Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có v...

Tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Cục thuế thành phố Hà Nội

.PDF
85
316
104

Mô tả:

Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Cục thuế thành phố Hà Nội
TIỂU LUẬN: Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Cục thuế thành phố Hà Nội LỜI NÓI ĐẦU Toàn cầu hoá kinh tế đang trở thành xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới đang là xu hướng chung của các nước. Trong xu thế hội nhập hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến thị trường Việt Nam với những lợi thế so sánh với các nước trong khu vực. Dòng vốn đầu tư vào trong nước đang ngày càng tăng mạnh. Từ thực tế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng cao càng đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải đổi mới cơ chế, chính sách sao cho phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập. Thực hiện công cuộc cải cách thuế trong những năm gần đây, ngành thuế nói chung và Cục thuế Hà Nội nói riêng đã không ngừng hoàn thiện hệ thống các sắc thuế một cách hiệu quả nhất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế Tuy nhiên trong quá trình quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang phát sinh nhiều vấn đề như tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, quy trình quản lý thuế còn nhiều bất hợp lý ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều kinh nghiệm đầu tư trên thị trường quốc tế nên rất dễ lợi dụng kẽ hở của chính sách, pháp luật của nước ta để gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó là việc các nhà đầu tư nước ngoài thiếu hiểu biết về Pháp luật Việt Nam cũng là một hạn chế không nhỏ. Trong những năm qua, công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được nhiều những kết quả to lớn song cũng vẫn còn thể hiện những nhược điểm cả trong hệ thống chính sách, tổ chức quản lý cũng như tình trạng thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN diễn ra khá phổ biến. Chính vì vậy, đi sâu nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Xuất phát từ những thực tế trên, đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Cục thuế thành phố Hà Nội” đã được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn. Thông qua việc vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích tổng hợp, đối chiếu so sánh, logic…đề tài sẽ hệ thống lại một số vấn đề lý luận về thuế nói chung và thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng. Đề tài bước đầu tổng kết những thành quả đã đạt được cũng như đánh giá thực trạng quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trọng tâm nghiên cứu giới hạn tại Cục thuế Thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là Cục thuế Hà Nội). Từ đó đề xuất một số giải pháp, nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, góp phần động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài được chia làm 3 chương: Chương 1: Thuế thu nhập doanh nghiệp và quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài tại Cục thuế Hà Nội Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài CHƯƠNG 1 THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1 DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1.1.1 Khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay không còn là một thuật ngữ mới lạ đối với kinh tế Việt Nam. Có thể nói trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Theo Luật đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005:  Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư  Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong Luật này là:  Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài: là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà ĐTNN thành lập tại Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh  Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài: là tổ chức kinh tế được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam  Đầu tư theo hợp đồng BCC, BOT, BTO, BT - Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC): là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm làm ra mà không thành lập pháp nhân - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): là hình thức đầu tư được ký giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao công trình cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT): là hình thức đầu tư được ký giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT  Đầu tư phát triển kinh doanh  Góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư  Đầu tư thực hiện sáp nhập và mua lại doanh nghiệp  Các hình thức đầu tư trực tiếp khác như đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao… 1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam do cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam cấp giấy phép thành lập hoặc hoạt động kinh doanh theo các hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường là thành viên của các công ty đa quốc gia (công ty mẹ đặt tại một quốc gia và các công ty con được thành lập ở nhiều nơi trên thế giới). Đặc điểm này khiến cho mối liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bộ phận khác của công ty đa quốc gia tương đối chặt chẽ và phức tạp. Vì vậy, khiến cho các cơ quan chức năng của ta khó tập trung quản lý, việc can thiệp và kiểm soát các giao dịch tương đối khó khăn. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tổ chức quản lý chịu sự chi phối gián tiếp của luật pháp nước cư trú của công ty mẹ nhưng cũng phải chịu sự quản lý của nước sở tại (nước nhận đầu tư) nên việc kiểm soát và theo dõi sẽ gặp nhiều khó khăn. Các công ty này đã có kinh nghiệm lâu năm kinh doanh trên thị trường quốc tế nên có rất nhiều những biện pháp tinh vi đối phó với cơ quan chức năng - Các doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình đầu tư, tiến hành sản xuất kinh doanh vào nước khác thường sử dụng nguồn nguyên liệu, dây truyền công nghệ từ chính quốc nên rất phức tạp trong việc xác định được giá trị thị trường trong quá trình góp vốn liên doanh ảnh hưởng đến việc xác định chi phí. - Sản phẩm được sản xuất ra thường chịu sự chi phối, bao tiêu của công ty mẹ nên gây cản trở cho các cơ quan chức năng trong việc xác định doanh thu Chính từ thực tế đặc thù của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để có thể chủ động trong việc quản lý, kiểm soát một cách chặt chẽ và có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp thì các cơ quan chức năng cần có những biện pháp cụ thể, có sự tính toán chặt chẽ và lâu dài. 1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế quốc dân Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho nền kinh tế là chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quá trình vận động tồn tại và phát triển cùng với sự đóng góp ngày càng to lớn có hiệu quả của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cho sự ổn định, phát triển nền kinh tế của nước ta trong 20 năm qua đã khẳng định vị trí và vai trò tầm quan trọng của thành phần kinh tế này. Ngày nay thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi quốc gia. Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì tổng số FDI của thế giới năm 1980 là 191.595 triệu USD; năm 1996 là 314.696 triệu USD và tăng lên rất nhanh qua các năm. Theo công bố ngày 2/8/2001 của tổ chức thương mại và phát triển liên hiệp quốc phòng FDI tăng nhanh trong những năm qua, hầu hết các nước đều thực hiện chính sách đầu tư thông thoáng và cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các nước đang phát triển muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của mình cần có lượng vốn lớn trong khi khả năng huy động nguồn lực từ trong nước có hạn do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho nên hầu như họ đều tìm mọi cách thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, mà nguồn vốn FDI là rất quan trọng bởi tính ưu việt của nó so với các nguồn huy động khác. Cạnh tranh thu hút nguồn vốn này giữa các quốc gia không kém phần quyết liệt, nhất là các nước trong khu vực. Bằng nhiều hình thức ưu đãi thu hút đầu tư hấp dẫn mang tính lợi thế so sánh, trong đó thuế cũng là một công cụ mà hầu như quốc gia nào cũng sử dụng để khuyến khích đầu tư. Đối với Việt Nam: Một quốc gia đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn, và thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác như: chống lạm phát, gia tăng xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo. Nhưng để tăng trưởng kinh tế thì yếu tố vật chất quyết định là gia tăng vốn đầu tư. Cùng với việc đẩy mạnh khai thác nguồn vốn đầu tư trong nước thì việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng cần phải được quan tâm đặc biệt. Những vai trò nổi bật của doanh nghiệp có vốn ĐTNN: * Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ đáp ứng một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt như với nước ta lượng vốn còn hạn chế, nguốn vốn bổ sung từ đầu tư nước ngoài sẽ đáp ứng lượng vốn đầu tư mua sắm trang thiết bị, mở rộng sản xuất và phát triển mọi mặt cho các ngành kinh tế. Hơn nữa sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả cao * Sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Khi có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, muốn tốn tại và phát triển các doanh nghiệp trong nước phải có những triến lược phát triển của mình, cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong nước cần mở rộng thị phần, gia tăng cả về chất lượng và số lượng sản phẩm * Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong quá trình đầu tư vào Việt Nam sẽ đem theo những dây truyền công nghệ mới, điều này sẽ cải thiện tình trạng công nghệ lạc hậu của các doanh nghiệp Việt Nam. Đây là bước đầu cải thiện và đổi mới hoàn toàn công nghệ trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Từ đây phát triển một số ngành kinh tế quan trọng có hàm lượng kỹ thuật cao mà Việt Nam còn nhiều tiềm năng như viễn thông, thăm dò và khai thác, chế biến dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... * Một vai trò không kém phần quan trọng là việc các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoạt động tại Việt Nam sẽ góp phần nâng cao năng lực trình độ quản lý của các nhà quản lý Việt Nam. Với những nước đang phát triển như nước ta doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ là trường đào tạo các bộ quản lý tốt nhất bởi lẽ với yêu cầu ngày càng cao của công việc, của hội nhập kinh tế lực lượng cán bộ quản lý doanh nghiệp sẽ có môi trường để thực tập, cọ sát và học tập không ngừng nâng cao trình độ của mình * Môi trường làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng sẽ tạo cho người lao động tác phong công nghiệp trong lao động, góp phần đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho mỗi lao động. Điều này sẽ gián tiếp làm tăng năng suất lao động, tạo việc làm và tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao * Ở tầm vĩ mô, doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn tạo điều kiện cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Tạo điều kiện để Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào đời sống kinh tế quốc tế. 1.2 THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.2.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp 1.2.1.1 Bản chất, sự ra đời và phát triển của thuế thu nhập doanh nghiệp  Khái niệm về thuế Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Thuế xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Khi Nhà nước ra đời đòi hỏi phải có nguồn lực của cải để trang trải chi phí hoạt động của bộ máy Nhà nước, thực hiện các chức năng của Nhà nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước quy định các khoản đóng góp bắt buộc đối với dân chúng và các chủ thể khác trong xã hội. Trong các sách báo kinh tế trên thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhiều quan điểm đưa ra mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế nên chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản. Mác đã chỉ rõ: “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần có ngay những sự đóng góp của những người công dân của nước đó là thuế ...” (Mác – Ăng ghen. TT. T2 – NXB Sự thật – Hà Nội – 1962. trang 522) Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze, trong cuốn “Tài chính công” đã đưa ra một định nghĩa tương đối cổ điển nhất: “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của nhà nước”.(Gaston Jeze. “Finances Publiqué”, 1934) Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Trên góc độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Trên góc độ kinh tế học, thuế được xem xét như là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước. Một cách chung nhất thuế là hình thức huy động tài chính cho Nhà nước. Khi Nhà nước ra đời, thuế là công cụ để Nhà nước có nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu của Nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân cư và các đối tượng khác trong nền kinh tế đóng góp cho Nhà nước. Thuế là hình thức đóng góp theo luật định của các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế là hình thức động viên mang tính chất bắt buộc trên nguyên tắc luật định. Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Nhà nước dùng quyền lực và sức mạnh để ấn định các thứ thuế, bắt buộc các tổ chức kinh tế và công dân thực hiện các nghĩa vụ thuế để nhà nước có nguồn thu ổn định, thường xuyên đảm bảo trang trải các khoản chi trong hoạt động thường xuyên của Nhà nước mà vẫn ổn định được Ngân sách Nhà nước. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế của mình tức là họ đã vi phạm pháp luật của quốc gia đó. Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa các khoản thuế với các khoản đóng góp mang tính tự nguyện cho Ngân sách Nhà nước và thuế đối với các khoản vay mượn khác của Chính Phủ. Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế vận động một chiều, trên cơ sở các số thuể thu được Nhà nước sẽ sử dụng cho những chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và mọi cá nhân trong xã hội. Số thuế mà các đối tượng phải nộp cho Nhà nước được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ. Đặc điểm này cũng phân bịêt giữa thuế với phí và lệ phí. Như vậy, Thuế là một khoản đóng góp có tính bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước, được quy định bằng các văn bản pháp luật và không có tính hoàn trả trực tiếp  Bản chất, sự ra đời và phát triển của thuế TNDN Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nó có vai trò điều tiết thu nhập từ kết quả sản xuất kinh doanh. * Bản chất của thuế TNDN Thuế TNDN là một loại thuế trực thu. Tính chất trực thu biểu hiện sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế trên phương diện kinh tế. Nếu thuế gián thu luôn được cấu thành trong giá cả hang hoá, dịch vụ mà người tiêu dung phải trả qua hành vi mua hang hoá và dịch vụ được cung cấp, người nộp thuế là các nhà sản xuất và trung gian thương mại, thì thuế TNDN lại điều tiết trực tiếp vào thu nhập của các nhà sản xuất, các nhà đầu tư và người cung cấp dịch vụ. Chính điều tiết trực tiếp vào thu nhập của các pháp nhân nên thuế TNDN phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, lợi nhuận đạt được của các nhà đầu tư. Nhà nước thường sử dụng thuế TNDN để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội đề ra. Do vậy các yếu tố kỹ thuật của thuế TNDN như: các khoản thu nhập thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập (phạm vi điều chỉnh), các chi phí được khấu trừ, thuế suất, các hình thức miễn, giảm thuế TNDN đều phản ánh chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. * Sự ra đời và phát triển: Ở Việt Nam, cùng với công cuộc cải cách thuế bước I năm 1990, Luật thuế lợi tức đã được ban hành. Tuy nhiên qua 8 năm thực hiện, Luật thuế lợi tức dần dần bộc lộ nhiều nhược điểm và không còn phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới: giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được vai trò của thuế trong chính sách tài chính công, mà cụ thể là cải cách thuế nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ. Để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã được ban hành. Sự hoàn chỉnh và phù hợp của Luật thuế TNDN được thể hiện qua xu hướng cải cách cụ thể như sau: Thứ nhất: Thuế TNDN luôn có xu hướng cắt giảm thuế xuất nhưng phải đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Chính vì lẽ đó, lộ trình xây dựng và hoàn thiện Luật thuế TNDN đã được Quốc hội thông qua: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay cho Luật thuế lợi tức, có mức thuế suất phổ thông là 32%. Cho đến nay trong tình hình mới, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 3 đã ban hành Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, được thông qua vào ngày 17/6/2003, có mức thuế suất là 28%. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2004. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ngày 10 tháng 5 năm 1997 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật mới này có hiệu lực. Tiếp tục đến 2008, sau 4 năm đi vào áp dụng, trước những đòi hỏi mới, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài Chính dự theo Luật sửa đổi Luật thuế TNDN, và lần này dự kiến mức thuế suất thuế TNDN là 25%các cơ quan chức năng lại đang tiếp tục có những điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình mời. Dự thảo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi đang tiếp tục được Bộ Tài chính trình lên quốc hội. Thứ hai: Về kỹ thuật hành thu, thuế thu nhập doanh nghiệp không khác thuế lợi tức là mấy song về quan điểm kinh tế, thuế thu nhập doanh nghiệp có cái nhìn cởi mở hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh cả trong nước và đầu tư nước ngoài thuế thu nhập doanh nghiệp mở rộng hơn về cơ sở tính thuế và xoá bỏ dần sự phân biệt thuế suất đối với các loại thu nhập. Sự chuyển đổi cách nhìn thể hiện rõ trong việc thuế Lợi tức đánh theo các mức khác nhau trên lợi nhuận tuỳ theo phân ngành kinh tế quốc dân theo cơ chế kế hoạch hoá ví như doanh nghiệp chịu thuế suất 30% nếu chỉ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng, xây dựng, chịu thuế suất 50% nếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dich vụ. Còn thuế suất thuế thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng một mức thuế suất phổ thông đánh trên thu nhập không phân biệt ngành nghề kinh doanh, trừ khai thác và thăm dò dầu khí do Chính phủ qui định. Thứ ba: Thuế TNDN luôn được cải cách theo hướng mang lại hiệu quả cao nhất, đảm bảo công bằng nhất, rõ ràng minh bạch và đơn giản nhất, nhưng cũng thể hiện tính linh hoạt, thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN ở Việt nam. 1.2.1.2 Mối quan hệ giữa thuế TNDN với các loại thuế khác Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ. Hệ thống thuế gồm nhiều hình thức thuế khác nhau nhưng sự hình thành từng hình thức thuế do cơ sở thuế quyết định. Trong nền kinh tế thị trường, thuế suy cho cùng đều lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của quá trình tái sản xuất mà thu nhập được vận động trong một chu kỳ khép kín và luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện của nó. Chính sự biến đổi đa dạng đó đã làm nảy sinh các cơ sở thuế khác nhau, tạo ra khả năng đáng thuế của Chính phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín và hình thành các hình thức thuế khác nhau. Hệ thống thuế của một quốc gia được hình thành tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội, cấu trúc và quan điểm thực thi chính sách của từng quốc gia. Mỗi loại thuế đảm nhận những sứ mệnh khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Với tất cả các nền kinh tế trên thế giới: “Doanh nghiệp là trái tim của nền kinh tế” chính vì vậy thuế TNDN đóng vai trò vô cùng quan trọng. Có ý kiến cho rằng, thuế TNDN là loại thuế trung tâm của hệ thống thuế. Sự vận động của thuế TNDN có tác động rất lớn lên các loại thuế khác và ngược lại sự vận động của từng sắc thuế cũng tác động trở lại đối với thuế TNDN. Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - Thuế TNDN phải nộp Thuế TNDN phải nộp = Thu nhập chịu thuế trong kỳ x Thuế suất (%) Thu nhập chịu thuế trong Doanh thu tính = thuế thu nhập kỳ tính thuế trong kỳ Chi phí hợp - lý trong kỳ tính thuế Thu nhập + chịu thuế khác Như vậy, bất cứ sự thay đổi nào của thuế TNDN sẽ làm ảnh hưởng đến thu nhập sau thuế nhận được. Thu nhập thay đổi ảnh hưởng đến cầu tiêu dùng, điều này sẽ điều tiết hành vi tiêu dùng trong xã hội vì vậy gián tiếp tác động tới thuế gián thu trong nền kinh tế như GTGT, tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Sự tương quan tác động của các loại thuế còn thể hiện ở chỗ, khi nguồn thu nhập của mỗi cá nhân bị điều tiết một phần thông qua thuế TNCN thì cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cầu tiêu dùng gián tiếp ảnh hưởng trở lại cung hàng hóa của doanh nghiệp, doanh thu thay đổi tất yếu số thu của thuế TNDN sẽ có những biến đổi nhất định. Bên cạnh đó, để xác định thu nhập chịu thuế TNDN trong kỳ tính thuế thì việc xác định chi phí hợp lý, hợp lệ là yếu tố vô cùng quan trong. Cấu thành nên chi phí trong kỳ cũng cần đưa vào đây các loại thuế gián thu khác như thuế XNK, thuế TTĐB… Có thể thấy rằng, dù mục đích ra đời, đối tượng chịu sự điều tiết của mỗi loại thuế là khác nhau song mọi sắc thuế đều có những mối tương quan nhất định và có sự tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ. Sự tác động này diễn ra nhiều chiều, vận hành liên tục tạo ra sự gắn bó giữa các sắc thuế tạo nên hệ thống thuế thống nhất. Từ đây đặt ra yêu cầu cho các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu thật đầy đủ mối tương quan giữa các sắc thuế để tạo một động lực tốt, tăng hiệu quả quản lý nguồn thu từ thuế và thực hiện được mục tiêu tạo sự công bằng trong xã hội. Hơn nữa các chính sách thuế được áp dụng cần lưu ý đến khả năng nuôi dưỡng nguồn thu, phải tạo ra động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.2.1.3 Thuế TNDN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Luật đầu tư nước ngoài ra đời là một bước ngoặt trong qua trình cải cách hành chính, cải cách đầu tư ở nước ta. Ngay từ khi có Luật ĐTNN, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có chỗ đứng vững chác trong nền kinh tế. Điều này cũng đòi hỏi những chính sách thuế phải được xây dụng sao cho minh bạch và rõ ràng hơn cho phù hợp với những đặc thù riêng có của loại hình doanh nghiệp này - Đứng trước yêu cầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đặt ra cho môi trường quản lý thuế có những quy định cởi mở hơn so với doanh nghiệp trong nước. Cụ thể là thuế suất 15%, 20%, 25% cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thì doanh nghiệp trong nước là 30%, 50% và sau này là 32%, 28%. Hơn nữa chúng ta cũng đã xây dựng những điều kiên ưu đãi miến giảm thông qua chính sách khuyến khích đầu tư (XNK 50, 80% trở lên; sử dụng trên 500 lao động ...). Cho đến này, khi chúng ta đã áp dụng mức thuế TNDN phổ thông 28% không phân biệt doanh nghiệp trong hay ngoài nước thì những doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trước năm 2004, nay vẫn còn hiệu lực thì vẫn tiếp tục được hưởng các ưu đãi trong giấy phép đầu tư ví như thuế suất vẫn duy trì ở mức 25% nếu thời gian miễn, giảm thuế vẫn còn thì vẫn tiếp tục được miễn, giảm... - Yêu cầu về hội nhập thuế quốc tế lại đạt ra các vẫn đề về tranh chấp quyền đánh thuế với doanh nghiệp nước ngoài từ đây phát sinh các hiệp định song phương và đa phương về thuếm như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần... Đến thời điểm này chúng ta cũng đã ký kết khoảng 48 hiệp định song phương và hiệp định đa phương về thuế. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thuế Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và cũng tạo hành lang pháp lý thuận lợi, minh bạch cho các nhà ĐTNN đến với Việt Nam. - Mặt khác do có sự đầu tư về vốn và công nghệ từ bên ngoài vào, nên chính sách thuế cũng có những điều chỉnh riêng cá biệt với các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam như quy định về hình thức kinh doanh không có pháp nhân tại Việt Nam thông qua chính sách về thuế nhà thầu, bản quyền... 1.2.2 Quản lý thuế TNDN đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.2.1 Quản lý thuế TNDN và nội dung của quản lý thuế TNDN đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN  Quản lý thuế  Khái niệm Quản lý thuế Quản lý thuế là hoạt động quản lý gắn liền với cơ quan thuế - một tổ chức nhà nước có tư cách pháp nhân. Do đó, quản lý thuế là một hình thức quản lý công. Quản lý thuế chủ yếu thực hiện khâu hành pháp về thuế. Quản lý thuế gồm những hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước, chủ yếu thuộc lĩnh vực hành pháp về thuế của cơ quan thuế các cấp, với các chức năng nhiệm vụ quyền hạn do luật định, nhằm thực hiện chính sách thuế đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Nói cách khác, quản lý thuế là khâu tổ chức thực hiện chính sách thuế của cơ quan thuế các cấp, là việc định ra một hệ thống các tổ chức, phân công trách nhiệm cho các tổ chức này, xác lập mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận một cách hữu hiệu trong việc thực thi các chính sách thuế nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra, trong điều kiện môi trường quản lý luôn biến động. Quản lý thuế quan tâm trước hết tới việc thực thi chính sách thuế. Để thực hiện tốt công tác quản lý thuế cần có một chính sách thuế hợp lý. Sau khi chính sách thuế được hoạch định và được thông qua, chính sách đó được thực thi trong thực tế. Quản lý thuế có vai trò quyết định trong việc đưa chính sách thuế vào cuộc sống. Hoạt động quản lý thuế là sự tác động có tổ chức, tuân theo những quy tắc nhất định và mang tính quyền lực nhà nước. Đây cũng có thể coi là hoạt động quản lý hành chính – kinh tế trong lĩnh vực thuế  Nội dung quản lý thuế Hoạt động quản lý thuế bao hàm nhiều nội dung được quy định cụ thể trong luật Quản lý thuế. Nó bao gồm - Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế. - Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế. - Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt. - Quản lý thông tin về người nộp thuế. - Kiểm tra thuế, thanh tra thuế. - Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. - Xử lý vi phạm pháp luật về thuế. - Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế. Quản lý thuế được thực hiện bằng các quy chế, quy trình kỹ thuật nghiệp vụ nhất định với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật quy định. Do vậy, xét về khía cạnh hành chính thuế, nội dung chính của quản lý thuế sẽ là các trình tự và thủ tục thuế của các đối tượng có liên quan (đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế và các đối tượng khác). Các trình tự và thủ tục thuế - hay là các "quy tắc ứng xử" này được xây dựng trong mọi lĩnh vực của công tác quản lý thuế: kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế... với mục đích nhằm làm cho các đối tượng liên quan thực hiện đúng các nghĩa vụ luật định về thuế. Thông qua công tác quản lý thuế, các "quy tắc ứng xử" này sẽ được xây dựng, ban hành, hướng dẫn và kiểm tra bằng "sức cưỡng chế" của cơ quan thuế.  Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp  Nội dung quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN  Đối tượng chịu thuế: Tất cả các khoản phải thu nhập thu được từ bất kỳ hoạt động kinh tế nào của doanh nghiệp có vốn ĐTNN đều là đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp Các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (nếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh thì thuế TNDN được tính cho từng hợp đồng hợp tác kinh doanh).  Đối tượng nộp thuế * Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam. Cơ sở thường trú của công ty nước ngoài tại Việt Nam là cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này công ty nước ngoài thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam mang lại thu nhập. Cơ sở thường trú của công ty nước ngoài tại Việt Nam bao gồm các hình thức sau: - Công ty đó có tại Việt Nam: chi nhánh, trụ sở điều hành, văn phòng (trừ văn phòng đại diện thương mại không được phép kinh doanh theo pháp luật Việt Nam), nhà máy, xưởng sản xuất, kho giao nhận hàng hoá, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu hoặc khí đốt, địa điểm thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hay các thiết bị, phương tiện phục vụ cho việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên. - Hoặc có tại Việt Nam: địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp; các hoạt động giám sát xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp. - Thực hiện việc cung cấp dịch vụ ở Việt Nam thông qua nhân viên của công ty hay một đối tượng khác được công ty ủy nhiệm thực hiện dịch vụ cho một dự án hay nhiều dự án. - Tổ chức tại Việt Nam đại lý môi giới, đại lý hưởng hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác. - Công ty đó ủy nhiệm cho một đối tượng tại Việt Nam có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty hoặc không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên công ty nhưng có quyền thường xuyên đại diện cho công ty giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ tại Việt Nam. * Cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.  Căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Thuế thu nhập doanh nghiệp được xác định dựa trên 2 căn cứ: thu nhập chịu thuế và thuế suất. Thuế TNDN phải nộp = Thu nhập chịu thuế trong kỳ x thuế suất (%) Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế Doanh thu tính = thuế thu nhập trong kỳ Chi phí hợp - lý trong kỳ tính thuế Thu nhập + chịu thuế khác  Thu nhập chịu thuế Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập chịu thuế của hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ kể cả thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài và thu nhập chịu thuế khác. * Doanh thu tính thuế  Ðối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ kể cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở sản xuất, kinh doanh được hưởng. Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương thức trực tiếp trên giá trị gia tăng, doanh thu để tính thu nhập bao gồm cả thuế giá trị gia tăng.  Ðối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là doanh thu của hàng hóa bán tính theo giá bán trả một lần, không bao gồm lãi trả chậm.  Ðối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu, tặng thì doanh thu tính thuế theo giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm trao đổi, biếu, tặng.  Ðối với sản phẩm tự dùng, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là chi phí để sản xuất ra sản phẩm đó.  Ðối với hoạt động gia công hàng hoá là tiền thu về gia công bao gồm cả tiền công, nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi tiết khác phục vụ cho việc gia công hàng hoá.  Ðối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu được từng kỳ theo hợp đồng thuê. Trường hợp bên thuê trả tiền trước cho nhiều tháng, nhiều năm thì doanh thu là toàn bộ số tiền thu được.  Ðối với hoạt động tín dụng là tiền lãi cho vay thực thu được trong kỳ tính thuế.  Ðối với hoạt động khác do Bộ tài chính quy định. * Chi phí Thông tư 134/2007/TT-BTC ra đời đã có bước thay đổi rõ rệt trong việc quy định các khoản chi phí không tính vào chi phí hợp lý thay cho việc quy định cả các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ và các khoản chi không hợp lý, hợp lệ. Điều này tiến tới đơn giản hơn trong việc xử lý và xác định thu nhập chịu thuế trong kỳ, tạo ra tính minh bạch, dễ thực hiện trong quá trình quản lý thuế của cơ quan chức năng cũng như việc thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT. Những khoản chi phí sau đây không tính vào chi phí hợp lý:  Chi phí khấu hao tài sản cố định thuộc một trong các trường hợp sau: . Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định không sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. . Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định không có giấy tờ chứng minh được thuộc quyền sở hữu của cơ sở kinh doanh (trừ tài sản cố định thuê mua tài chính). . Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định không được quản lý, theo dõi, hạch toán trong sổ sách kế toán của cơ sở kinh doanh theo chế độ quản lý tài sản cố định và hạch toán kế toán hiện hành. . Phần trích khấu hao vượt mức quy định hiện hành của Bộ Tài chính về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. Trường hợp áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng, khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ là phần trích khấu hao vượt quá 02 lần mức khấu hao theo quy định. . Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định đã khấu hao hết giá trị. . Chi phí khấu hao đối với công trình trên đất vừa sử dụng cho sản xuất kinh doanh vừa sử dụng cho mục đích khác thì không được tính khấu hao vào chi phí hợp lý đối với giá trị công trình trên đất tương ứng phần diện tích không sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.  Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá phần vượt mức tiêu hao hợp lý, bị tổn thất hoặc bị hư hỏng đã được các tổ chức, cá nhân bồi thường.  Chi phí tiền lương, tiền công thuộc một trong các trường hợp sau:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
ôn tập ttnh...
16
508
119