Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế ở Sở thuế Ắt...

Tài liệu Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư

.PDF
84
246
77

Mô tả:

BỘ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING TP. HỒ CHÍ MINH SÚ LỊ KHAN KẸO PA SỢT HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, KIỂM SOÁT THUẾ TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ Ở SỞ THUẾ ẮT TA PƯ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014 BỘ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING TP. HỒ CHÍ MINH SÚ LỊ KHAN KẸO PA SỢT HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, KIỂM SOÁT THUẾ TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ Ở SỞ THUẾ ẮT TA PƯ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh Mã ngành: 60340102 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Mỹ Dung TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật quản lý thuế là một trong những nội dung cơ bản của thu chi Ngân sách nói chung và của Ngành Thuế nói riêng. Khi áp dụng luật này, mọi đối tượng nộp thuế có trách nhiệm kê khai, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước luật pháp về mọi hoạt động của mình. Thực hiện cơ chế này, phương thức quản lý thuế được đổi mới căn bản, cơ quan thuế chuyển từ việc chủ yếu dùng quyền lực để quản lý sang chủ yếu hỗ trợ, phục vụ người nộp thuế. Với chức năng kiểm tra, kiểm soát thuế và việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai, tự nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện giám sát hiệu quả vừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện, vừa đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Đây là một biện pháp hữu hiệu nhằm phát hiện, ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế hoàn thành nghĩa vụ qua đó giúp ngành Thuế giám sát kịp thời và phát hiện những hành vi vi phạm của người nộp thuế. Trong thời gian qua, công tác quản lý thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư cho thấy rằng thuế đã góp phần không nhỏ vào động viên nguồn tài chính cho NSNN, đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và bước đầu đã phát huy được vai trò công cụ thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Trong những năm tổ chức thực hiện Luật Thuế đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và không ngừng được hoàn thiện. Nhưng trước yêu cầu phát triển đồng bộ nền kinh tế thị trường, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ đóng góp và phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế (WTO), thì thu thuế ở Ắt Ta Pư đã bộc lộ những mặt hạn chế nhất định như: giữa các sắc thuế chưa tác động hỗ trợ lẫn nhau, chưa khai thác hết tiềm năng, chưa thực sự có hiệu quả; trong từng sắc thuế còn chứa đựng nhiều mục tiêu của các chính sách xã hội, chính sách về ưu đãi chưa có mục tiêu rõ ràng, quy định thuế suất còn thiếu căn cứ khoa học, chưa thể hiện rõ sự tương hợp với đường lối hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì lý do này mà tôi chọn đề tài: “ hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư” để nghiên cứu vừa có tính thực tiễn hiện tại cũng như trong tương lai. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác thu thuế là một nhu cầu thiết yếu khách quan nhằm tập trung đủ và kịp thời nguồn thu cho NSNN, đồng thời công tác kiểm tra, kiểm soát thuế cũng rất quan trọng không kém. Đến nay số lượng các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế tại Lào còn hạn chế, chủ yếu chỉ tập trung vào những vấn đề thuộc về chính sách thuế, đó là: Nâng cao hiệu quả quản lý thuế ở CHDCND Lào của Phanxay Thammasith (năm 2008); Giải pháp hoàn thiện thuế gián thu ở CHDCND Lào của Manophap Phonevantha (năm 2009); Sở Công thương (2010), Báo cáo thống kê việc thành lập doanh nghiệp của tỉnh Ắt Ta Pư năm 2010; Sở Kế hoạch đầu tư (2010), Báo cáo tổng kết việc tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm lần thứ VI của tỉnh Ắt Ta Pư năm 2005-2010; Vụ ngân sách nhà nước (2010), Báo cáo tổng kết năm 20092010... Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu vấn đề hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát thuế tại Sở thuế Ắt Ta Pư có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong phát triển và khai thác các nguồn thu cho ngân sách nhà nước tình nhà. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu: - Một số lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ắt Ta Pư. - Thực trạng công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế tại Sở thuế Ắt Ta Pư thời gian từ năm 2010 đến nay. - Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra hệ thống giải pháp thực thi công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế tại Sở thuế Ắt Ta Pư. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu số liệu thực tiễn của việc tổ chức thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh ra thuế tại Sở thuế Ắt Ta Pư của Lào trong thời gian 5 năm trở lại đây để làm cơ sở minh chứng. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng chủ yếu là thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các thông tin, số liệu thu thập được trong sở thuế tỉnh Ắt Ta Pư thời gian qua. 2 5. Đóng góp của luận văn Nêu những vấn đề lý luận về thuế và công tác kiểm tra, kiểm soát thuế lồng ghép trong quản lý thu thuế. Hệ thống hóa số liệu, cập nhật, mô tả thực tiễn công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trên địa bàn tỉnh Ắt Ta Pư theo thời gian. Làm tài liệu tham khảo tại thư viện trường....để các thế hệ sinh viên sau làm tài liệu tham khảo học tập và mở rộng đề tài nghiên cứu ở cấp cao hơn. 6. Kết cấu của đề tài Trong phạm vi đề tài này, ngoài phần mở đầu và kết thúc. Luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về kiểm tra, kiểm soát thuế và quản lý thu thuế. Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư từ năm 2010 đến nay Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư đến năm 2020. 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TRA, KIỂM SOÁT THU THUẾ 1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tra, kiểm soát thuế 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của kiểm tra, kiểm soát thuế Hoạt động quản lý Nhà nước chính là sự tác động có định hướng của chủ thể quản lý (cơ quan thuế) tới các đối tượng quản lý (đối tượng nộp thuế) nhằm đạt mục tiêu động viên một phần thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước (NSNN). Do vậy kiểm tra, kiểm soát thuế là một công đoạn và là một yếu tố cấu thành của hoạt động lãnh đạo quản lý nhà nước của cơ quan thuế. Hoạt động quản lý của cơ quan thuế bao gồm từ việc xây dựng các mục tiêu kế hoạch trong giai đoạn nhất định đến việc tổ chức để thực hiện các mục tiêu kế hoạch đó và sau cùng là tiến hành kiểm tra, kiểm soát thuế, việc thực hiện đó như thế nào để từ đó tác động ngược trở lại từ khâu xác định chủ trương kế hoạch có hợp lý hay không nhằm đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thuế đạt hiệu quả cao. Kiểm tra, kiểm soát thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế theo mô hình chức năng. Bên cạnh việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai, tự nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện các biện pháp giám sát hiệu quả vừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện, vừa đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Kiểm tra, kiểm soát thuế là một biện pháp hữu hiệu nhằm phát hiện ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế nhận thấy luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại và kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm của họ. Kiểm tra, kiểm soát thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện các thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế, nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế-xã hội. Kiểm tra và kiểm soát thuế có những điểm giống nhau và khác nhau chủ yếu sau: - Kiểm tra, kiểm soát thuế giống nhau: + Về mục đích: phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế. + Về cách thức tiến hành: xem xét hoạt động thực tế của đối tượng để phân tích, đánh giá, phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật thuế. 4 + Về nội dung: đều xem xét doanh thu, chi phí và lợi nhuận. + Về phương pháp: đều phải phân tích xác định rủi ro, truy lần lại việc xử lý dữ liệu, tính toán lại và xác minh. - Kiểm tra, kiểm soát thuế khác nhau: + Về đối tượng: kiểm soát áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp hoặc khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp. + Về phạm vi nội dung: kiểm soát thường là nội dung rộng, phức tạp, có thể liên quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau. + Về biện pháp áp dụng: kiểm soát được áp dụng các biện pháp mạnh hơn (tạm giữ tang vật; tài liệu; khám nơi cất giữ tang vật, tài liệu-theo quy định của luật quản lý thuế). + Về hình thức tổ chức: Đoàn có thể tổ chức thành các tổ để đi sâu vào từng nội dung kiểm soát. + Về thời gian: kiểm soát thường là không quá 30 ngày, kiểm tra thường không quá 5 ngày. 1.1.2 Mục tiêu của kiểm tra, kiểm soát thuế Hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và các cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát thuế nhằm đánh giá việc chấp hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực. Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả kiểm tra, kiểm soát, cơ quan thuế các cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế; đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ. Thông qua công tác kiểm soát nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế 5 trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn. 1.1.3 Nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát thuế Để công tác kiểm tra, kiểm soát thuế đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo những nguyên tắc sau: - Kiểm tra, kiểm soát thuế phải trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định các hành vi vi phạm pháp luật thuế. - Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát thuế phải tuân thủ theo pháp luật, đảm bảo tính đúng đắn khách quan, công khai, dân chủ, khi kết luận một vấn đề phải có chứng lý, không được suy diễn. - Kiểm tra, kiểm soát thuế phải thực hiện đúng quy trình do ngành đã quy định. - Việc tiến hành kiểm tra, kiểm soát thuế phải thực hiện theo kế hoạch và nội dung đề cương được duyệt. - Trong khi kiểm tra, kiểm soát thuế phải tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quần chúng, phát huy dân chủ động viên tham gia cung cấp tài liệu số liệu thông tin cho đoàn. - Nghiêm cấm cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát thuế cố ý làm sai lệch nội dung vụ việc hoặc mở rộng nội dung, phạm vi kiểm tra, kiểm soát; lợi dụng quyền hạn để sách nhiễu gây phiền hà cho đơn vị, bao che người vi phạm hoặc truy ép đơn vị trong việc giải trình, trả lời chất vấn. - Căn cứ vào mục đích của từng cuộc kiểm tra, kiểm soát thuế đòi hỏi người ra quyết định thành lập đoàn kiểm soát phải cử đúng những người có trình độ kỹ năng nghiệp vụ phù hợp. 1.1.4 Vai trò của kiểm tra, kiểm soát thuế 1.1.4.1 Kiểm tra, kiểm soát thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật thuế Hệ thống thuế ở CHDCND Lào hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc thuế điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có những phương pháp quản lý thu khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được ban hành đều đã được nghiên cứu kỹ và chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm nền kinh tế Lào đang ở thời kỳ chuyển đổi từ hành chính, quan liêu, bao cấp 6 sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, bất cập. Chính vì vậy, kiểm tra, kiểm soát thuế là nơi cung cấp các căn cứ, các bằng chứng cụ thể phản ánh một cách chân thực, sống động các hoạt động diễn ra trong thực tế, để phục vụ cho việc hoàn thiện, bổ sung các chính sách cho phù hợp. 1.1.4.2 Kiểm tra, kiểm soát thuế là phương tiện phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm nảy sinh trong hoạt động quản lý thuế Với tư cách là công cụ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, kiểm tra, kiểm soát thuế chính là việc xem xét tại chỗ việc làm của các tổ chức, cơ quan và các cá nhân có đúng quy định của chính sách, pháp luật thuế hay không ? Qua đó sử dụng các biện pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng nộp thuế. Thực tế cho thấy không có hệ thống pháp luật nào có thể đảm bảo là không khiếm khuyết. Đây chính là nguyên nhân để các đối tượng lợi dụng, cố tình lách luật để trục lợi cá nhân. Kiểm tra, kiểm soát thuế phải phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực để ngăn ngừa kịp thời. Ngoài ra, kiểm tra, kiểm soát thuế còn có vai trò quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện. Thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế giúp giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế không cần thiết gây phiền hà đến nhân dân và doanh nghiệp. 1.2 Các hình thức và nội dung về kiểm tra, kiểm soát thuế 1.2.1 Các hình thức kiểm tra, kiểm soát thu thuế 1.2.1.1 Theo tính kế hoạch Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế có hai hình thức là kiểm tra, kiểm soát thuế theo chương trình, kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát đột xuất. Kiểm tra, kiểm soát thuế theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình hình chấp hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, cơ quan thuế xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thuế và trình cấp thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thuế được phê duyệt. 7 Kiểm tra, kiểm soát thuế đột xuất được tiến hành khi đã phát hiện cơ quan, tổ chức cá nhân có dấu hiệu vi phám pháp luật thuế, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao. 1.2.1.2 Theo nội dung và phạm vi kiểm tra, kiểm soát thuế Theo tiêu thức này, kiểm tra, kiểm soát thuế được chia thành hai loại là kiểm tra, kiểm soát toàn diện và kiểm tra, kiểm soát hạn chế. + Kiểm soát toàn diện: với chức năng này, cơ quan chức năng tiến hành kiểm soát toàn diện sẽ thực hiện các cuộc kiểm soát toàn diện hoặc kiểm soát tổng hợp về mọi sắc thuế thu nhập, GTGT, TTĐB và các sắc thuế khác trên cơ sở tờ khai thuế hàng năm. Đây là loại hình kiểm soát sâu và phạm vi rộng cho phép kết luận về những vấn đề mà đối tượng nộp thuế chưa tuân thủ pháp luật thuế. Kiểm soát toàn diện liên quan đến: - Nhiều sắc thuế-nghĩa là kiểm soát tổng hợp các sắc thuế thu nhập, GTGT, TTĐB và các sắc thuế khác theo pháp luật thuế. - Nhiều kỳ tính thuế-đối với những sắc thuế nộp tờ khai năm thì thời kỳ kiểm tra là những kỳ tính thuế gần nhất và chỉ khi có các phát hiện trong quá trình kiểm soát thấy cần thiết mới mở rộng phạm vi kiểm soát. Đối với những sắc thuế nộp tờ khai tháng thì thời kỳ kiểm soát thường là kỳ tính thuế gần nhất cộng với 2 kỳ tính thuế nữa, tuy nhiên kiểm soát dạng này thường là ngoài lệ. - Phạm vi kiểm soát không hạn chế hoặc rộng-các cuộc kiểm soát dạng này sử dụng các kỹ thuật chọn mẫu thích hợp và sẽ quyết định mở rộng phạm vi kiểm soát (trên cơ sở rủi ro) và thời kỳ kiểm tra khi các kết quả của công tác đánh giá rủi ro hoặc các phát hiện trong quá trình kiểm soát chứng minh sự cần thiết. - Nhóm đối tượng nộp thuế trọng điểm-phần lớn là đối tượng kiểm soát toàn diện là các đối tượng nộp thuế lớn. - Địa điểm tiến hành-thường ở trụ sở của đối tượng nộp thuế chứ không ở cơ quan thuế. - Thời gian/độ dài cuộc kiểm soát-thời gian kiểm soát một đối tượng nộp thuế lớn là 60 ngày (2 cán bộ x 30 ngày) và thời gian kiểm soát toàn diện đối tượng nộp thuế vừa là 30 ngày (2 cán bộ x 15 ngày). 8 + Kiểm soát hạn chế (kiểm soát hoàn thuế, một sắc thuế, dự án, phạm vi hạn chế...) - Kiểm soát hạn chế là loại kiểm soát bị hạn chế về phạm vi, có thể là kiểm soát hoàn thuế GTGT, kiểm soát dự án về hạng mục chi phí hoặc một chỉ tiêu nào đó trên bảng cân đối kế toán hoặc báo cáo lỗ lãi. - Một cách khác để xác định kiểm soát hạn chế là công việc kiểm soát chỉ hạn chế đối với một số chỉ tiêu nhất định và không bao gồm các phép thử hay các bước tuần tự kiểm soát cần thiết cho phép cán bộ kiểm soát đánh giá được tổng thể mức độ tuân thủ hay không tuân thủ pháp luật thuế của ĐTNT bị kiểm soát. Thông thường kiểm soát bao gồm việc rà soát lại các chứng từ liên quan trực tiếp đến (các) vấn đề được kiểm tra. Loại hình kiểm soát này thường được bắt đầu từ một trong những nguồn sau: • Đề xuất của bộ phận rà soát các tờ khai • Một dự án hay chương trình liên quan đến vấn đề cụ thể cần được kiểm tra • Hướng dẫn của cán bộ kiểm soát cấp cao hơn • Kiểm soát 1 ĐTNT khác về 1 vấn đề cụ thể Kiểm soát hoàn thuế cần tập trung vào các hồ sơ hoàn thuế rủi ro cao, và chỉ kiểm soát thời kỳ yêu cầu hoàn thuế. Tính tin cậy và chính xác của hồ sơ hoàn thuế cần được kiểm tra thử trên cơ sở chọn mẫu. Đối với kiểm soát hoàn thuế, chỉ khi kết quả chọn mẫu cho thấy cần mở rộng kiểm soát thêm thì mới cần tiến hành xác minh thêm. Thông thường, kiểm soát hoàn thuế ĐTNT lớn hoàn tất trong 15 ngày, ĐTNT vừa là 10 ngày. 1.2.1.3 Theo địa điểm tiến hành kiểm tra, kiểm soát Kiểm tra, kiểm soát tại bàn Việc kiểm soát hoặc kiểm tra tại bàn có thể áp dụng đối với bất kỳ tờ khai thuế nào, bao gồm kiểm tra các chỉ tiêu thu nhập, chi phí hoặc hoàn thuế. Kiểm soát tại bàn không cần đến tận cơ sở ĐTNT. Phạm vi kiểm soát thường hạn chế chỉ để xác minh một số vấn đề cụ thể đã được cán bộ rà soát tờ khai lưu ý hoặc được lưu chuyển qua các khâu (xử lý trước đó). Kiểm soát tại bàn thực hiện đối chiếu chéo những thông tin kê khai trong tờ khai cụ thể, xác minh các phép tính về trừ chi phí sử dụng vốn và kiểm tra chéo dữ liệu thông qua việc yêu cầu ĐTNT mang đến và xuất trình 9 sổ sách, chứng từ mua vào, bán ra tại cơ quan thuế. Thông thường kiểm soát tại bàn đối với ĐTNT lớn hoàn tất trong 3 ngày, đối với ĐTNT vừa là 1 ngày. Kiểm tra, kiểm soát tại bàn bao gồm: + Một sắc thuế hoặc một chỉ tiêu - chỉ kiểm soát hoặc xác minh một sắc thuế như thuế lợi tức, thuế lương, thuế khấu trừ tại nguồn. Kiểm soát tại bàn cũng được áp dụng để kiểm tra một hạng mục chi phí hoặc chỉ tiêu nào đó trên tờ khai. + Một kỳ tính thuế. + Phạm vi hạn chế hoặc hẹp - đối chiếu chéo những thông tin kê khai trong tờ khai cụ thể, xác minh các phép tính về trừ chi phí sử dụng vốn và kiểm tra chéo dữ liệu thông qua việc yêu cầu ĐTNT mang đến, xuất trình sổ sách, chứng từ mua vào, bán ra tại cơ quan thuế. + Nhóm ĐTNT trọng điểm - cả nhóm ĐTNT lớn và vừa. + Địa điểm tiến hành - cơ quan thuế. + Thời gian/độ dài cuộc kiểm soát - kiểm soát tại bàn đối với ĐTNT lớn hoàn tất trong 3 ngày, đối với ĐTNT vừa là 1 ngày. Kiểm tra, kiểm soát tại cơ sở của đối tượng kiểm tra, kiểm soát Kiểm tra, kiểm soát thuế tại cơ sở là một công cụ chủ yếu trong chương trình kiểm soát của Cơ quan thuế. Thời gian cần thiết để thực hiện công việc này là từ một vài giờ cho đến vài tuần tuỳ thuộc bản chất của cuộc kiểm soát, và hoặc quy mô và tính phức tạp của hoạt động của đối tượng nộp thuế. Kiểm soát tại cơ sở thường là việc kiểm tra chi tiết nhưng cũng có lúc chỉ là việc kiểm tra một phần sổ sách kế toán thông thường của ĐTNT ngay tại trụ sở làm việc của ĐTNT. Kiểm soát tại cơ sở có thể được tiến hành bởi một cán bộ kiểm soát hoặc một đội kiểm soát. Đội kiểm soát sử dụng từ hai cán bộ kiểm soát trở lên và có thể bao gồm những thành viên có những kỹ năng khác nhau. Đặc điểm của kiểm tra, kiểm soát tại cơ sở của ĐTNT: + Kiểm tra và sử dụng các kỹ thuật kiểm soát đối với những chứng từ kế toán được ĐTNT lưu giữ. + Trao đổi với đối tượng nộp thuế + Quan sát đánh giá. + Có thể yêu cầu bất cứ người nào thuộc ĐTNT đang kiểm soát cung cấp thông tin; + Có thể yêu cầu thông tin từ bên thứ ba. 10 1.2.2 Nội dung kiểm tra, kiểm soát thuế Căn cứ vào kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thuế, nhóm phân tích phải thực hiện quá trình tập hợp và phân tích rủi ro các thông tin chuyên sâu tại cơ quan thuế, nhằm kiểm tra tính xác thực đối với các hồ sơ khai thuế, báo cáo tài chính thông tin, các nghi vấn cần doanh nghiệp cung cấp thêm thông tin hoặc những nội dung nghi ngờ cần tiếp xúc với doanh nghiệp để làm rõ (thông tin chung về doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức hạch toán, liên doanh liên kết, đối tác kinh doanh, hợp đồng mua bán hàng, tăng giảm tài sản, biên bản xác nhận công nợ nội bộ, công nợ người bán, người mua...). Việc kiểm tra, đối chiếu số liệu tổng hợp tại trụ sở của NNT được thực hiện tuỳ theo phạm vi, quy mô, nội dung cuộc kiểm soát, kiểm tra . Các nội dung kiểm tra đối chiếu số liệu tổng hợp gồm: + Kiểm tra hồ sơ đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, mã số thuế, tình hình đăng ký sử dụng hoá đơn... + Kiểm tra đối chiếu tài liệu, hồ sơ gửi cơ quan thuế với thực tế xuất trình của doanh nghiệp: báo cáo quyết toán tài chính quí, năm; tờ khai thuế Giá trị gia tăng, bản xác định số thuế Thu nhập doanh nghiệp tạm nộp theo qúy, tờ khai thuế Thu nhập doanh nghiệp tự quyết toán năm và các tờ khai quyết toán thuế khác liên quan đến nội dung ghi tại quyết định kiểm soát, kiểm tra. + Kiểm tra việc mở sổ sách và tính hợp pháp: sổ cái, các sổ theo dõi chi tiết theo các chuẩn mực kế toán nhà nước quy định, đối chiếu số liệu tổng hợp giữa sổ chi tiết với bảng cân đối số phát sinh và bảng tổng kết tài sản. + Ngoài ra, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể cần kiểm tra xem xét các tài liệu, hồ sơ liên quan khác: số thuế đầu kỳ trước chuyển sang, xác nhận của cơ quan thuế, cơ quan kho bạc nhà nước về số nộp ngân sách trong kỳ, các tài liệu liên quan đến hoàn thuế, miễn giảm thuế ... Kiểm tra chi tiết, lập hồ sơ chứng lý tại trụ sở NNT gồm các nội dung sau: + Kiểm tra sổ sách, chứng từ và các hồ sơ liên quan đến nội dung kiểm tra, kiểm soát thuế. + Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh: đối chiếu số liệu hạch toán, số liệu tính, kê khai, thu nộp thuế và hạch toán thực tế của doanh 11 nghiệp với các chuẩn mực nhà nước quy định (quy định luật, pháp lệnh thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành; các cơ chế tài chính và chuẩn mực kế toán Nhà nước ban hành...). + Thực hiện lập hồ sơ chứng lý kiểm soát, kiểm tra, hồ sơ chứng lý được coi là tài liệu gốc để lập biên bản kiểm soát, kiểm tra, gồm: Các biên bản ghi nhận kết quả đối chiếu; các bản sao chụp các tài liệu có liên quan kể cả các bức ảnh, đoạn băng ghi lại những việc làm sai của DN (phân tán kho quỹ, cất giấu chứng từ, tài liệu...) + Trường hợp cần thiết phải giám định tài liệu, cần lập biên bản thu giữ tài liệu ghi rõ tình trạng của tài liệu đó (kể cả hiện vật nếu có) để yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giám định. 1.2.3 Quy trình kiểm tra, kiểm soát thuế Quy trình kiểm tra, kiểm soát thuế là các trình tự và các bước công việc cụ thể bắt buộc phải tuân thủ khi thực hiện một quyết định kiểm tra, kiểm soát thuế, một chương trình kiểm tra, kiểm soát hay một kế hoạch kiểm tra, kiểm soát cụ thể. Ngoài công tác lập kế hoạch kiểm tra, kiểm soát hàng năm và công tác báo cáo thực hiện kết quả kiểm tra, kiểm soát thì kiểm tra, kiểm soát bao gồm một loạt các bước lôgich với nhau từ lúc cán bộ kiểm tra, kiểm soát nhận hồ sơ cho đến khi hoàn thành, được thể hiện dưới dạng sơ đồ như sau: 12 Sơ đồ 1.1: Quy trình kiểm tra, kiểm soát thuế Giao hồ sơ cho cán bộ kiểm soát Rà soat hồ sơ tại bàn Liên hệ với: - Đối tượng nộp thuế - Kế toán viên - Người đại diện Gặp mặt lần đầu với ĐTNT - Phỏng vấn lần đầu - Tham quan cơ sở kinh doanh - Xem xét sổ sách và chứng từ Công việc kiểm soát: - Áp dụng những kỹ thuật kiểm soát - Quy mô cuộc kiểm soát Kiến nghị/lập biên bản: - Phỏng vấn kết thúc - Công văn thông báo biên bản Báo cáo kiểm soát và các báo cáo khác Đóng hồ sơ (Nguồn: quy định của luật quản lý thuế sửa đổi năm 2005) 1.2.4 Tổ chức kiểm tra, kiểm soát thuế Hệ thống kiểm tra, kiểm soát thuế được tổ chức theo hệ thống dọc gắn với mô hình tổ chức cơ quan thuế.Hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế được 13 phân cấp theo mô hình tổ chức cấp trung ương và địa phương (Cục thuế vùng, tỉnh). Bộ phận kiểm soát ở trung ương chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch kiểm soát quốc gia, chuyển tải các mục tiêu của kế hoạch cho các cán bộ kiểm soát địa phương và giám sát việc thực hiện kế hoạch. Kiểm soát của Trung ương chịu trách nhiệm chung về việc xây dựng kế hoạch kiểm soát quốc gia hàng năm, các cơ quan địa phương sẽ chịu trách nhiệm cung cấp đầu vào liên quan đến các ĐTNT mà họ quản lý để xây dựng kế hoạch kiểm soát quốc gia. Các cơ quan địa phương chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát các ĐTNT lớn và vừa. 1.2.5 Kiểm tra, kiểm soát thuế trong hệ thống tự khai tự nộp Trong quản lý thuế, trên thế giới có hai phương thức chủ yếu là kiểm tra trước khi chấp nhận và tự khai tự nộp: - Kiểm tra trước khi chấp nhận là phương thức mà trong đó tờ khai thuế phải được kiểm tra soát xét ở một mức độ nhất định trước khi thông báo chính thức số thuế phải nộp của ĐTNT. - Tự khai tự nộp là phương thức mà trong đó tờ khai thuế được chấp nhận ngay (ngoại trừ trường hợp có những sai sót về tính toán hoặc trình bày). Sau đó các tờ khai thuế sẽ được chọn mẫu để kiểm tra, kiểm soát. Mặc dù còn những tranh luận nhất định, phương thức tự khai tự nộp được xem là một phương thức có nhiều ưu điểm hơn và được áp dụng ngày càng rộng rãi với mục đích cải thiện tính tuân thủ và tính hiệu quả thông qua việc thu được tiền thuế sớm hơn, thực hiện một chương trình kiểm tra, kiểm soát có trọng tâm. Hệ thống tự khai tự nộp nhấn mạnh đến sự tự giác tuân thủ của ĐTNT nhưng nó phải đi kèm với một hệ thống kiểm tra, kiểm soát thuế chặt chẽ và các hình phạt nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm. Do đó, một trong những vấn đề cốt lõi đểbảo đảm tính tuân thủ hệ thống tự khai tự nộp là việc kiểm tra, kiểm soát thuế có hữu hiệu hay không. Việc kiểm tra, kiểm soát thuế trong hệ thống tự khai tự nộp nhằm thỏa mãn các mục tiêu sau: - Phát hiện các hành vi ẩn lậu thuế và thu hồi số thuế bị ẩn lậu. 14 - Thúc đẩy sự tự giác tuân thủ. Bởi lẽ khi ĐTNT hiểu rằng nếu sai phạm trong việc khai thuế thì sẽ bị phát giác và bị phạt, họ sẽ quyết định lực chọn việc tuân thủ luật thuế. - Thu thập thông tin cho việc hoàn thiện hệ thống. Với các dữ liệu thu thập được qua quá trình kiểm tra, kiểm soát thuế sẽ hình thành được một hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phát triển các công cũ đánh giá rủi ro sai lệch thuế, đồng thời điều chỉnh những điểm chưa rõ ràng trong luật định. Kiểm tra, kiểm soát thuế trong hệ thống tự khai tự nộp, việc lựa chọn đối tượng kiểm tra là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành công của các mục tiêu đề ra cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế. Cụ thể là: - Nếu chọn các đối tượng có rủi ro sai lệch thuế thấp để kiểm tra sẽ tốn kém thời gian nhưng không phát hiện được các trường hợp ẩn lậu thuế, không thu hồi được các khoản thuế bị ẩn lậu. - Nếu các đối tượng được chọn để kiểm tra theo một khuôn mẫu có định, một số ĐTNT có thể không bao giờ được chọn để kiểm tra, đều này sẽ không khuyến khích được sự tuân thủ. - Việc thu thập thông tin để đánh giá mức độ tuân thủ luật thuế, xây dựng cơ sở dự liệu chuẩn cũng như phát triển các công cụ đánh giá rủi ro theo lậut định và hoàn thiện các quy định thuế đòi hỏi cách thức lựa chọn các đối tượng kiểm tra, kiểm soát phải tính toán để có được các kết quả phù hợp. 1.2.6 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế 1.2.6.1 Hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thuế Trong lĩnh vực thuế, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế không chỉ xét đơn thuần theo giá trị bằng tiền. Hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát thuế là hiệu quả thực hiện các chính sách thuế, phát huy các tác dụng vốn có của mỗi loại thuế đối với sản xuất và đời sống xã hội, phục vụ công tác quản lý các đối tượng nộp thuế trong quá trình chấp hành pháp luật về thuế trên cơ sở công tác quản lý thuế đạt được hiệu quả là tối đa với chi phí quản lý ở mức tối thiểu. Hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế phải được xem xét trên các góc độ hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị. - Hiệu quả kinh tế: Khai thác đầy đủ kịp thời các khoản thu Luật định về thuế vào Ngân sách nhà nước. 15 - Hiệu quả xã hội: Công tác kiểm soát góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội. - Hiệu quả chính trị : Là hiệu quả thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước Để đánh giá được hiệu quả của công tác kiểm soát, kiểm tra thuế cần phải căn cứ vào hệ thống các tiêu chuẩn, chỉ tiêu đánh giá. Chúng ta sẽ cùng xem xét hệ thống các tiêu chí đó trong mục tiếp theo. 1.2.6.2 Các tiêu chuẩn đánh giá Các tiêu chí định lượng Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế của nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát thuế đã được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc kết quả đem lại của các nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát thuế. Các tiêu chí này thường gồm: + Tình hình thực hiện kế hoạch kiểm soát: Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số đối tượng kiểm soát, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành về số thời gian so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số vụ việc khiếu tố giải quyết được so với kế hoạch năm... + Tình hình vi phạm pháp luật thuế đã phát hiện qua kiểm tra, kiểm soát: Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vi phạm pháp luật thuế/Tổng số đối tượng kiểm soát, kiểm tra bình quân/kiểm soát viên hàng năm; chi phí bằng tiền trực tiếp cho kiểm soát, kiểm tra... + Hiệu quả trực tiếp của kiểm tra, kiểm soát : Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Chi phí kiểm tra, kiểm soát so với số thuế truy thu đã nộp NSNN; Tỷ lệ giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy thu thuế theo biên bản kiểm soát, kiểm tra thuế khi giải quyết khiếu nại của đối tượng kiểm tra, kiểm soát; Tỷ lệ trường hợp đối tượng kiểm tra, kiểm soát chấp nhận hoàn toàn kết luận kiểm tra, kiểm soát; Tỷ lệ số thuế truy thu được nộp vào NSNN/tổng số thuế truy thu.... Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên, song trên thực tế đa số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu quả kinh tế của công tác kiểm tra, kiểm soát. Bên cạnh việc tính toán các chỉ tiêu này trong năm, để đánh giá chính xác hơn tính hiệu quả, cần phải so sánh với các năm trước để đánh giá xu hướng biến động của các chỉ tiêu, có như thế mới thấy rõ những tiến bộ của từng khâu công tác. 16 Các chỉ tiêu định tính Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát mà không thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu quả có tính xã hội, chính trị như: + Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật. Tiêu chí này có thể đo lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng kiểm tra, kiểm soát thuế qua các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được kiểm tra, kiểm soát (mức độ tái phạm). + Tác dụng ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự công bằng giữa các ĐTNT; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Có thể đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử lý truy thu thuế và xử phạt hành chính thuế (chia theo mức xử phạt). + Tác dụng phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan thuế và tạo lòng tin của ĐTNT vào hoạt động kiểm soát, kiểm tra. Có thể đánh giá qua chỉ tiêu: Tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật trong kiểm soát, kiểm tra; tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật bị xử lý (chia theo hình thức); những vụ việc vi phạm quan trọng và nhạy cảm được phát hiện và xử lý... Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát được đánh giá theo kỳ (quý, năm) và được chia theo nhiều sắc thuế; theo hình thức kiểm soát; theo loại đối tượng nộp thuế và từng nội dung kiểm soát, kiểm tra tương ứng. 1.3 Quản lý thuế và mô hình quản lý thuế 1.3.1 Khái niệm quản lý thuế Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính sách thuế thường được thiết kế nhằm thực hiện những chức năng của thuế như điều tiết kinh tế vĩ mô phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập nhằm bảo đảm sự công bằng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu quản lý thuế thực hiện điều hành, giám sát tốt để ai là người nộp thuế thì phải nộp thuế và người nộp thuế phải nộp đúng, nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào NSNN. Vì 17 vậy, có thể khẳng định Quản lý thuế có vai trò quyết định cho sự thành công của từng chính sách thuế. 1.3.2 Mục tiêu quản lý thuế - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước và cơ quan quản lý thuế kiểm tra thu đúng, thu đủ tiền thuế. - Quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế. - Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế. 1.3.3 Nguyên tắc quản lý thuế - Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đều có trách nhiệm tham gia quản lý thuế. - Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế. 1.3.4 Nội dung quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp thuế 1.3.4.1 Khái niệm về cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế tự giác tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ vào các qui định tại các Luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai thuế và nộp thuế đúng thời hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế nếu người nộp thuế tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát thuế để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vị gian lận, trốn thuế của người nộp thuế. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng