiện hành. - Phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu Phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu là các dự án sử dụng vốn nhà nước, cụ thể được tập trung ở 3 nhóm dự án căn cứ và tỷ lệ vốn nhà nước, lĩnh vực đầu tư, đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng vốn nhà nước, cụ thể là : Nhóm một, bao gồm các dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển ; trong đó bao gồm các loại dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các các dự án đã đầu tư xây dựng; dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt; dự án quy hoạch phát triển vùng , quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn; dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Hỗ trợ kỹ thuật và các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển; Nhóm hai, bao gồm các dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ ban nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội , tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp , tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; Nhóm ba, bao gồm các dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải tạo, sử chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trình, nhà xưởng đã đầu tư cảu doanh nghiệp nhà nước. - Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp công nghiêp Nguyên tắc cọi trọng tính hiệu quả Gói thầu cung ứng và xây lắp phải được tiến hành trên cơ sở tính toán kĩ về hiệu quả kinh tế - xã hội mà nó mang lại. Chỉ tổ chức đấu thầu khi bên mời thầu chứng minh được ưu thế và lợi ích của công tác đấu thầu so với các hình thức khác. Không được lợi dụng công tác đấu thầu để thu lời bất chính cho các cơ quan tổ chức, cá nhân có lien quan. Việc lựa chọn hình thức, phương thức đấu thầu nào cũng phải xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của từng gói thầu, sao cho nó đạt tính hiệu quả cao nhất . Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan