Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn đề lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn đề lý luận và thực tiễn

.PDF
102
404
126

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DIỆU HƢƠNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DIỆU HƢƠNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành Mã số : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI – 2013 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các biể u đồ , hình vẽ MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ 5 NHÀ NƢỚC VIỆT NAM 1.1. Bầu cử là phương thức thành lập ra cơ quan nhà nước 5 1.2. Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực 7 nhà nước thuộc về nhân dân ́ Chƣơng 2: THƢ̣C TRẠNG HỆ THÔNG PHÁP LU ẬT VỀ B ẦU 13 CỬ VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY 2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND 13 2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu 13 cử các khóa XI, XII 2.1.2. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua 19 cuộc bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004-2009 2.1.3. Những vấn đề mặt pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại 23 biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011-2016 2.1.4. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2010 qua thực tiễn áp dụng 28 2.2 Thực tra ̣ng áp du ̣ng pháp luâ ̣t về bầu cử trong thời gian qua 31 2.2.1. Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 32 2.2.2. Về quyền bầu cử, quyền ứng cử 35 2.2.3. Về công tác hiệp thương trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại 41 biểu Hội đồng nhân dân 2.2.4. Về phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ người ứng cử ở các đơn vị 46 bầu cử, số dư người ứng cử Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử 48 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 2.2.5. 49 BẦU CỬ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử 49 3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử 49 3.1.2. Đổi mới nhận thức, nâng cao ý thức người dân về bầu cử 51 Biểu đồ 3.1: Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử Quốc hội gần nhất 54 3.1.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn bầu cử 56 3.1.4. Tăng cường công tác giám sát đối với bầu cử 62 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bầu cử 64 trong thời gian tới 3.2.1. Bổ sung nguyên tắc bầu cử tự do 64 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, số lượng đại biểu 65 3.2.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền bầu cử, quyền ứng cử 68 Biểu đồ 3.2: Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử 69 3.2.4. Cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử 71 3.2.5. Đổi mới cách thức lập danh sách cử tri và số lượng cử tri ở mỗi 73 khu vực bỏ phiếu Đổi mới quy trình hiệp thương 75 Biểu đồ 3.3: Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn 3.2.6. 77 ứng cử viên đại biểu Quốc hội 3.2.7. Sửa đổi, bổ sung các quy định về phân chia đơn vị bầu cử, phân 80 bổ người ứng cử ở các đơn vị bầu cử, số dư người ứng cử 3.2.8. Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử 84 3.2.9. Bổ sung các quy định về phiếu bầu và cách thức bầu cử 85 3.2.10. Đổi mới phương thức bỏ phiếu 87 3.2.11. Về cách xác định kết quả bầu cử 88 ́ KÊT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 PHỤ LỤC 94 ́ ́ ́ ̀ DANH MỤC CAC TƢ VIÊT TĂT 1. ĐB : Đa ̣i biể u 2. ĐBQH : Đa ̣i biể u Quố c hô ̣i 3. HĐND : Hô ̣i đồ ng nhân dân 4. MTTQ : Mă ̣t trâ ̣n Tổ quố c 5. QH : Quố c hô ̣i 6. UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội ̉ ̀ ́ DANH MỤC CAC BIÊU ĐÔ, HÌNH VẼ Tên biểu đồ STT Trang 3.1 Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử đa ̣i biể u Quốc hội gần nhất 54 3.2 Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử 69 3.3 Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn ứng cử viên 77 đại biểu Quốc hội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn: Trong đời sống xã hội của nước ta, bầu cử có một vị trí và ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng. Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6 tháng 01 năm 1946 để bầu ra Nghị viện nhân dân khai sinh Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước ta đã trải qua 13 cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy tất cả các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đều là những sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại đối với đất nước. Bầ u cử là mô ̣t trong những chế đinh pháp luâ ̣t quan tro ̣ng của ngành luâ ̣t Hiế n ̣ pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ quan đại diện – cơ quan quyề n lực Nhà nước. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các c ấp là phương thức thực hiê ̣n thể chế dân chủ, thực hiện quyề n công dân và quyề n tham gia quả n lý đấ t nước của người dân thông qua người đa ̣i diê ̣n . Thông qua bầ u cử , nhân dân tim ̀ kiế m, chọn lựa những người sẽ thay mặt cho họ quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước . Có thể nói , bầ u cử là hình thức cho thấ y quyề n lực nhà nước thuô ̣c về nhân dân và là yế u tố không thể thiế u đươ ̣c trong chế đô ̣ xã hô ̣i dân chủ đương đa ̣i. Chế độ bầu cử đã được hình thành t ừ những quy định trong các văn bản pháp luật đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó đế n nay , cơ sở lý luận về chế độ bầu cử ở nước ta đã dần được bổ sung , thay đổ i để phù hơ ̣p hơn với thực tiễn . Tuy nhiên, chế đô ̣ bầ u cử ở nước ta hiê ̣n vẫn còn nhiề u vấ n đề đă ̣t ra cầ n phải giải quyế t , khắc phục. Tỷ lê ̣ cử tri tham gia bỏ phiế u qua mỗi lầ n bầ u cử khá cao, nhưng thực tế bầ u cử vẫn còn mang nă ̣ng tinh hinh thức ́ ̀ (ví dụ như : viê ̣c ứng cử và hình thức tham gia tranh cử của các ứng cử viên ; cách thức tổ chức bầ u cử…). Những quy đinh của pháp luâ ̣t về bầ u cử ở nước ta vẫn còn nhiề u bấ t câ ̣p ̣ , chưa phát huy đươ ̣c cao nhấ t tính dân chủ và chưa thâ ̣t sự phù hơ ̣p với bố i cảnh hiê ̣n nay, khi đấ t nước ta đang hô ̣i nhâ ̣p sâu vào nề n kinh tế thế giới . Làm thế nào để nhân dân thực sự trở thành chủ nhân c ủa quyề n lực nhà nư ớc và thông qua ch ế độ 1 bầu cử, ủy thác quyền lực ấy cho cơ quan quyề n lực nhà nư ớc cao nhấ t ? Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , của dân, do dân, vì dân đã và đang là xu hư ớng chủ đạo và là mu ̣c tiêu hàng đầ u của Đảng , nhà nước và nhân dân Việt Nam . Vì vậy, viê ̣c nghiên cứu cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn trong và ngoài nước để hoàn thiê ̣n chế đô ̣ bầ u cử ở nước ta là vấ n đề quan tro ̣ng và cầ n thiế t trong giai đoạn hiện nay. Từ những lý do nêu trên và với sự tâm huyết của mình, tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: Mục đích của luận văn là góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về bầu cử; việc vận dụng qui định của pháp luật về quy trình bầu cử trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong những năm vừa qua, phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong qui định của pháp luật về bầu cử từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về bầu cử. Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế độ bầu cử; cơ chế đại diện, phương thức thực hiện quyền bầu cử, ứng cử; phương thức tiến hành bầu cử… để góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật về bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn việc tổ chức bầu cử các khóa QH làm cơ sở cho việc hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND. Nghiên cứu các phương thức bầu cử và làm rõ những nét đặc thù trong chế độ bầu cử ĐB của các nước để tham khảo và chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp cho Việt Nam; Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ bầu cử của Việt Nam - Những bất cập, tồn tại và nguyên nhân. 2 Đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bầu cử của Việt Nam trong thời gian tới. 3. Tình hình nghiên cứu: Thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về pháp luật bầu cử. Tuy nhiên, các tác giả mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu một khía cạnh nào đó trong bầu cử, ví dụ “Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội”, “Qui trình bầu cử đại biểu Quốc hội, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay”… Còn một công trình nghiên cứu mang tính toàn diện về bầu cử (bao gồm cả bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân) trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước muốn tiến hành hai cuộc bầu cử này vào chung một thời điểm thì chưa có, nó mới chỉ dừng lại ở các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn mang tính kỹ thuật về bầu cử mà thôi. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của chế độ bầu cử , đi sâu vào vi ̣trí , vai trò của bầu cử trong chế độ nhà nước ta hiện nay và nghiên cứu thực tiễn của hoạt đô ̣ng bầ u cử ở nước ta trong thời gian qua và tham khảo kinh nghiê ̣m mô ̣t số nước trên thế giới . Từ đó , đưa ra nhâ ̣n xét , khuyế n nghi ̣về viê ̣c sửa đổ i , bổ sung, hoàn chỉnh cơ sở lý luận và quy trình bầu cử , nhằ m hoàn thiê ̣n chế đô ̣ bầ u cử đa ̣i biể u ở nước ta trong thời gian tới. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn: Phương pháp luâ ̣n của lu ận văn căn cứ vào quan điểm của Đảng về lý luận xây dựng chế đô ̣ bầ u cử đa ̣i biể u th ể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: thống kê, diễn giải, phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu thực nghiệm, điề u tra xã hội học,... 3 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Vị trí, vai trò của bầ u cƣ̉ trong chế đô ̣ nhà nƣớc Viêṭ Nam Chương II: Thƣ̣c tra ̣ng hê ̣ thố ng p háp luật về bầu cử và việc thực hiện pháp luật bầu cử hiện nay Chương III: Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam trong thời gian tới. 4 Chƣơng 1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM Bầu cử ở Việt Nam là quá trình các cử tri đưa ra quyết định của họ theo các cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương). 1.1. Bầu cử là phƣơng thức thành lập ra cơ quan nhà nƣớc Bầu cử là một phương pháp thành lập ra bộ máy nhà nước. Thông qua bầu cử nhân dân trực tiếp lựa chọn những cá nhân có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình vào cơ quan đại diện của nhân dân. Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì: Chế độ bầu cử được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến khi kết thúc việc xác định được danh sách những người trúng cử. Qua những mối quan hệ xã hội đó cho phép khái quát được chế độ bầu cử được hình thành qua các cuộc bầu cử của một đất nước là chế độ bầu cử dân chủ không áp đặt, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình tìm ra được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý và điều hành đất nước [17, tr. 300]. Trong lịch sử bầu cử của nước ta, kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đến nay đã khẳng định rõ: mỗi cuộc bầu cử đều mang một dấu ấn riêng, nhưng thực tiễn đã chứng minh rằng các cuộc bầu cử đều có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. 5 Một là, bầu cử luôn luôn là một sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là ngày hội lớn của toàn dân. Thông qua các cuộc bầu cử, chính là dịp để cử tri cả nước phát huy quyền làm chủ của mình, trực tiếp lựa chọn những đại biểu có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình tại cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Khi đánh giá về tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân. Hai là, bầu cử có ý nghĩa quyết định đến việc xây dựng Bộ máy Nhà nước, là khâu đầu tiên để hình thành nên các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nhưng nhân dân thực hiện quyền lực này bằng cách bầu ra Quốc hội. Với tư cách là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, nên Quốc hội thay mặt cho nhân dân, được giao trách nhiệm giải quyết mọi công việc quan trọng của đất nước như: xây dựng Hiến pháp và pháp luật; đặc biệt là thành lập ra Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước này đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Chính vì thế, các cơ quan Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều trực tiếp hay gián tiếp do nhân dân bầu ra thông qua phương thức bầu cử. Nói cách khác, bầu cử chính là hình thức dân chủ duy nhất để hình thành nên bộ máy Nhà nước ở nước ta. Đó cũng là minh chứng cho việc ngay từ phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị 6 Chính phủ sớm tổ chức cuộc Tổng tuyển đầu tiên ở nước ta; bởi lẽ chỉ có thể thông qua bầu cử thì chính quyền mới được thành lập mới là chính quyền hợp pháp và được nhân dân thừa nhận. 1.2. Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi nhân dân là cội rễ của quyền lực nhà nước: “Gốc có vững, cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Người cho rằng, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, Nhà nước phải hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. “Nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ chức lên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Hiến pháp năm 1946 coi việc “Thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” là một trong ba nguyên tắc của chính thể mới và nền dân chủ nhân dân. Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) hiện nay cũng khẳng định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nên nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước do nhân dân Việt Nam thành lập. Tính pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước là ở chỗ: nhân dân tự do lựa chọn bầu ra những đại biểu xứng đáng thay mặt nhân dân gánh vác việc nước. Bầu cử là một phương thức hợp pháp hóa quyền lực nhà nước mang tính phổ biến và là xu thế tất yếu của thế giới hiện đại. Trong các bài viết về Thường thức chính trị trên báo Cứu quốc năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái, trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách hợp lý để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình” [10, tr. 219-220]. 7 Pháp quyền xét dưới góc độ tổ chức bộ máy nhà nước có nghĩa nhân dân chính là chủ thể của quá trình tổ chức. Nhà nước pháp quyền không những là người đại diện chân chính cho nhân dân của quốc gia đó, mà nó phải được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Nhà nước là người đại diện của nhân dân, cho nên, nhân dân phải có tiếng nói quyết định vào việc thành lập ra các cơ quan nhà nước. Bầu cử là hoạt động phổ thông nhất và mang tính đơn giản nhất, thông qua đó, nhân dân trực tiếp thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Từ các thiết chế đại diện do nhân dân bầu ra này, các cơ quan nhà nước khác lần lượt được thành lập. Về bản chất, bầu cử không những là con đường kiến thiết chế độ đại diện mà nó cũng chính là phương thức để nhân dân loại bỏ những người đại diện. Do vậy, để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả, đồng thời với việc đổi mới chế độ bầu cử, cần xây dựng cơ chế cụ thể và hữu hiệu quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử của nhân dân. Nói cách khác, nhân dân có thể thay thế, thậm chí phế truất những người đại diện do mình bầu ra bất cứ lúc nào, nếu họ không còn sự tín nhiệm của nhân dân, mà không phải đợi đến hết nhiệm kỳ: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (Điều 7 Hiến pháp 1992). Chính vì tầm quan trọng của việc khẳng định chủ quyền nhân dân, trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước ở nước ta không thể không nói tới đổi mới chế độ bầu cử. Làm sao để “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, để nhân dân thực sự tìm được những người xứng đáng và đích thực thay mặt mình gánh vác việc nước - đó là những vấn đề cơ bản của việc đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay [38, tr. 237]. Chế độ bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ. Chế độ bầu cử là một trong những trụ cột trong cấu trúc dân chủ ở bất cứ nhà nước nào. Dân chủ và bầu cử gắn bó mật thiết như hình 8 với bóng. Ở đâu có bầu cử tự do và trung thực, thì ở đó một chế độ dân chủ được nảy nở và phát triển [3, tr. 27]. Dân chủ có nghĩa là nhân dân là nguồn gốc, là chủ thể của quyền lực nhà nước; các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc bãi miễn thông qua bầu cử tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Không những thế, rất nhiều các hiệp ước, hiến chương quốc tế, khu vực đều khẳng định vai trò của bầu cử đối với thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người, như Hiến chương Paris cho một châu Âu mới tuyên bố: “Ý chí của nhân dân thông qua bầu cử tự do, công bằng và định kỳ là nền tảng cho một nhà nước dân chủ”. Tại các nước lớn ngày nay, dân chủ dựa trên ý tưởng rằng chủ quyền của nhân dân hợp pháp hóa cả chính quyền lẫn quyền cộng đồng quyết định, trên những nguyên tắc phục tùng đa số, bảo vệ thiểu số và trên hệ thống nghị trường đại diện. Hội nghị An ninh và hợp tác châu Âu (CSCE) khẳng định rằng, dân chủ “có nền tảng là việc tôn trọng con người và chế độ pháp quyền”, công nhận chế độ pháp quyền là một yếu tố thiết yếu để đảm bảo việc tôn trọng nhân quyền và hoan nghênh “quyết tâm chung của tất cả các quốc gia thành viên nhằm xây dựng các xã hội dân chủ trên nền tảng tuyển cử tự do và chế độ pháp quyền”. Chế độ pháp quyền dường như không chỉ đòi hỏi pháp luật phải có giá trị phổ quát, mà còn đòi hỏi việc thực thi pháp luật cũng phải phổ quát như vậy, nghĩa là pháp luật phải có khả năng thực thi một cách bình đẳng đối với tất cả các thành viên của cộng đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ đoàn kết” [10]. Đối với nước ta, dân chủ đại diện lại càng có vai trò đặc biệt quan trọng, vì Hiến pháp mới chỉ khẳng định về dân chủ đại diện, mà chưa đề cập rõ ràng về dân chủ trực tiếp. Vai trò của bầu cử đối với bộ máy nhà nước có thể được ví như vai trò của nền móng trong việc xây dựng một ngôi nhà. Muốn có ngôi 9 nhà kiên cố và hiện đại, thì trước hết phải có nền móng vững chắc. Để có một Nhà nước “của dân”, trước hết phải thiết kế và thực thi một chế độ bầu cử sao cho bộ máy nhà nước đó “đúng” là kết quả của sự lựa chọn dựa trên ý chí của nhân dân. Mối quan hệ giữa chế độ bầu cử với bản chất, mục đích của nhà nước là mối quan hệ biện chứng: một mặt, một chế độ bầu cử đảm bảo đúng ý chí của nhân dân trong việc lựa chọn và ủy quyền, thì bản thân việc lựa chọn và ủy quyền đó không những đảm bảo nhà nước đó là nhà nước “của dân” mà đã bao hàm ý nghĩa nhà nước đó là nhà nước “do dân và vì dân”; mặt khác, một nhà nước đích thực “của dân” sẽ là cơ sở rất quan trọng để nó là một nhà nước “do dân và vì dân”. Ngược lại, nếu không đảm bảo nhà nước đó là nhà nước đích thực của dân, nhân dân còn “đứng ngoài”, hoặc chưa đóng vai trò quyết định, thì dù nó tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc nào, mục đích “do dân và vì dân” của nhà nước đó cũng khó có thể đạt được. Điều đó không những không đảm bảo cơ sở pháp quyền của nhà nước, mà mục đích nhà nước sẽ không đảm bảo dân chủ, hoặc mục đích dân chủ có thể được đặt ra, nhưng sẽ bị chệch hướng. Như vậy, bầu cử là định chế quan trọng, mang tính nền tảng trong việc kiến tạo cơ chế chính trị của mỗi quốc gia. Nhưng tại sao lại như vậy? Câu trả lời là: vì kết quả bầu cử thể hiện ý chí của nhân dân, cơ chế chính trị được xây dựng trên nền tảng của chế độ bầu cử, tức là được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhân dân. Đây là cơ sở, là điều kiện tiên quyết cho một chính quyền, hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân và đó là mục tiêu cao cả của dân chủ. Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò của chế độ bầu cử còn mang tính đặc thù. Thứ nhất, đối với các nước tư sản, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, do đó nhân dân không những bầu ra Quốc hội, mà ở nhiều nước, nhân dân còn bầu ra Tổng thống. Do vậy, bản thân chế độ bầu cử là công cụ nhằm kiểm soát, đối trọng giữa các nhánh quyền lực và nó có khả năng tạo ra cơ hội “sửa sai” cho nhân dân. Chẳng hạn, sau khi bầu cử Tổng thống, nếu đường lối, chính sách do Tổng thống thực thi không hợp lòng dân, đến kỳ bầu cử Quốc hội, cử tri sẽ dồn phiếu cho các đảng đối lập để “khắc 10 chế”, “đối trọng” đường lối của Tổng thống và ngược lại. Khác với các nước tư sản, ở nước ta, khi nhân dân bầu ra Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì cũng có nghĩa gần như trao toàn bộ “ấn kiếm” cho các cơ quan này mà không có nhiều cơ hội “sửa sai” như ở các nước tư sản. Về nguyên tắc, cử tri có quyền bãi nhiệm các đại biểu dân cử khi họ không còn được sự tín nhiệm của nhân dân. Tuy nhiên, việc bãi nhiệm thường tiến hành với từng đại biểu riêng biệt, hơn nữa, việc bãi nhiệm tuy đã có trong các điều khoản của Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức các cơ quan nhà nước, nhưng chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện, để áp dụng vào thực tiễn. Vả lại, kể cả khi chúng ta xây dựng được cơ chế bãi nhiệm đại biểu dân cử, do thủ tục phức tạp cần phải có của cơ chế và tính phức tạp của trách nhiệm chính trị, cơ chế này vẫn mang tính phòng ngừa nhiều hơn. Thứ hai, vị trí, thẩm quyền của cơ quan dân cử trong bộ máy nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa có tính đặc biệt: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đối với Việt Nam, thẩm quyền xây dựng Hiến pháp được trao cho Quốc hội, cho nên, có thể hình dung rằng thông qua bầu cử, nhân dân trao những thẩm quyền quan trọng, như quyết định các vấn đề quan trọng nhất của cả nước/địa phương cho cơ quan quyền lực nhà nước, trao cả quyền lập hiến cho Quốc hội. Bầu cử có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc phê bình và lựa chọn chính quyền nhà nước [8]. Bầu cử sẽ là một việc vô nghĩa nếu như không có sự lựa chọn. Ðể có được những lựa chọn đúng đòi hỏi những người dân phản đối chính quyền phải được phép tự do công khai bày tỏ quan điểm của mình, tự do chỉ trích chính sách và lôi kéo, tổ chức những người ủng hộ họ. Những cuộc bầu cử tự do và công bằng không thể duy trì được ở những nơi mà các quan chức có quyền bưng bít các lời chỉ trích. Tóm lại, chế độ bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng của mọi nhà nước pháp quyền. Việc thiết kế, thực thi chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp là công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ nhà nước pháp quyền nào, trong đó có Việt Nam. 11 Thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã thể hiện rõ ý thức chính trị, trách nhiệm của cử tri và nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; phản ánh tính dân chủ trong đời sống xã hội của đất nước ta. Các cuộc bầu cử đều diễn ra thuận lợi và đạt được những thắng lợi to lớn. Hầu hết các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội của nước ta đều thu hút được đông đảo cử tri tham gia bỏ phiếu, với tỉ lệ trên dưới 90%. Đây là một thực tế mà không phải quốc gia nào cũng đạt được, kể cả ở những nước phát triển. Điều đó phản ánh được ý thức chính trị rất cao của cử tri và nhân dân ta đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Mặt khác, cũng chính từ thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đã phán ánh được sự dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Như vậy, bầu cử như là một trong những biện pháp cơ bản thể hiện sự chịu trách nhiệm của nhà nước, cũng như một cách thức nhân dân đánh giá và mong muốn về trách nhiệm của nhà nước trong tương lai. Thông qua việc bầu cử, nhân dân có quyền hất bỏ những quyền lực nhà nước không đáp ứng, và muốn có một sự thay đổi với mục tiêu đáp ứng được mong mỏi của người dân. Cơ sở của chế độ bầu cử là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước, cũng như của các cá nhân được đảm nhiệm các công việc nhà nước là do nhân dân trao cho thông qua hoạt động bầu cử của họ. Đây cũng là cơ sở cho việc các cơ quan nhà nước cũng như các quan chức do nhân dân bầu ra không chỉ đơn thuần có được quyền lực nhà nước, mà còn phải chịu trách nhiệm về việc thực thi quyền lực được giao trước nhân dân [8]. 12 Chƣơng 2 ́ THƢ̣C TRẠNG HỆ THÔNG PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY 2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND 2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu cử các khóa XI, XII Qua thực tiễn triển khai áp dụng luật bầu cử đại biểu Quốc hội các khóa gần đây cho thấy, các quy định của luật thực định nhìn chung được áp dụng khá đầy đủ trong thực tiễn, việc triển khai các công việc phục vụ cho công tác bầu cử được thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm tính dân chủ, tiết kiệm. Các cuộc bầu cử đã đạt được những kết quả tích cực và thành công trên nhiều phương diện, từ các công tác chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử. Qua việc thi hành pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội tại các cuộc bầu cử gần đây cho thấy, nhìn chung luật đã đi vào cuộc sống, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội đã bảo đảm được các tiêu chí và nguyên tắc theo quy định của luật, nhất là đã đảm bảo được tính đại diện cho các thành phần, giai tầng trong xã hội; số người ứng cử, tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đã tăng lên, trình độ của những người ứng cử khá đồng đều, chất lượng đại biểu trúng cử nhiệm kỳ sau được nâng lên so với nhiệm kỳ trước. Sự thành công của các cuộc bầu cử gần đây cho thấy hệ thống pháp luật về bầu cử về cơ bản đã dần đồng bộ, toàn diện và đang từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, với đặc thù của công tác bầu cử là hoạt động không thường xuyên, năm năm mới thực hiện một lần nên việc áp dụng các quy định của pháp luật về bầu cử qua các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội còn cho thấy có những vấn đề được quy định trong luật chưa thực sự phù hợp với sự vận động của thực tiễn. Trước những yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới, quán triệt chủ trương của Đảng thể hiện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan