Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở việt nam...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở việt nam

.PDF
176
45
134

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 9.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ HÀ NỘI – 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là sản phẩm nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, trên cơ sở định hướng khoa học của Người hướng dẫn khoa học. Các số liệu, dẫn chứng được trích dẫn trong luận án đảm bảo tính chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Phạm Thị Thi MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU ......................................................................................... 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................. 9 1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu........................................................................ 22 Kết luận chương 1 ................................................................................................... 26 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ, PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ .............................................................................. 27 2.1. Lý luận về chế độ hưu trí........................................................................... 27 2.2. Lý luận pháp luật về chế độ hưu trí ........................................................... 41 2.3. Tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ............ 68 Kết luận chương 2 ................................................................................................... 73 Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM ......................................... 74 3.1. Thực trạng pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam .................................. 74 3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam .................... 97 Kết luận chương 3 ................................................................................................. 123 Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM ............................................................................................................ 124 4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ................................ 124 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam ................ 130 4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam ........................................................................................................ 143 Kết luận chương 4 ................................................................................................. 148 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Viết đầy đủ ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội BLLĐ Bộ luật Lao động BLTTDS CĐHT Công ước 102 CSR ILO HĐLĐ HTBSTN PAYG Bộ luật tố tụng dân sự Chế độ hưu trí Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility) Tổ chức lao động quốc tế (International Labour Organization) Hợp đồng lao động Hưu trí bổ sung tự nguyện Mô hình bảo hiểm xã hội thực thanh thực chi (Payas-you-go) NDC Mô hình tài khoản cá nhân tượng trưng MDC Mô hình có mức đóng xác định trước NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động QHLĐ Quan hệ lao động QPPL Quy phạm pháp luật TCLĐ Tranh chấp lao động DANH MỤC BẢNG, HÌNH Bảng 3.1: Về mức đóng BHXH của NLĐ ......................................................... 78 Bảng 3.2: Điều kiện về tuổi đời khi bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%. .................................................................................................. 84 Bảng 3.3: Số năm tham gia BHXH tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 45% của nam .......................................................................................... 87 Bảng 3.4: Số năm bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu... 88 Bảng 3.5: Số người tham gia BHXH .................................................................. 98 Bảng 3.6: Số thu quỹ hưu trí và tử tuất giai đoạn 2009-2017 ..........................100 Bảng 3.7: Đối tượng được giải quyết hưởng quyền lợi CĐHT .......................101 Hình 3.1: Tỷ lệ làm việc sau tuổi nghỉ hưu ..................................................... 112 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cuộc đời mỗi con người thường phải tham gia các hoạt động lao động bằng việc sử dụng sức lao động (trí óc hoặc chân tay) để tạo ra thu nhập, giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần nhằm phục vụ các nhu cầu của bản thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, sức lao động của con người không vô hạn cũng như con người luôn phải đối diện với nhiều rủi ro từ cuộc sống như: bệnh tật, tai nạn, thất nghiệp, già yếu,... Khi đó, khả năng lao động của con người bị giảm sút, thậm chí là mất khả năng lao động nên không thể tạo ra thu nhập hoặc tạo ra thu nhập không đủ để đảm bảo cuộc sống của họ. Trong khi đó, con người luôn cần nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống khi rơi vào những hoàn cảnh tương tự nêu trên. Mặt khác, việc đảm bảo cuộc sống cho người dân, NLĐ trong những giai đoạn khó khăn như: đau ốm, thai sản, bệnh nghề nghiệp, không còn khả năng lao động,… không còn là nhiệm vụ của riêng bản thân cá nhân, NLĐ mà đó còn là nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, Việt Nam không là ngoại lệ: “Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,… mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” [88, Đ.3]. Cùng với sự nỗ lực để phát triển nền kinh tế đất nước, ổn định tình hình chính trị - xã hội trong nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: việc đảm bảo ASXH, phát triển chính sách xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng. Cụ thể, Nghị quyết 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020 khẳng định: “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”. Thêm vào đó, Nghị quyết 15-NQ/TW còn xác định, việc đảm bảo ASXH không chỉ là nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội [03]. Với vai trò góp phần đảm bảo thu nhập tối thiểu cho con người trong hoàn cảnh khó khăn, khủng hoảng hay góp phần chia sẻ rủi ro, thu hẹp khoảng cách về thu nhập 1 giữa các thành viên trong xã hội,… hệ thống ASXH và BHXH nói chung, CĐHT nói riêng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ cuộc sống con người ở từng giai đoạn, thời kỳ nhất định trong cuộc đời mỗi người. Bắt đầu bước vào giai đoạn “già hóa” dân số từ năm 2017, tính đến thời điểm tháng 6 năm 2019, tỷ lệ phụ thuộc tuổi già tại Việt Nam là 11,3% [148], dự đoán vào năm 2035 là 21,8% [13]. So với nhiều quốc gia trên thế giới, tốc độ già hóa dân số ở Việt Nam được đánh giá là khá nhanh với thời gian chuyển từ dân số “già hóa” sang dân số “già” được xem là ngắn hơn so với nhiều quốc gia trên thế giới. Cụ thể, để chuyển từ dân số “già hóa” sang dân số “già” thì Pháp mất 115 năm; Hoa Kỳ mất 69 năm; Anh mất 45 năm, Nhật Bản và Trung Quốc mất 27 năm; trong khi đó Việt Nam được dự đoán là mất 20 năm (2017-2037) [123]. Việc già hóa dân số diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam đã có những tác động nhất định đến nền kinh tế, xã hội,… Một trong số đó là tác động đến việc áp dụng các quy định về CĐHT cũng như ảnh hưởng đến sự cân đối của quỹ hưu trí và tử tuất (thuộc quỹ BHXH) trong thời gian đến. Điều này đã được đại diện của ILO khẳng định tại Hội thảo “Đánh giá tài chính quỹ hưu trí ở Việt Nam – Kết quả dự báo và những khuyến nghị” tổ chức ngày 01/8/2012 tại Hà Nội. Ngoài ra, đại diện của ILO còn chỉ ra một số vấn đề tồn tại trong hệ thống pháp luật về CĐHT ở nước ta như: độ tuổi về hưu của Việt Nam còn tương đối sớm, đặc biệt là phụ nữ, đó là chưa kể đến một bộ phận NLĐ được về hưu trước tuổi quy định; tỷ lệ sinh giảm trong khi tuổi thọ trung bình của người Việt ngày một tăng,… Những vấn đề nêu trên đều có tác động nhất định đến khả năng chi trả của quỹ hưu trí. “Diện bao phủ” - một trong những tiêu chí thể hiện tỷ lệ tham gia BHXH nói chung và CĐHT nói riêng. Nhằm mục đích mở rộng diện bao phủ, mở rộng tỷ lệ tham gia CĐHT ở nước ta, góp phần đảm bảo ASXH, ngày 29/3/2017, Hội thảo “Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội – Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho Việt Nam” được tổ chức tại Hà Nội. Phát biểu tại Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, tính đến hết năm 2016, cả nước có gần 13 triệu NLĐ tham gia BHXH chiếm khoảng 28% trong tổng số lực lượng lao động tham 2 gia thị trường lao động. Mặc dù, tỷ lệ tham gia BHXH (tương ứng với tỷ lệ tham gia CĐHT) có sự gia tăng qua các năm nhưng nhìn chung, tỷ lệ người tham gia các loại hình CĐHT ở nước ta còn ít, tỷ lệ tham gia BHXH còn thấp, “diện bao phủ” chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của thị trường lao động cũng như tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Trong khi đó, Nghị quyết 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách BHXH của Ban chấp hành Trung ương khóa XII xác định mục tiêu: phấn đấu đến năm 2021, có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 01% lực lượng lao động trong độ tuổi [05]. Xuất phát từ thực tiễn cũng như mục tiêu tại Nghị quyết 28-NQ/TW, việc mở rộng “diện bao phủ”, làm gia tăng tỷ lệ tham gia các loại hình CĐHT của người dân là việc làm cấp bách và cần thiết. Ngoài ý nghĩa góp phần quan trọng vào việc đảm bảo thu nhập cho người dân, NLĐ khi đã hết tuổi lao động, việc gia tăng, mở rộng diện bao phủ tham gia BHXH nói chung, CĐHT nói riêng còn góp phần xây dựng hệ thống ASXH bền vững của đất nước. Để pháp luật về CĐHT có thể phát huy được hết vai trò cũng như được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trong xã hội thì việc làm sáng tỏ các vấn đề mang tính lý luận là điều cần thiết. Bởi lẽ, dựa vào nguyên tắc, nội dung của pháp luật về CĐHT thì việc ban hành, hoàn thiện các quy định pháp luật sẽ mang tính khả thi hơn khi áp dụng vào trong cuộc sống. Đã có nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận của pháp luật về CĐHT. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây chỉ xem xét một số yếu tố, nội dung của CĐHT trên phương diện, giác độ nghiên cứu nội dung của BHXH. Trong khi đó, CĐHT là một bộ phận quan trọng của hệ thống ASXH nói chung và BHXH nói riêng. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận là việc làm cần thiết, trên cơ sở đó nhằm hoàn thiện hệ thống hưu trí toàn diện và hiệu quả; góp phần vào việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, an ninh – chính trị an toàn, xã hội công bằng, văn minh. Hiện nay, ngoài Luật BHXH năm 2014 - văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh chủ yếu về CĐHT ở nước ta thì cũng có nhiều văn bản QPPL hướng dẫn thi 3 hành về CĐHT. Theo đó, hệ thống CĐHT ở nước ta bao gồm: CĐHT theo loại hình BHXH bắt buộc; CĐHT theo loại hình BHXH tự nguyện; Chương trình HTBSTN; và hưu trí niên kim được quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi năm 2010. Có thể khẳng định, Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc ban hành các chính sách cũng như quy định hành lang pháp lý về CĐHT, tạo điều kiện, cơ hội để cá nhân, NLĐ tham gia CĐHT phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình nhằm đảm bảo cuộc sống khi đã hết độ tuổi lao động; góp phần đảm bảo công bằng ASXH. Mặc dù vậy, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT ở nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; chưa được toàn diện, gây khó khăn cho quá trình thực hiện pháp luật trong cuộc sống. Do đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT cũng như đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CĐHT là việc làm hết sức cần thiết, góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống ASXH bền vững, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước, xây dựng an ninh – chính trị an toàn, xã hội văn minh. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam” để nghiên cứu và thực hiện luận án trong chương trình đào tạo tiến sỹ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là xây dựng hệ thống lý luận của pháp luật về CĐHT, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT ở nước ta. Qua đó, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam, góp phần vào việc đảm bảo ASXH ở nước ta cũng như công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau: 4 - Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài để rút ra những điểm hợp lý để kế thừa từ các công trình nghiên cứu trước đó; xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu hoặc bổ sung nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra trong luận án. - Nghiên cứu các vấn đề lý luận của pháp luật về CĐHT như: khái niệm, vai trò, nguyên tắc... Ngoài ra, luận án còn tham khảo, nghiên cứu văn bản pháp lý quốc tế có liên quan đến quyền con người, các khuyến nghị quốc tế liên quan đến CĐHT, tuổi nghỉ hưu; và pháp luật của một số quốc gia xoay quanh pháp luật về CĐHT. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về CĐHT thông qua việc phân tích nội dung cơ bản cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT ở nước ta. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế của quy định pháp luật đã gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về CĐHT. - Thông qua việc nghiên cứu vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về CĐHT, luận án đề xuất phương hướng, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về CĐHT và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT tại Việt Nam. Ngoài ra, luận án còn nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, các văn kiện quốc tế liên quan đến CĐHT để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng, ban hành và hoàn thiện pháp luật về CĐHT phù hợp, hiệu quả. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định về CĐHT theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam nhưng chỉ xoay quanh trục chính là CĐHT trong hệ thống BHXH (theo loại hình BHXH bắt buộc, theo loại hình BHXH tự nguyện và Chương trình HTBSTN) được quy định tại Luật BHXH năm 2014 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Luận án không nghiên cứu các sản phẩm hưu trí thương mại do các công ty bảo hiểm cung cấp theo 5 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi năm 2010, nếu có thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu từ năm 2007 đến nay. Về không gian: Trong phạm vi cả nước. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, luận án vận dụng các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách hệ thống BHXH nói chung, xây dựng hệ thống hưu trí đa tầng, linh hoạt nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phối kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa; phương pháp so sánh luật học,…. đặc biệt là phương pháp phân tích QPPL. Tùy vào mục đích nghiên cứu của từng chương mà mức độ, sự kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu sẽ khác nhau. Cụ thể: Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp để đưa ra các đánh giá, nhận định về tình hình nghiên cứu nội dung liên quan đến luận án. Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh luật học để xây dựng khái niệm, phân tích các nội dung mang tính lý luận cơ bản của pháp luật về CĐHT. Chương 3: Sử dụng phương pháp phân tích QPPL; phương pháp so sánh luật học; phương pháp thống kê, lịch sử để làm rõ, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT ở nước ta. Chương 4: Sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống để xác định định hướng hoàn thiện pháp luật; đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CĐHT tại Việt Nam. 6 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án có những đóng góp mới về khoa học như sau: Thứ nhất, luận án hệ thống hóa, bổ sung và làm sâu sắc các vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về CĐHT. Cụ thể, xác lập khái niệm CĐHT và khái niệm pháp luật về CĐHT; làm rõ vai trò của pháp luật về CĐHT. Đặc biệt, dựa trên các nguyên tắc và tinh thần chung của pháp luật Việt Nam về ASXH, BHXH, CĐHT, luận án kế thừa và bổ sung một số nguyên tắc đặc thù của pháp luật về CĐHT - một nội dung mang tính lý luận quan trọng được ghi nhận và cụ thể hóa xuyên suốt quá trình ban hành, hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận án đã xác định một số tiêu chí nhằm đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về CĐHT ở nước ta. Thứ hai, song song với việc nghiên cứu CĐHT theo loại hình BHXH (bắt buộc và tự nguyện), luận án nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận, quy định pháp luật về Chương trình HTBSTN - một loại CĐHT mới ở nước ta được quy định trong Luật BHXH năm 2014. Thứ ba, luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách toàn diện và khách quan hệ thống pháp luật về CĐHT hiện hành; phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam. Qua đó, làm rõ những thành tựu và hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về CĐHT. Thứ tư, luận án xác định phương hướng cũng như đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trên cơ sở các nguyên tắc và quyền hiến định của các chủ thể có liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án - Về mặt lý luận, luận án góp phần bổ sung, phát triển các vấn đề mang tính lý luận của pháp luật về CĐHT; làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam; cung cấp bổ sung luận cứ để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam, góp phần vào mục tiêu đảm bảo ASXH, BHXH toàn dân. 7 - Về mặt thực tiễn, luận án góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về CĐHT ở Việt Nam. Đồng thời, luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, học tập và giảng dạy các vấn đề liên quan đến pháp luật về CĐHT nói riêng, pháp luật về ASXH, BHXH nói chung. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, danh mục công trình công bố liên quan đến đề tài, luận án được kết cấu gồm 04 chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết nghiên cứu. Chương 2: Những vấn đề lý luận về chế độ hưu trí, pháp luật về chế độ hưu trí. Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam. Chương 4: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu Việc đánh giá, phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài sẽ giúp luận án tránh được tình trạng trùng lặp về mặt nội dung. Qua đó, giúp luận án xác định được những điểm mới cần nghiên cứu, cần làm sáng tỏ. 1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quyền con người, quyền hưởng an sinh xã hội, quyền hưởng bảo hiểm xã hội Nhiều công trình nghiên cứu về BHXH nói chung và CĐHT nói riêng thông qua việc nghiên cứu quyền con người trong lao động, quyền hưởng ASXH của công dân, hoặc nghiên cứu các quyền kinh tế - xã hội của con người. Cụ thể: - Cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, văn hóa và xã hội” (năm 2011) do GS.TS Võ Khánh Vinh làm chủ biên đã tiếp cận quyền hưởng BHXH dưới góc độ là quyền tham gia BHXH và quyền được hưởng các chế độ BHXH. Mặc dù không nghiên cứu chuyên sâu về CĐHT nhưng tài liệu này cũng đề cập đến số liệu về tỉ lệ tham gia BHXH ở nước ta tại thời điểm năm 2009. Cùng với đó, tài liệu còn chỉ ra một số điểm còn tồn tại liên quan đến thực tiễn thực hiện BHXH ở nước ta. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất những kiến nghị, giải pháp xoay quanh trọng tâm, nội dung nghiên cứu [132]. - Trong sách chuyên khảo “Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam” được thực hiện năm 2013, PSG.TS Lê Thị Hoài Thu đề cập đến quyền cơ bản của con người trong lao động gồm các quyền thành phần: quyền được làm việc; quyền được hưởng mức lương công bằng, hợp lý; quyền được nghỉ ngơi; quyền công đoàn;… Một trong số đó có quyền được hưởng ASXH nói chung và BHXH nói riêng [105]. - Nghiên cứu chuyên sâu hơn về một quyền con người cụ thể trong cuốn chuyên khảo “Quyền an sinh xã hội và bảo đảm thực hiện trong pháp luật Việt Nam” (thực hiện năm 2014), PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu cùng nhóm tác giả đã xác 9 định quyền ASXH dưới góc độ gồm nhiều quyền thành phần, trong đó có quyền được trợ cấp khi hết tuổi lao động [106]. Ngoài ra, tài liệu còn sử dụng quy định pháp luật để minh họa cho lập luận bảo đảm quyền ASXH của người dân trong việc bảo vệ thu nhập thông qua BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện (bao gồm cả CĐHT). Theo đó, căn cứ Luật BHXH năm 2006, nhóm tác giả đề cập đến các đối tượng được đảm bảo/bảo vệ thu nhập khi tham gia BHXH (bắt buộc và tự nguyện); đề cập đến các chế độ mà người tham gia được hưởng của BHXH (trong đó có đề cập đến CĐHT). Thêm vào đó, tài liệu còn đề cập đến nguồn kinh phí được sử dụng để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng được bảo vệ khi tham gia BHXH. - Khi nghiên cứu về các quyền của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong luận án tiến sỹ luật học “Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam” (năm 2015), tác giả Nguyễn Thị Thơm khẳng định: quyền được hưởng ASXH là quyền xã hội (social rights) của con người trong nhóm quyền liên kết quyền kinh tế - xã hội và văn hóa [104]. Mặc dù, luận án chỉ nghiên cứu quyền của một nhóm chủ thể nhỏ trong cộng đồng công dân, cá nhân sống trên lãnh thổ Việt Nam nhưng có thể hiểu, luận án đã góp phần vào việc xác định quyền hưởng ASXH là quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng, của người dân Việt Nam nói chung. - Đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Thị Thơm, trong cuốn chuyên khảo “Pháp luật an sinh xã hội kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam”, TS. Trần Hoàng Hải và TS. Lê Thị Thúy Hương cũng khẳng định: quyền hưởng ASXH là quyền cơ bản của con người, và được xếp vào nhóm quyền kinh tế - xã hội. Do tính chất quan trọng của quyền hưởng ASXH đối với sự phát triển của con người nên cần có cơ chế tài chính phù hợp bên cạnh cơ chế đảm bảo bằng pháp luật trong việc tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền lợi của mình [58]. - Tương tự, cuốn “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” (năm 2015) khẳng định: quyền được bảo đảm ASXH là một trong những quyền con người quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 [46]. Dưới góc độ là một giáo trình lý luận về quyền con người, tài liệu nghiên cứu các vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền con người; sự phát triển tư tưởng về quyền con người; 10 các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực về quyền con người;…Tài liệu không nghiên cứu chuyên sâu về quyền được đảm bảo ASXH. Mặc dù vậy, tài liệu cũng xác định BHXH là một bộ phận của ASXH nên khi con người được đảm bảo ASXH thì được quyền hưởng BHXH; và thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Trên cơ sở nghiên cứu về quyền con người liên quan đến quyền hưởng ASXH nói chung, quyền hưởng BHXH nói riêng, luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về quyền hưởng lương hưu, quyền hưởng quyền lợi từ CĐHT và được luận giải trong các vấn đề có liên quan ở các chương tiếp theo. 1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu pháp luật về chế độ hưu trí, bảo hiểm hưu trí - Trên cơ sở xác định bảo hiểm hưu trí có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến đời sống vật chất lẫn tinh thần của đông đảo NLĐ khi về hưu, khi hết tuổi lao động, luận án tiến sĩ “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam” (năm 1992) đã nghiên cứu các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc xác lập chế độ bảo hiểm hưu trí của một quốc gia (phí đóng bảo hiểm hưu trí, tuổi về hưu, thời gian đóng bảo hiểm để hưởng CĐHT, tiền lương hưu,…); nghiên cứu 03 phương pháp được dùng để tạo nguồn tài chính cho chế độ bảo hiểm hưu trí (theo các cơ chế tài chính PAYG, MDC, NDC) [69]. Tài liệu còn giới thiệu đến quy trình tiến hành cải cách hệ thống hưu trí của Chile và Hungary là chuyển từ hệ thống PAYG sang hệ thống tài khoản cá nhân. Nội dung này sẽ được luận án kế thừa, tiếp thu để luận giải cho nội dung liên quan đến sự an toàn, bền vững về mặt tài chính của quỹ hưu trí và xây dựng mô hình hưu trí phù hợp trong điều kiện già hóa dân số. Bên cạnh đó, tài liệu còn nghiên cứu quy định pháp luật và tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí ở nước ta giai đoạn năm 1992 – 1998. Qua đó, luận án đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm hưu trí ở nước ta như: nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm hưu trí và nâng cao đời sống của người về hưu; giải pháp đối với ngành bảo hiểm là cần hoàn thiện bộ máy hoạt động của cơ quan BHXH; tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động BHXH. - Tại luận văn “Góp phần hoàn thiện chế độ hưu trí trong pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” (năm 2002), tác giả Trần Công Dũng đã nghiên cứu khái 11 quát lịch sử hình thành và phát triển của CĐHT tại Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 2000. Ngoài ra, cùng với việc nghiên cứu về đối tượng tham gia, điều kiện tuổi nghỉ hưu, thời gian đóng BHXH, mức lương hưu,…của chế độ bảo hiểm hưu trí, tài liệu đề cập đến tình hình thực hiện quy định pháp luật về CĐHT ở nước ta giai đoạn năm 1995 – 2000 với những thành tựu đạt được [53]. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị liên quan đến đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nói chung, bảo hiểm hưu trí nói riêng; điều kiện nghỉ hưu với quy định về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ; cần thiết phải có một chế tài đủ mạnh đối với những trường hợp vi phạm pháp luật về trốn đóng, chậm đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động vì gây ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ,… - Về mặt lý luận, cuốn sách “Chính sách xã hội và quá trình toàn cầu hóa” của Bruno Palier và Louis - Charles Viossat (năm 2003) đã xác định vai trò quan trọng của bảo hiểm hưu trí đối với hệ thống BHXH nói riêng, hệ thống ASXH nói chung của mỗi quốc gia. Mặt khác, tài liệu còn nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc cải cách bảo hiểm hưu trí trong tiến trình cải cách hệ thống ASXH của đất nước. Ngoài ra, khi bàn về bản chất của CĐHT, tài liệu này cho rằng CĐHT thực chất là một khế ước, hợp đồng giữa các thế hệ với nhau. Do đó, việc cải cách bảo hiểm hưu trí phải quan tâm đến yếu tố bền vững của quỹ để đảm bảo quyền lợi cho đối tượng đang tham gia, đối tượng đang được hưởng cũng như các đối tượng sẽ được hưởng quyền lợi trong tương lai [21]. Quan điểm này được luận án tiếp tục kế thừa trong quá trình luận bàn các nội dung liên quan đến quỹ hưu trí, định hướng hoàn thiện,… - Cuốn “Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện dân số già hóa” (năm 2004) của tác giả Giang Thanh Long tập trung nghiên cứu sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí trong việc đảm bảo quyền lợi của người tham gia trong điều kiện dân số già hóa ở Việt Nam đến năm 2050. Hơn nữa, tác giả còn đề cập đến thách thức dài hạn đối với hệ thống hưu trí là việc già hóa dân số ở Việt Nam trên cơ sở dự báo của Liên hợp quốc về tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm 13% tổng dân số vào năm 2025 và 24% vào năm 2050, cao gấp 2 lần, 3 lần so với năm 2000. Thêm vào đó, tài liệu còn dự báo tuổi thọ trung 12 bình của người dân từ 69,2 tuổi vào năm 2000 sẽ tăng lên 74,1 tuổi vào năm 2025 và 78,2 tuổi vào năm 2050. Điều này sẽ gây áp lực không nhỏ đối với bộ phận dân số trong độ tuổi lao động ở nước ta. Từ việc đánh giá thực trạng tài chính của hệ thống hưu trí, tác giả sử dụng linh hoạt phương pháp dự báo thống kê do ILO xây dựng để đánh giá sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt Nam [76]. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu đến yếu tố bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm cải cách hệ thống hưu trí tại Việt Nam: cắt giảm mức hưởng lương hưu để đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng tham gia; chuyển từ hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước sang hệ thống tài khoản cá nhân để chuyển hóa khoản nợ lương hưu tiềm ẩn của hệ thống hưu trí PAYG trở thành các khoản nợ hiện hữu. Ngoài ra, tài liệu còn đề xuất đến việc xây dựng khung pháp lý phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống hưu trí như: việc quản lý hệ thống hưu trí nên dần chuyển từ thẩm quyền của Chính phủ sang tư nhân dưới hình thức là quỹ tiết kiệm; đề xuất đến việc công khai, phổ biến thông tin về hoạt động của hệ thống hưu trí. - Tại luận án tiến sỹ kinh tế “Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ Quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” (năm 2004), tác giả Nguyễn Trọng Thản đề cập đến các vấn đề đầu tư quỹ BHXH (bao gồm quỹ hưu trí). Về mặt lý luận, tài liệu nghiên cứu các nội dung như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của quỹ BHXH; sự hình thành nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH với việc thu, chi và cân đối quỹ; các phương pháp trích lập nguồn vốn đầu tư [99]. Tài liệu còn đề cập đến việc sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH cũng như đưa ra các tiêu chí để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH; đề cập đến các nhân tố tác động đến hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH như: môi trường đầu tư, chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, hiệu quả hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động đầu tư,… Ngoài ra, tài liệu đề cập đến kinh nghiệm của một số quốc gia như: Malayxia, Singapore, Philippin trong việc đầu tư quỹ. Trên cơ sở thực trạng về việc tạo lập nguồn vốn đầu tư và thực trạng hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH, tài liệu đã đưa ra một số quan điểm, định hướng cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ 13 BHXH ở nước ta như: giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập nguồn vốn đầu tư từ quỹ, giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ. - Cuốn “Pháp luật bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới” năm 2005 (tập 1) của Ủy ban các vấn đề về xã hội của Quốc hội giới thiệu về BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng của một số quốc gia trên thế giới: Canada, Anh, Đức, Thụy Điển, Trung Quốc, Phần Lan, Hà Lan. Ngoài ra, tài liệu còn giới thiệu quá trình cải cách hệ thống hưu trí của Thụy Điển, Italia để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của từng quốc gia. Đây cũng là nội dung mà luận án tiếp thu sử dụng để luận giải xoay quanh việc xây dựng mô hình hưu trí phù hợp với tình trạng già hóa dân số [122]. - Luận án tiến sỹ luật học “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay” (năm 2005) nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước về BHXH nói chung và CĐHT nói riêng. Theo đó, luận án xác định việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực BHXH bằng pháp luật là một tất yếu khách quan. Luận án đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động BHXH nói chung, CĐHT nói riêng; xác định các chủ thể quản lý nhà nước; và nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động BHXH. Ngoài ra, trên cơ sở đề cập đến cách thức Nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật BHXH; và việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH nói chung, CĐHT nói riêng của Nhà nước, tài liệu đề xuất phương hướng nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về BHXH, CĐHT nêu trên [97]. - Mặc dù không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ, khi thì sử dụng CĐHT, khi thì sử dụng chế độ bảo hiểm hưu trí nhưng cuốn chuyên khảo “Bảo hiểm hưu trí” do PGS.TS Nguyễn Tiệp làm chủ biên (năm 2009) đã nghiên cứu tương đối khái quát cả về mặt lý luận và thực tiễn của hệ thống bảo hiểm hưu trí ở nước ta trong giai đoạn năm 2001 – 2007 [114]. Về mặt lý luận, trên cơ sở xây dựng khái niệm chế độ bảo hiểm hưu trí, tài liệu đã nghiên cứu vai trò, tác dụng cũng như phân tích các nguyên tắc của CĐHT (cũng được hiểu là nguyên tắc của BHXH) gồm: nguyên tắc phân biệt hợp lý chế độ 14 hưởng hưu trí giữa lao động nam và lao động nữ; nguyên tắc giảm độ tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định; và nguyên tắc khi tuổi thọ của NLĐ và mức sống được nâng cao thì tuổi hưởng CĐHT có thể được nâng lên. Bên cạnh đó, tài liệu còn đề cập đến phương pháp xác định tuổi hưu trí căn cứ vào cơ sở sinh học và cơ sở kinh tế - xã hội như: không chỉ phù hợp với xu hướng gia tăng tuổi thọ của con người, với sự phát triển về kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà phải đảm bảo yếu tố cân đối trong việc thu - chi và phát triển quỹ hưu trí. Mặt khác, cuốn chuyên khảo còn đề cập đến tình hình thực hiện bảo hiểm hưu trí ở nước ta giai đoạn năm 2001 - 2007 với các số liệu liên quan đến đối tượng tham gia, điều kiện hưởng CĐHT, vấn đề tài chính bảo hiểm hưu trí, kết quả thu chi CĐHT của hai loại hình BHXH (bắt buộc và tự nguyện); các hình thức đầu tư quỹ bảo hiểm hưu trí; vấn đề quản lý quỹ hưu trí. Trên cơ sở đó, tài liệu đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bảo hiểm hưu trí về mặt cơ chế, chính sách như: điều chỉnh mức đóng góp của người tham gia BHXH bắt buộc, thay đổi tuổi nghỉ hưu,… Ngoài ra, nhóm tác giả còn đề xuất giải pháp về việc tổ chức và thực hiện bảo hiểm hưu trí ở nước ta trong giai đoạn năm 2001 - 2007. - Không chỉ nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước, đề tài pháp luật về CĐHT cũng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nước ngoài ở nhiều phương diện, quy mô khác nhau. Điển hình, cuốn “Pension Reform in China: Issues, Options and Recommendations” (dịch là:“Cải cách lương hưu ở Trung Quốc: Các vấn đề, lựa chọn và khuyến nghị”) được thực hiện năm 2010 đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về cải cách CĐHT thông qua việc cải cách lương hưu để đảm bảo chi trả cho các đối tượng tham gia với nội dung: nghiên cứu hệ thống lương hưu của một số quốc gia trên thế giới (Canada, Chilê, Thụy Điển….); xác định lương hưu được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như: tiêu dùng, tái phân phối thu nhập, bảo hiểm,…. [133]. Bên cạnh đó, tài liệu còn đề xuất các tiêu chí được sử dụng để thiết kế hệ thống lương hưu phù hợp như: dựa vào hiệu quả từ thị trường lao động, vấn đề về tài chính, nhân khẩu học, giới tính, phân phối và chia sẻ rủi ro,… Trên cơ sở đó, đưa ra các khuyến nghị, phương hướng để cải cách lương hưu của Trung Quốc. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất