LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta đang nằm trong thời kỳ quá độ từ nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, cho nên vấn đề
hội nhập vào khu vực cũng như thế giới còn gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn
đòi hỏi phải có sự vận hành một cách đồng bộ trong tất cả các ngành lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội. Nhưng thực tế đã chững minh rằng có rất nhiều doanh
nghiệp mặc dù dư nguồn vốn về kinh doanh, có đội ngũ người lao động có trình độ
, kinh nghiệm mà vẫn làm ăn không có hiệu quả. Một nguyên nhân sâu xa của nó
chính là vấn đề về nhân sự đặc biệt là vấn đề có liên quan trực tiếp tới người lao
động như việc trả lương, thù lao , bảo hiểm xã hội.
Vì vậy có thể khẳng định lương bổng là một vấn đề muôn thủa của nhân
loại và là vấn đề nhức nhối của hầu hếtcác công ty Việt Nam. Đây là một đề tài
từng gây tranh luận sôi nổi trên diễn đàn quốc hội Việt Nam trong nhiều năm qua.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị nhân sự, em đã mạnh
dạn chon đề tài : “Hoàn thiện các hình thức trả công trong doanh nghiệp hiện
nay là một yêu cầu cấp bách.”. Đây là một đề tài rộng đòi hỏi phải có nhiều kiến
thức thực tế.
En xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của cô giáo - Tiến sĩ
Phạm Thuý Hương cùng với sự giúp đỡ của các thày cô giáo trong khoa đã giúp
em hoàn thành đề án này.
Nội dung đề án bao gồm:
Phần I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG.
Phần II.
THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC TRẢ CÔNG CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG.
Phần III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC HÌNH THỨC
TRẢ CÔNG TRONG DOANH NGHIỆP.
Phần I
Trang 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
I. KHÁI NIỆM, YÊU CẦU, NGUYÊN TẮC CỦA TỔ CHỨC
TIỀN LƯƠNG.
Tiền lương là một trong những động lực kích thích con người làm việc hăng
hái nhưng đồng thời cũng là một nguyên nhân gây trì trệ, bất mãn hoặc từ bỏ công
ty mà ra đi. Tất cả đều tuỳ thuộc vào năng lực trình độ của cấp quản trị.
Trong nền kinh tế thị trường và sự hoạt động của thị trường sức lao động,
sức lao động là hàng hoá, do vậy tiền lương là giá cả của sức lao động. Khi phân
tích về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nơi mà các quan hệ thị trường thống trị mọi
quan hệ kinh tế, xã hội khác. C .Mac viết ”tiền công không phải là giá cả hay giá
trị của lao động mà chỉ là hình thái cải trang của giá trị hay giá cả của sức lao
động.”(CMac – Angghen tuyển tập 2 nhà xuất bản sự thật – Hà Nội 1962, trang
31)
Tiền lương phản ánh nhiều quan hệ kinh tế xã hội khác nhau. Tiền lương
trước hết là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Đó là quan
hệ kinh tế của tiền lương, mặt khác do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao
động mà tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế mà còng là vấn đề xã hội
rất quan trọng, liên quan đế đời sống và trật tự xã hội, đó là quan hệ x của tiền
lương ...
Trong quá trình hoạt động nhất là trong hoạt động kinh doanh đối với các
chủ doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành chi phí sản xuất – kinh
doanh. Vì vậy tiền lương luôn được tính toán và quản lý chặt chẽ. Đối với người
lao động tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động , phần thu nhập chủ yếu đối
với đại đa số lao động trong xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của họ
phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích hết thảy của mọi người lao động. Mục
đích này tạo động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động.
Để hiều rõ về tiền lương, trước hết ta phải hiểu sức lao động trở thành hàng
hoá đứng trên góc độ quản trị nhân lực trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước.
1. Sức lao động trở thành hàng hoá.
Trang 2
Trong phần nghiên cứu này chúng ta không đi sâu nghiên cứu các quan
điểm của C Mac về vấn đề sức lao động mà chỉ đề cập đến trong điều kiện nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dưới hai điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế nền sản xuất xã hội thể
hiện rõ sự thách rời giữa hai quyền sở hứu và sử dụng tư liệu sản xuất ở các thành
phần kinh tế khác nhau. Kinh tế tư nhân; người lao động là người không có quyền
sở hữu tư liện sản xuất, nhưng có quyền sử dụng tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước
là sở hữu chung tập thể công nhân viên chức đều là người làm công ăn lương,
giám đốc và người lao động đều được nhà nước giao quyền quản lý sử dụng tư liệu
sản xuất chứ không được quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Thứ hai, nước ta đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường vì vậy người
lao động được tự do chọn việc làm và được quyền lựa chọn cả nơi làm việc, tự do
dịch chuyển nơi làm việc giữa các thành phần kinh tế, giữa các cơ sở kinh tế. Vì
vậy có thể kết luận tiền lương, tiền công được trả theo giá cả sức lao động.
2. Các khái niệm về tiền lương.
2.1
Tiền lương là gì.
Tiền lương là giá cả của sức lao động được hình thành thông qua sự thoả
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động do quan hệ cung cầu sức lao
động trên thị trường quyết định phù hợp với những quy định của luật lao động.
Như vậy cần có sự phân biệt giữa tiền lương và tiền công để tránh sự nhầm
lẫn cơ bản khi đủ trả cho người lao động. Tiền lương được trả một cách thường
xuyên và ổn định, tiền công được trả theo khối lượng công việc hoặc thời gian lao
động hoàn thành.
2.2
Tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế.
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả
cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ kinh nghiệm
làm việc...
Tiền lương thực tế là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch
vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương
danh nghĩa của họ.
Trang 3
Như vậy tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số lượng tiền lương
danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoá tiêu dùng và các
loại dịch vụ mà họ muốn mua. Có thể biểu thị mối quan hệ giữa chúng qua công
thức sau.
Itltt =
Với
Ttldn
I gc
Itltt : tiền lương thực tế
Itldn : tiền lương danh nghĩa
Igc : giá cả.
Xuất phát từ công thức trên có thể đưa ra có một chính sách lớn về thu
nhập, tiền lương và đời sống cho người lao động.
2.3
Tiền lương tối thiểu.
Mỗi một con người sinh ra và lớn lên đều có các nhu cầu thiết yếu cơ bản,
đảm bảo tối thiểu về các mặt như ăn , mặc , ở, đi lại, học thập, hưởng thụ văn hoá
xã hội , giao tiếp xã hội , bảo hiểm xã hội, đặc biệt cả trong vấn đề nuôi con. Nhìn
chung đều nhằm một mục đích duy trì cuộc sống và làm việc.
Mức sống tối thiểu là mức độ mà chúng ta thoả mãn nhu cầu tối thiểu trong
điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, đó là một mức sống thấp chỉ đủ để bảo đảm cho
con người có một thân thể khoẻ mạnh, một nhu cầu vật chất tối thiểu.
Vậy tiền lương tối thiểu là gì ? Đó là số tiền dùng để trả cho người lao động
mà người lao động làm những công việc đơn giản nhất trong xã hội trong những
điều kiện lao động bình thường không qua đào tạo nghề. Đó là số tiền mà người
lao động bảo đảm mua được tư liệu sinh hoạt tiêu dùng thiết yếu để tái sản xuất
sức lao động cá nhân và có giành một phần để bảo hiểm lúc già và nuôi con.
3. Những yêu cầu trả lương.
Thứ nhất, trả lương trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử
dụng lao động được ghi trên hợp đồng lao động.
Thứ hai, để bảo vệ cho người lao động , tuy hai bên đã thoả thuận mức
lương với nhau nhưng quan trọng là mức lương đó không được phép thấp hơn mức
lương tối thiểu do nhà nước quy định.
Trang 4
Thứ ba, người lao động làm việc gì được trả lương theo công việc ấy và
theo kết quả và hiệu quả thực hiện công việc. Với hình thức trả lương do người lao
động lựa chọn và được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ tư, mức lương tối thiểu do nhà nước quy định trả cho người làm việc
đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường không qua đào tạo nghề. Còn
người có trình độ lành nghề có chuyên môn tuỳ thuộc nghiệp vụ hoặc những người
làm việc phức tạp, làm việc trong môi trường độc hại, nguy hiểm nặng nhọc phải
trả mức lương cao hơn.
Thứ năm, tuỳ theo khả năng tổ chức thực tế cho phép mà người sử dụng lao
động có thể trả cho người lao động với mức lương cao hơn mức lương tối thiểu và
cao hơn mức lương quy định trong bảng lương.
4. Những nguyên tắc của tiền lương.
-
Nguyên tắc 1 : Phải đảm bảo mức tăng năng suất lao động lớn hơn tốc độ
tăng tiền lương.
-
Nguyên tắc 2 : Đảm bảo mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
-
Nguyên tắc 3 : Tạo điều kiện cho tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, tạo cơ sở
hạ giá thành và giảm giá cả hàng hoá.
-
Nguyên tắc 4 : Khả năng để đảm bảo là tăng mức lương bình quân có thể
tăng năng suất lao động, tăng trình độ người lao động đảm bảo việc làm co người
lao động, hoặc giảm thất nghiệp trong xã hội.Điều này phụ thuộc rất nhiều ở bản
thân từng doanh nghiệp trình độ quản lý cải cách hành chính, sử dụng hợp lý các
điều kiện lợi thế về tự nhiên đổi mới nhập khẩu, áp dụng công nghệ mới.
Một vấn đề được đặt ra là phải đảm bảo mối quan hệ hợplý về tiền lương
giữa những người lao động lành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân có
nghĩa là rút ngắn được khoảng cách về thu nhập giữa những người lao động có
cùng trình độ chuyên môn nhưng làm việc trong những nghành, lĩnh vực khác
nhau.
Trang 5
Thị trường lao
động
-
Lương bổng
trên thị trường.
-
Chi phí sinh
hoạt.
-
Công đoàn,
xã hội, luật pháp.
Trang 6
Hình 01.
Các quyết định ảnh hưởng tới lương bổng và đãi ngộ thuộc về tài
chính
II.
Hệ thống trả công.
Trong khi hoạch định các chính sách về tiền lương, đòi hỏi doanh nghiệp
phải nghiên cứu kỹ các yếu tố xác định và ảnh hưởng tới lương bổng. Nếu không
chú ý đế các yếu tố này , hệ thống trả công của doanh nghiệp sẽ mang tính chất
chủ quan và thiên lệch. Đó là các yếu tố được mô tả vắn tắt ở hình 01 (trích: Quản
lý nhân sự – Nguyễn Hữu Thân – trang 32 chương 10 )
A. HỆ THỐNG TRẢ CÔNG THỐNG NHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.
1. Chế độ lương cấp bậc.
1.1
Khái niệm.
Đó là toàn bộ những quy định mà các doanh nghiệp vận dụng để trả cho người lao
động căn cứ vào chất lượng và điều kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc
nhất định, chế độ lương cấp bậc áp dụng cho những người lao động trực tiếp và trả
theo kết quả cv của họ thể hiện qua số lượng chất lượng lao động.
Số lượng lao động thể hiện ở mức hao phí thời gian lao động dùng để sản xuất ra
sản phẩm.
Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ tay nghề của người lao động được sử dụng
vào quá trình lao động nguồn gốc sâu xa là trình độ giáo dục đào tạo kinh nghiệm
kỹ năng, biểu hiện thông qua năng suất lao động.
1.2
-
Ý nghĩa.
Chế độ lương cấp vậc tạo khả năng điều chỉnh tiền lương giữa các ngành,
các nghề một cách hợp lý, giảm bớt tính chất bình quân trong việc trả lương.
-
Chế độ lương cấp bậc có tác dụng làm cho việc bố trí và sử dụng công
nhân thích hợp với khả năng về sức khoẻ và trình độ lành nghề của họ, tạo cơ sở
Trang 7
để xây dựng kế hoạch lao động nhất là kế hoạh tuyển chọn, đào tạo nâng cao trình
độ người lao động.
-
Khuyến khích và thu hút người lao động vào làm việc trong những ngành
nghề có điều kiện lao động nặng nhọc, khó khăn độc hại.
Chế độ lương cấp bậc không phải là cố đinh, trái lại tuỳ theo điều kiện về
kinh tế , chính trị và xã hội trong từng thời kỳ nhất định mà chế độ tiền lương này
được cải tiến hay sửa đổi thích hợp để phát huy tốt vai trò, tác dụng của nó.
1.3
Nội dung của chế độ lương cấp bậc.
Thang bảng lương.
Khái niệm:
thang lương là một bản xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương
giữa những công nhân trong cùng một nghề hoặc nhóm nghề khác nhau theo trình
độ lành nghề của họ. Một thang lương bao gồm một số bậc lương và hệ số phù hợp
với các bậc đó.
-
Bậc lương nhằm phân biệt trình độ lành nghề của công nhân được xét từ
thấp đến cao.
-
Hệ số lương chỉ rõ lao động của công nhân bậc nào đó sẽ đượ trả lương cao
hơn người lao động làm việc ở những công việc xếp vào mức lương tối thiểu là
bao nhiêu lần.
-
Nhóm lương xác định theo điều kiện lao động.
-
Hệ số tăng tuyệt đối.
Với
Hn :
htdn = Hn + Hn-1
hệ số lương bậc n
Hn-1 : hệ số lương bậc n-1
htdn :
-
hệ số tăng tuyệt đối.
Hệ số tăng tương đối :
Htgđn =
Với
htdn
hn 1
Htgđn : hệ số tăng tương đối.
Trình tự xây dựng thang lương.
-
Xây dựng chức danh nghề nghiệp của công nhân.
Trang 8
Chức danh nghề của công nhân là chức danh cho công nhân trong cùng một
nghề hay một nhóm nghề. Việc xây dựng căn cứ vào tính chất đặc điểm và nội
dung của quá trình lao động.
Xác định hệ số của thang lương thực hiện thông qua phân tích thời gian và
yêu cầu về phát triển nghề nghiệp cần thiết để một công nhân có thể đạt tới bậc cao
nhất trong nghề.
Xác định bội số của thang lương. Ngoài phân tích quan hệ trong nhóm nghề
và những nghề khác để đạt được tương quan hợp lý giữa các nghề với nhau.
Xác định số bậc của thang lương căn cứ vào bội số của một thang lương tính chất
phức tạp của sản xuất và trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động.
Xác định hệ số lương của các bậc dựa vào bội số của thang lương số bậc
trong thang lương và tính chất trong hệ số tăng tương đối mà xác định hệ số lương
tương ứng cho từng bậc lương.
1
2
3
1,35
1,47
1,62
1,4
1,55
1,72
Bậc lương
4
5
6
7
1,78
2,18
2,67
3,28
1,92
2,33
2,84
3,45
+ Nhóm 1
Hệ số lương
+ Nhóm 2
Hệ số lương
Hình 2.
Thang lương công nhân cơ khí, điện, điện tử, tin học.
Mức lương
Khái niệm : là số tiền dùng để trả công lao động trong một đơn vị thời gian
(giờ, ngày, tháng) phù hợp với bậc trong thang lương trong một thang lương, mức
tuyệt đối của mức lương được quy định cho bậc 1 hay mức tối thiểu, các bậc còn
lại thì được tính dựa vào suất lương bậc một và hệ số lương tương ứng với bậc đó.
Mi = Ki . Ml
Với
Mi
: là mức lương của bậc i nào đó.
Ml
: là mức lương tối thiểu.
Ki
: hệ số lương bậc i.
Trang 9
Tiêu chuẩn cấp bậc công việc.
Khái niệm : tiêu chuẩn cấp bậc công việc là mức độ phức tạp của công việc
được xác định theo một thang đánh giá về trình độ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất
yêu cầu của các chức năng lao động bao gồm chuẩn bị, tính toán thực hiện quá
trình lao động, mức độ trách nhiệm.
Cấp bậc công việc bình quân :
CBCV =
(CV V )
V
i
i
i
VớI
CVi
: là công việc bậc thứ i.
Vi
: là số lượng công việc cùng bậc i.
Vi
: là tổng số công việc thuộc mọi bậc.
Trên cơ sở bản tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật ( cấp bậc công việc ) các doanh
nghiệp tổ chức bồi dưỡng kiến thức và tay nghề , thi nâng bậc cho công nhân , bố
trí sắp xếp lao động phù hợp và hiệu quả nhất.
2. Chế độ tiền lương chức vụ.
2.1 Khái niệm.
Chế độ tiền lương chức vụ là toàn bộ những quy định của nhà nước mà các
tổ chức quản lý nhà nước các tổ chức kinh tế xã hội và các doanh nghiệp áp dụng
để trả lương cho lao động quản lý.
Khác với công nhân, người lao động trực tiếp thì người lao động quản lý tuy không
trực tiếp tạo ra sản phẩm, hàng hoá nhưng lại đống vai trò rất quan trọng như lập
kê hoạch, điều hành, kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2
-
Xây dựng chế độ tiền lương chức vụ.
Xây dựng chức danh của lao động quản lý dựa vào trình độ chuyên môn, kỹ
thuật, khả năng lãnh đạo, thâm niên công tác.
-
Đánh giá sự phức tạp của lao động trong từng chức danh.
-
Xác định hệ số vá số bậc trong một bảng hay ngạch lương.
-
Xác định mức lương bậc một và các mức lương khác trong bảng lương.
Ví dụ :
Hạng
Hệ số mức lương
Trang 10
Chức danh
I. Giám đốc.
Đặc biệt
I
II
III
IV
+ Hệ số
6,72-7,06
5,72-6,03
4,98-5,16
4,32-4,6
3,66-3,9
967,7
860,3
757,4
662,4
567
4,98-5,26
4,32-4,6
3,66-3,94
3,04-3
757,4
662,4
567,4
437,4
+ Mức lương
II.
Phó
giám đốc và KTT
+ Hệ số
6,03-6,34
+ Mức lương
913
Hình 03.
Bảng lương chức vụ quản lý trong doanh nghiệp.
B. CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG.
I. Hình thức trả lương theo sản phẩm.
1. Ý nghĩa và điều kiện của trả lương theo sản phẩm.
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động dựa trực
tiếp và số lượng và chất lượng sản phẩm mà họ hoàn thành. Đây là hình thức trả
lương được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.
Ý nghĩa
-
quán triệt tốt nguyên tắc trả lương theo lao động vì tiền lương mà người lao
động nhậ được phụ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm hoàn thành.
-
Trả lương theo sản phẩm có tác dụng trực tiếp khuyến khích người lao động
ra sức học tập nâng cao trình độ lành nghề tích luỹ kinh nghiệm ...
-
Nâng cáo vào hoàn thiện công tác quản lý, nâng cao tính tự chủ, chủ động
trong làm việc của người lao động.
-
Xây dựng mức lao động có căn cứ khoa học.
-
Tổ chức phục vụ nơi làm việc.
2. Các chế độ trả lương theo sản phẩm.
II.1
Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Chế độ này được áp dụng rộng rãi đối với người trực tiếp sản xuất trong điều
kiện lao động độc lập, có thể định mức kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm một cách
cụ thể và riêng biệt.
Trang 11
-
Tính đơn giá tiền lương.
ĐG =
L0
Q
hoặc
ĐG = L 0 T
trong đó
-
ĐG
: Đơn giá tiền lương trả cho một sản phẩm.
L0
: Lương cấp bậc của công nhân.
Q
: Mức sản lượng.
T
: Mức thời gian.
Như vậy tiền lương trong kỳ của một công nhân hưởng lương được tính như
sau:
L1 = ĐG Q1
Trong đó
II.2
L1
: là tiền lương thực tế.
Q1
: là số lượng sản phẩm hoàn thành.
Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp tập thể.
Chế độ này áp dụng để trả lương co một nhóm người khi họ hoàn thành một
khối lượng sản phẩm nhất định.
-
Tính đơn giá tiền lương.
ĐG =
LCB
Q0
(nhiều sản phẩm hoàn thành).
ĐG = LCB T0(một sản phẩm hoàn thành).
Trong đó:
-
ĐG
: tiền lương cấp bậc trả cho tổ.
LCB
: tiền lương cấp bậc của công nhân.
Q0
: mức sản lượng cả tổ.
T0
: mức thời gian của tổ.
Tính tiền lương thực tế.
L1 = ĐG Q1
Thông thường người ta dùng hệ số điều chỉnh và phương pháp dùng giờ hệ
số để chia lương.
Cách 1:
Hệ số điều chỉnh.
Trang 12
Bước 1: Tính tiền lương của từng người lao động theo cấp bậc và thời gian
lao động thực tế.
Li = Lcb Thời gian trung bình từng người lao động i
L0 = ĐG Q(Mức) =
L
i
Bước 2: Tính hệ số điều chỉnh
Hđc =
Ltt
L0
Cho nên hệ số điều chỉnh có thể , ,= 1
Li* = Hđc Li
Bước 3: Tiền lương thực lĩnh:
Cách 2
Giờ hệ số
Bước 1:
Quy đổi giờ làm việc thực tế thành giờ ở bậc nhỏ nhất.
Tquy đổi i = Ti Hi(hệ số lương quy dổi bặc i)
Bước 2:
Tính tiền lương cho một giờ ở bạc thấp nhất.
n
L
L10 = T
qd
Tqđ =
Tqđi
1
Bước 3:
L* = L10 Tqđi
Ví dụ:
tính tiền lương cho một người lao động nhận được .
n
1
Li* = L = ĐG Qtt
Có một nhóm người lao động làm theo tiền lương tập thể . bốn công
nhân với cấp bậc và thời gian thực tế như sau.
CN1 bậc 1 hệ số lương 1,5 thời gian lao động thực tế là 180 h/tháng
2
2
2,1
200
3
3
2,4
190
4
5
3,0
180
Biết nhóm này định mức sản phẩm là 5 sản phẩm / ca lương tối thiểu 250000
đ/tháng. Tháng làm việc 26 ngày. số sản phẩm thực tế trong tháng đó 200
sảnphẩm.
Hỏi mỗi người lao động nhận bao nhiêu tiền lương.
Giả sử 1 ngày 1 ca ĐG =
250000 (1,5 2,4 2,1 3,0)
=17307 đ/sp
5 26
Ltt = 17307 200 = 3 461 400 đ
Trang 13
Hđc =
(Trong đó L0 =
Ltt
3461538,4
= 2026442,2 = 1,7082
L0
(1,5 180 2,1 200 2,4 190 3 180) 250000
= 2026442,2)
26 8
L1* =
250000 1,5 180
= 551682
26 8
Hai phương pháp chia lương trên bảo đảm tính chính xác trong việc chi trả
lương cho người lao động. Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, sự hợp tác hỗ trợ
nhau trong công việc , song không khuyến khích được tăng năng suất lao động cá
nhân.
II. Hình thức trả lương theo thời gian.
1.
Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản.
Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản là chế độ trả lương mà tiền lương
nhận được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời
gian thực tế làm việc nhiều hay ít quyết định.
Chế độ trả lương này chỉ áp dung trong trườn hợp khó định mức lao động,
khó đánh giá công việc chính sác tiền lương được tính như sau:
Ltt = LCB T
Chế độ trả lương này thường mang tính chất bình quan không khuyến khích
sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật liệu , tập chung công suất
của máy móc thiết bị dể tăng năng suất lao động.
2.
Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng.
Chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời gian đơn
giản với tiền thưởng, khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng chất lượng đã quy
định.
Tiền lương của công nhân đợc tính bằng cách lấy lương trả theo thời gian
đơn giản nhân với thời gian làm việc thực tế sau đó cộng với tiền thưởng.
Chế độ trả lương này không những phản ánh trình độ thành thạo và thời
gian làm việc thực tế mà còn gắn chặt với thành tích công tác của từng người
thông qua việc xét thưởng chính vì vậy làm cho chế độ trả lương ngày càng mở
rộng hơn.
Trang 14
III.
Vai trò của tiền lương trong tạo động lực.
Quản lý có nhiệm vụ tổ chức quá trình lao động của con người đạt năng
suất lao động cao. Tại sao có lúc họ hăng hái có năng suất lao động nhưng có lúc
họ uể oải, thờ ơ trước công việc, thậm chí bỏ việc, từ bỏ doanh nghiệp ra đi. Xuất
phát từ nhu cầu của người lao động mức độ mong muốn dần dần được nâng cao,
không phải chỉ có thế họ lao động còn do mong muốn góp phần thực hiện các mục
tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội của doanh nghiệp.
Trong thực tế, việc đáp ứng nhu cầu nhằm tái sản xuất mở rộng sức lao
động của con người được thực hiện thông qua tiền lương, tiền thưởng và các
khuyến khích vật chất tinh thần, hệ thống tiền lương tiền thưởng được xây dựng
trên cơ sở :
-
Phân loại lao động theo nghề và theo chuyên môn.
-
Tính đổi lao động phức tạp thành các lao động giản đơn.
-
Quy định mức lương tối thiểu, thiết kế các loại thang lương, các bậc và hệ
số khác nhau.
-
Xác định hình thức thưởng và các loại chỉ tiêu, các điều kiện bình thường.
Tuy nghiên, đây chỉ là vấn đề có tính chất kỹ thuật chuyên môn của các chuyên gia
về quản lý nhân lực. Khó khăn chủ yếu ở những vấn đề sau đây :
-
làm sao có đượng hệ thống tiền lương tiền thưởng có hiệu quả , đủ sức tái
sản xuất mở rộng sức lao động.
-
Muốn tạo độnglực mạnh trong lao động cần có hệ thống tiền lương, tiền
thưởng như thế nào.
-
Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có liên quan đế hàng tiêu dùng
và các loại dịch vụ trên lại thường có sự biến động vậy cần phải có cơ chế điều
chỉnh như thế nào với tiền lương.
-
Đời sống của người lao động hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, thu nhập
thấp, sức ép của sự nghèo khổ còn mạnh, hệ thống tiền lương, tiền thưởng thoát
khỏi sức ép bằng biện pháp nào.
Chính vì vậy, có thể khẳng định tiền lương là một biện pháp kích thích về
mặt vật chất, tinh thần cho người lao động. Nừu có một chế độ trả công hợp lý cho
Trang 15
người lao động cho năng suất lao động cao từ đó giúp cho doanh nghiệp có thể
cạnh tranh trên thị trường có hiệu quả, góp phần làm giàu lên cho bộ mặt của cả xã
hội.
Có thể khẳng định vấn đề cần hoàn thiện các hình thức trả công hợp lý, đối
với nhà nước bảo đảm tính công bằng, chống lạm phát thất nghiệp, kích thích tăng
trưởng kinh tế... Đối với doanh nghiệp sẽ tiết kiệm tối đa nguồn lực, thu hút nhiều
lao động giỏi, tồn tại và phát triển ... Đối với người lao động tạo ra sự kích thích
vật chất lớn, nó bảo đảm đầy đủ các nhu cầu.
Phần II
THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC TRẢ CÔNG CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG HIỆN NAY
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ, THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC TRẢ
CÔNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP HIỆN NAY.
1.
Hình thức.
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách
kinh tế xã hội, góp phần tạo động lực trong lao động, tăng năng suất lao động và
giải quyết công bằng tiến bộ xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Vấn đề cải cách chính sách tiền lương năm 1996 chúng ta đã đạt
được một số mục tiêu nhất định. Tuy nhiên cho đến nay chính sách tiền lương còn
nhiều tồn tại, diễn biến phức tạp và hết sức bức súc. Chính vì vậy cần phân tích,
đánh giá thực trạng chính sách, chế độ tiền lương hiện nay, từ đó hình thành
phương pháp luận khoa học về tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hưỡng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và đề ra phương hướng giải pháp nhằm cải cách hoàn
thiện lại các hình thức trả công một cách hợp lý... Việc trả công trả lương hiện nay
được thực hiện theo cơ sở luật pháp dựa vào nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997
và nghị định số 03/2001/NĐ-CP ngày 11/1/2001 của chính phủ.
Trang 16
Từ khi xây dựng hệ thống tả công thống nhất cùng với việc tiền tệ hoá và
thay đổi cơ cấu tiền lương đã cơ bản xoá bỏ chế độ bao cấp, bảo đảm sự công bằng
hơn nữa trong phân phối. Quan hệ tiền lương được mở rộng từ 1-3,5 đến 1-10 đã
khắc phục một bước tính bình quân trong chế độ tiền lương. Cơ chế quản lý tiền
lương đã có những bước phù hợp hơn, bước đầu gắn tiền lương với hiệu quả sản
xuất kinh doanh và tiêu chuẩn chức danh công việc, tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp
vụ. Mối quan hệ giữa tiền lương với năng suất lao động, lợi nhuận được giải quyết
hợp lý hơn. Yếu tố bảo hiểm xã hội và ưu đãi đã được tách khỏi chính sách tiền
lương hình thành hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách người có
công.
2. Những tồn tại cơ bản.
Tiền lương ngay từ khi ban hành năm 1993. Đối với toàn bộ các doanh
nghiệp nhà nước rất thấp và trong quá trình thực hiện lại không hù đắp đủ kịp thời
theo chỉ số tăng giá sinh hoạt. Cho nên đã hạn chế tác dụng của tiền lương. Một
thực tế đã xảy ra là mối quan hệ tiền lương giữa khu vực hành chính, sự nghiệp,
sản xuất kinh doanh. Hệ thống thang bảng lương , mức lương phụ cấp lương còn
nhiều bất hợplý. Việc giải quyết, xây dựng các hệ thống trả công chưa gắn liền với
việc giải quyết các vấn đề khác có liên quan.
Hiện nay nước ta có khoảng 5740 doanh nghiệp nhà nước với tổng số lao
động là 1,78 triệu người trong đó có 90% lao động có việc làm. tiền lương bình
quân năm 1997 là 841 ngàn đ/người/tháng và năm 1998 là 881 ngàn
đ/người/tháng. So với doanh thu tiền lương chiếm khoảng 6-6,5%. Đây mới chỉ là
mức tính tiền lương bình quan với mức lương tối thiểu 210 000 đ con số này còn ở
mức thấp. Một câu hổi được đặt ra liệu có tăng mức lương tối thiểu không, xét về
nguyên tắc hoàn toàn có thể làm được điều này song trong quá trình chỉ trả lương
các doanh nghiệp, sẽ chịu sự chi phối mạnh mẽ của các doanh nghiệp nhà nước.
Tổng quỹ lương và trợ cấp từ ngân sách ngày càng tăng do số lượng đối
tượng hưởng lương liên tục tăng lên, gây áp lực lớn trong cân đối ngân sách hàng
năm của nhà nước. Nừu như năm 1993, tổng quỹ lương và tính chất lượnglà 11
250 tỷ đ thì năm 1999 là 21 610 tỷ đ tăng trên 90%. Trong khi đó thu ngân sách
Trang 17
hàng năm không đủ cho các nhu cầu chi ngày càng tăng, cho nên tiền lương và tự
cấp không có điều kiện giải quyết ngay cả việc bù trượt.
Cơ chế tài chính doanh nghiệp có nhiều sơ hở, không có cơ sở và phương
thức kiểm soát chi phí vật chất ( chi phí C 1, C2 chiếm gần 90% giá thành) gây lãng
phí lơn và tạo ra tiêu cực tham ô, tham nhũng của một số cán bộ quản lý doanh
nghiệp, quản lý nhà nước.
Hiện nay có hai hình thức trả côgn lao động được các doanh nghiệp áp dụng
rộng rãi đó là. hình thức trả công theo thời gian, hình thức trả công theo sản phẩm
trong phần này, ta chỉ xem xét thực trạng của hai hình thức trả công nói trên.
2.1
Hình tức trả công theo thời gian.
Hình thức này đối tượng áp dụng là cấn bộ quản lý. Thực tế cho thấy mức
độ gắn kết với kết quả của từng nhân tố , tính tự giác của người lao động chưa
cao , phụ thuộc nhều ở mức lương cấp bậc (MCB) vì
TL = Ttt MCB
Sự trì trệ trong sản xuất ở hầu hết các doanh nghiệp nhà nước do cán bộ
quản lý trây lười quan liêu hách dich, với phương trâm “sống lâu lên lão làng” thì
tiền lương thực lĩnh càng cao mặc dù năng lực trình độ yếu kém chính vì vậy rất
nhiều doanh nghiệp bị nợ nần chồng chất làm ăn kém hiệu quả dẫn thới phá sản.
Một số doanh nghiệp tư nhân đã áp dụng hình thức trả lương theo thời gian
có thưởng, xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng cá nhân trong tổ chức
đã lượng hoá được số lượng sản phẩm trong một khoảng thời gian. Hình thức này
kích thích tạo động lực rất lớn đối với người lao động.
2.2
Hình thức trả công theo sản phẩm.
Ngày nau các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã áp dụng hình
thức này trong việc chỉ trả lương cho người lao động. Bên cạnh những mặt tích cực
của hình thức này, nó còn gặp phải những khó khăn lớn trong việc tính lương cho
người lao động.
Một số doanh nghiệp, do đội ngũ cán bộ quản lý yếu kém cả chuyên môn
lẫn trình độ, không xây dựng được mức có că cứ để tính dơn giá tiền lương:
LCB
ĐG = Q
( DM )
hoặc
ĐG = LCB T(mức thời gian)
Trang 18
Đã gây ra sự bất bình rất lướn từ phía người lao động không phản ánh được
đầy đủ chính xác năng lực trình độ của từng người lao động. Điều này đã vi phạm
nguyên tắc tổ chức tiền lương.
II. TIỀN LƯƠNG CHƯA TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC ĐỐI VỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG.
Tính chưa hợplý của hệ thống trả công cho người lao động thể hiện ở chỗ chưa
trở thành động lực đối với người lao động.
1. Doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước quy định mức lương tối thiểu cho người lao động ở mức 210.000
đ. So với mức lương trên thị trường sức lao động trong khu vực con số này ở mức
thấp, không đủ bảo đảm nhu cầu vật chất tối thiểu cho người lao động, không bảo
đảm tái sản xuất sức lao động, nói chi đế việc thoả mãn các vấn đề về vui chơi giải
trí, giao lưu văn hoá xã hội.
Mức lương tối thiều phần nào đó phản ánh bộ mătn kinh tế xã hội nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Một người lao động thu nhập trung bình một tháng cũng
phải đạt từ 800.000 đ đến 1.000.000 đ mới đủ khả năng về thể lực, trí lức để lao
động. Nhưng để đạt dược mức đó họ phải lao động cực lực cả ngày lẫn đêm, sức
khoẻ suy kiệt cộng với môi trường làm việc độc hại làm cho người lao động ngày
càng khổ cực, một số người vì lẽ đó mà bỏ việc nhà nước tham gia lao động trong
các doanh nghiệp tư nhân doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, song thực tế
còn có nhiều vấn đề đáng bàn.
Bằng cách định mức tính toán trong các điều kiện lao động bảo đảm, với
những người công nhân tiên tiến thuộc các ngành cơ khí, thì đơn giátl của công
nhân tiện mới đạt khoảng 1450 tới 1940 đ/sp. Con số này quả là rất thấp.
2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Khi xem xét về vấn đề quản lý tiền lương trong các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài và các tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam ngoài những mặt
đạt được còn bắt gặp những vướng mắc, tồn tại sau.
Vẫn còn khoảng 20% doanh nghiệp do sản xuất, kinh doanh khó khăn hoặc
giá gia công thấp nên trả lương cho người lao động bằng, thậm chí mức thấp hơn
Trang 19
mức lương tối thiểu của nhà nước quyd dịnh cho loại hình doanh nghiệp này (tiền
lương bình quân của lao động Việt Nam làm trong các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài dao động trong khoảng 37USD/tháng đến 74,02 USD/tháng, con số cao nhất
có thể lên tới 1000USD/tháng).
Về thang lương , bảng lương và phụ cấp lương. Việc quy định các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được quyền tự xây hệ thống trả công cho
người lao động. Tuy nhiên việc xây dựng này chia trên cơ sở bảo đảm khoảng cách
giữa mức lương tối thiểu với mức lương bậc 1 và khoảng cách bậc lương như đối
với doanh nghiệp nhà nước là không phù hợp. Họ cho rằng, khoảng cách bậc
lương của ta quy định là quá lớn, cho nên hầu như các doanh nghiệp chỉ xác định
mức lương bậc 1 cao hơn từ 3-10% so với mức lương tối thiểu khoảng cách giữa
hai bậc liền kể chỉ khoảng 3-5% (doanh nghiệp nhà nước là 7-10%).
Về định mức lao động: khác với những quy định của nhà nước ta vấn đề
doanh nghiệp ở đây thường xây dựng theo công xuất máy móc thiết bị hoặc lấy sản
phẩm của người có tay nghề cao quy định, có doanh nghiệp còn áp dụng định mức
của các nghành, nghề ở nước ngoài dẫn đến tình trạng nhiều lao động đã không
hoàn thành hoặc phải kéo dài thời gian lao động từ 2 đến 4 giờ / ngày. Đây cúng là
nguyên nhân nổ ra các cuộc đình công tranh chấp lao động.Về chế độ trả lương, trả
thưởng : vấn đề trả lương thường căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh, năng
suất lao động. Vì vậy khi sản xuất kinh doanh khó khăn tỷ lệ người lao động được
nâng bậc rất ít, thậm chí nhiều năm không thực hiện nâng bậc lương.
Tiền lương của người nước ngoài so với lao động Việt Nam cùng chức vụ
hoặclàm công việc như nau có sự chênh lệch khá lớn (khoảng 5-7 lần). Mức lương
của người nước ngoài khoảng 4000-6000 USD/tháng tương đương 60 triệu đồng
VND,con số này quả là mơ ước đối với lao động Việt Nam. Tạo ra một làn sóng
bất công gây sức ep rất lớn đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Phần III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC HÌNH THỨC TRẢ
CÔNG HIỆN NAY.
Chính sách lương bổng phải là chính sách linh động , uyển chuyển phù hợp
với hoàn cảnh xã hội, với khả năng của từng công ty xí nghiêp, đối chiếu với các
Trang 20
- Xem thêm -