Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh hải dương)...

Tài liệu Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh hải dương)

.PDF
108
3963
100

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ LAN PHƢƠNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ (QUA THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ LAN PHƢƠNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ (QUA THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG) Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ Hà Nội – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đặng Thi Lan Phƣơng MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ ............................. 8 1.1. Hòa giải ở cơ sở trong hệ thống các phƣơng thức giải quyết tranh chấp và sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng bằng hòa giải...................... 8 1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của hòa giải ở cơ sở: ...................................................13 1.2.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở .................................................................. 13 1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở ................................................................... 20 1.3. Vai trò của hòa giải ở cơ sở và sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở ...........................................................................................................................................22 1.3.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở ................................................................. 22 1.3.2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở ...... 24 1.4. Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở .................................................................................25 1.4.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở ............................. 25 1.4.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở ...................................................................... 31 1.5. Quá trình hình thành và phát triển của thể chế hòa giải ở cơ sở tại Việt Nam....37 1.5.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945 ..................................... 37 1.5.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1998 ............... 40 1.5.3. Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2013 ................................................ 45 1.5.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay .......................................................... 48 1.6. Thể chế hòa giải một số nƣớc trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam51 1.6.1. Mô hình Hòa giải nhân dân. ............................................................... 52 1.6.2. Mô hình trung tâm hòa giải cộng đồng .............................................. 53 1.6.3. Mô hình hòa giải của Trưởng thôn ở Philippin ................................. 54 1.6.4. Những kinh nghiệm cho Việt Nam ..................................................... 54 Chƣơng 2:THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ........................................... 56 2.1. Những điều kiện lịch sử, văn hóa chi phối và ảnh hƣởng đến hoạt động hòa giải của tỉnh Hải Dƣơng..........................................................................................................................56 2.2. Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng .....60 2.2.1. Những quy định chung về hòa giải ở cơ sở ........................................ 60 2.2.2. Những quy định của tỉnh Hải Dương về hòa giải ở cơ sở ................ 65 2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng 67 2.3.1. Tổ chức thực hiện hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương .... 67 2.3.2. Hoạt động của Tổ hòa giải .................................................................. 69 2.3.3. Quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương ......................................................................................................................... 74 2.3.4. Đánh giá chung .................................................................................... 79 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HÒA GIẢI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ........................................................................................................... 83 3.1. Quan điểm về nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác hòa giải trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng...........................................................................................................................................83 3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về hòa giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở ...................................................................................................... 83 3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp – Hộ tịch các xã, phường, thị trấn đối với công tác hòa giải ở cơ sở ......................................................................................................................... 83 3.1.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; Tiếp tục đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở................ 84 3.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các đoàn thể, tổ chức chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở .................................................... 85 3.1.5. Hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội ........... 86 3.1.6. Tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân ........................................... 86 3.2. Giải pháp .....................................................................................................................................86 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật .............................................. 86 3.2.2. Xây dựng và kiện toàn các tổ chức hòa giải ....................................... 87 3.2.3. Bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở ..... 88 3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp thực hiện của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở ............................................................................. 89 3.2.5. Nâng cao việc truyên truyền pháp luật về vai trò của hòa giải trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở ................................................... 91 3.2.6. Giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng hòa giải, kiến thức pháp luật và vận dụng pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên ................................. 92 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 97 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách toàn diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi đó tạo nên bộ mặt mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường thì các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột cũng ngày càng ra tăng với diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng một phương thức thích hợp. Hòa giải ở cơ sở là một hình thức giải quyết hữu hiện được lựa chọn để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp. Điều này được lý giải là do Việt Nam cùng một số nước Châu Á khác chịu ảnh hưởng của triết lý Khổng Tử và Đạo phật, ở đó hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp và là biện pháp giải quyết tranh chấp được ưa chuộng hơn cả. Nếu như tranh chấp bị xem như những biểu hiện tiêu cực là sự phá vỡ sự hòa thuận và bình yên của cộng đồng thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng cố trật tự công cộng. Hiện nay, nước ta cũng như một số nước trên thế giới có xu hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở bởi nó là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm và đã tồn tài lâu đời trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hòa giải giải là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người và trên cơ sở tình người. Mục đích chính của công tác hòa giải ở cơ sở nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng để hàn gắn, vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Hòa giải mang lại niềm vui cho mọi người, mọi nhà, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn 1 xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, giảm bớt các vụ việc phải giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác hoà giải ở cơ sở, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến công tác này. Để tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của hoà giải ở cơ sở, Điều 127 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” [39]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lựơc cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài…” [29]. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Ngày 18/10/1999, Chính phủ ban hành Nghị định 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý đầu tiên, quan trọng cho hoạt động hoà giải ở cơ sở. Nhằm nâng cao vi trí vai trò của hoạt động hoà giải ở cơ sở đối với xã hội, ngày 20 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật hoà giải ở cơ sở, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Là cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của hoà giải ở cơ sở. Trong đìều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác dụng của hoạt động hoà giải ở cơ sở càng trở lên có ý nghĩa đối với đất nước nói chung với tỉnh 2 Hải Dương nói riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động hoà giải cơ sở, nhưng thực tiễn công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương chưa phát huy được vai trò, ý nghĩa vốn có của nó, thậm chí còn có nhiều đơn vị không chú trọng đến hoạt động này. Thực tiễn Hải Dương cho thấy ở những đơn vị làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những điểm nóng về khiếu kiện. Do đó, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương là yêu cầu cấp thiết. Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài : Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương) làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở có nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu, như: Cuốn sách “Một số tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996” của Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh; Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); “Vì hạnh phúc của mọi nhà” do Phó Tiến sĩ Nguyễn Vi Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, đề cập những vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải chứ không đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận công tác hòa giải ở cơ sở. 3 Một số cuốn sách như: “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở”(tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn) - Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, năm 2000 do Tiễn sĩ Dương Thanh Mai chủ biên; “Công tác hòa giải ở cơ sở” - Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ sở dành cho cán bộ tư pháp và hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 “Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Vệt Nam đến năm 2010” do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), cơ quan hợp tác phát triển của quốc tế của Chính phủ Thụy Điển (Sida), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA), Chính phủ Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ; “Sổ tay pháp luật về Hòa giải ở cơ sở” - Vụ phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp, năm 2014. Những cuốn sách này chỉ cập đến các quy định của pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ không đi vào phân tích, đánh giá, nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở. Một số cuốn sách khác chỉ đề cập đến khía cạnh con người của công tác hòa giải ở cơ sở như: “Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở”, trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 “Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Vệt Nam đến năm 2010”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005. Cuốn sách “Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật” do nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2006 cũng có một số chương riêng về hòa giải ở cơ sở và phổ biến giáo dục pháp luật. Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Giáo sư Tương Lai với bài viết “Đồng thuận xã hội ” trên tạp chí Tia Sáng, năm 2005; bài viết “Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị 4 Lan đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; Các bài viết của Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quang Dũng về “Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, “Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, “Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)” đăng trên tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001 và số 3 năm 2002. Một số bài viết trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề “Pháp luật về Hòa giải” năm 2012 và “Thể chế hòa giải ở Việt Nam” - số chuyên đề tháng 9 năm 2014 mới chỉ đề cập đến thực tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định. Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài, đã có sự nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam với tư cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng những tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể coi hòa giải là một khía cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của nông thôn Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về “Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam”; Dự án điều tra của Viện Xã hội học - Viện khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia Nhật bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng chúng trên địa bàn tỉnh Hải Dương và đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn - Mục đích: Làm rõ vai trò, đặc điểm hòa giải ở cơ sở, trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở. 5 - Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: Những cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, vai trò của hoạt động hòa giải đó đối với đời sống xã hội và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở. Nêu và phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu khóa luận được thực hiện trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội, thống kê. 5. Những điểm mới của Luận văn. - Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, vị trí, vai trò của hòa giải ở cơ sở cũng như những nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở. - Phát hiện những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, những tồn tại trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất quan điểm, phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn - Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai thác, sử dụng trong nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ sở của các cơ quan tư pháp. - Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, hòa giải viên trên địa bàn tỉnh Hải Dương có thể khai thác, vận dụng những kết 6 quả nghiên cứu của luận văn để tham mưu đề xuất những giải pháp với cơ quan có chức năng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở, vận dụng để triển khai các hoạt động nghiệp vụ về hòa giải ở cơ sở như: quản lý nhà nước, tập huấn nghiệp vụ, xây dựng các chương trình phối hợp... 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về hoà giải ở cơ sở. Chƣơng 2. Trực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chƣơng 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 7 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1.1. Hòa giải ở cơ sở trong hệ thống các phƣơng thức giải quyết tranh chấp và sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng bằng hòa giải Trong xã hội, mỗi con người là một cá thể độc lập. Tuy nhiên, C. Mác cho rằng, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất đa dạng, phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em...), quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ thầy trò; quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng hương... Các quan hệ này có thể hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định (quan hệ gia đình), các quan quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi các quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau. Thực tiễn cho thấy, qua các giai đoạn, qua các thời kỳ lịch sử, trong xã hội, tồn tại và phổ biến là những quan hệ xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Chính những quan hệ tốt đẹp, lành mạnh đó là nền tảng, là cơ sở, là động lực cho việc xây dựng lối sống văn hóa, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh những quan hệ tốt đẹp kể trên, còn tồn tại những mối quan hệ không lành mạnh, tiêu cực, lệch chuẩn, những quan hệ bị biến dạng theo chiều hướng xấu, thậm chí đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Những quan hệ đó có thể là những nguyên nhân trực tiếp nảy sinh những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như những tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật thậm chí là hành vi phạm tội. 8 Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước hòa mình vào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa các mối quan hệ, chủ động xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu, kết quả trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà nền kinh tế thị trường mang lại, sự phát triển của đời sống xã hội trên các lĩnh vực cũng kéo theo những hạn chế, tiêu cực và những mặt trái của nó: sự xung đột về lợi ích, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng... Chính những yếu tố đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng, biến dạng những quan hệ truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc ta. Trong một chừng mực nào đó, ở những hoàn cảnh cụ thể, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc, thầy trò, bạn bè... cũng có những xáo trộn nhất định, bị chi phối bởi những yếu tố về lợi ích, quan điểm khác nhau, hay có thể gọi chung là những xung đột xã hội nhỏ. Như vậy, xung đột xã hội là sự biểu hiện của những mâu thuẫn xã hội khách quan hoặc chủ quan phản ánh sự đối lập giữa những người đại diện của chúng. Các xung đột xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các tranh chấp, xích mích ở cộng đồng dân cư. Những va chạm, xích mích giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng là điều không thể tránh khỏi, có điều kiện nảy sinh tồn tại thậm chí phát triển. Có thể là mâu thuẫn ngay giữa các thành viên trong gia đình, giữa hai hay nhiều hộ gia đình, có khi là mâu thuẫn giữa một dòng họ, một dòng tộc, xóm này với xóm kia, mâu thuẫn giữa làng với làng... Mâu thuẫn đó xảy ra khá đa dạng, phong phú trên các lĩnh vực kinh tế, dân sự, hôn nhân và gia đình. Những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp này dù là nhỏ nhưng nếu không có biện pháp giải quyết sẽ gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Khi xung đột xã hội xảy ra có rất nhiều phương thức để giải quyết. Để giữ gìn trật tự xã hội, việc giải quyết xung đột có thể được tiến 9 hành theo năm phương pháp: giải quyết bằng sự tác động của dư luận xã hội, thông qua hòa giải, giải quyết bằng các phán quyết của trọng tài, bằng quyết định của cơ quan hành chính và thông qua cách giải quyết của tòa án. Hòa giải là một trong những phương thức có hiệu quả để giải quyết các xung đột đó. Thực tế cho thấy, không thể tránh được xung đột xã hội, nhưng cần thiết phải hạn chế và tránh được những thiệt hại mà xung đột xã hội mang lại do không được kiểm soát. Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải với phạm vi, đối tượng, phương pháp, trình tự thủ tục...tiến hành hòa giải khác nhau như hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và gia đình, hòa giải các tranh chấp lao động, hòa giải bằng trọng tài kinh tế, hòa giải ở cơ sở, hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn theo Luật Đất đai, kể cả thỏa thuận trong tố tụng hành chính và tố tụng dân sự cũng được coi là một biểu hiện của hòa giải. Hòa giải trong tố tụng dân sự của Tòa án là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau trừ những trường hợp pháp luật quy định không được hòa gải. Khi không hòa giải được hoặc hòa giải không thành Tòa án mới đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp các bên đương sự thống nhất thỏa thuận với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn bẩy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì về nguyên tắc chung Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay tại thời điểm ký. Theo quy định của pháp luật, đối với các ngành luật như dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, đất đai...hòa giải đều được coi là một nguyên tắc, một thủ tục bắt buộc khi giải quyết tranh chấp. Theo Điều 12 Bộ luật Dân 10 sự quy định về nguyên tắc hòa giải như sau: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự” [42]. Dưới góc độ của Luật hình thức, hòa giải là thủ tục bắt buộc thể hiện thông qua trách nhiệm hòa giải thuộc về Tòa án. Đây cũng là một nguyên tắc được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004): “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này” [41]. Hòa giải là hoạt động của Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ kiện dân sự. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự, hòa giải là thủ tục bắt buộc ở thời điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm để giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án Dân sự tòa án đều phải tiến hành hòa giải. Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ việc mà nếu hòa giải sẽ trái với mục đích xét xử của vụ án đó. Đó là những vụ việc được quy định tại Điều 181 Bộ luật Tố tụng dân sự như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong Tố tụng hình sự cũng có những quy định gần với hòa giải. Khoản 1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật Hình sự được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [40]. 11 Như vậy, không phải mọi trường hợp phạm vào các tội nêu trong điều luật nói trên đều bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Theo quy định, chỉ được áp dụng việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong trường hợp hành vi phạm tội được nói đến ở khoản 1 của các điều nói trên. Điều đó có nghĩa là việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại chỉ áp dụng trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức độ nguy hiểm thấp nhất cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Và khi người bị hại không yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân không tiếp tục tiến hành tố tụng và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật thì có thể tự dàn xếp với nhau. Hòa giải trong tố trụng trọng tài, trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, các bên tranh chấp có thể thương lượng, tự hòa giải hoặc đề nghị trọng tài giúp các bên hòa giải. Trọng tài cũng có thể chủ động tự mình tiến hành hòa giải các bên. Nếu các bên thông qua hòa giải mà giải quyết tranh chấp thì có thể yêu cầu trọng tài viên xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản, lập biên bản hòa giải thành và công nhận sự thỏa thuận của các bên. Văn bản này có giá trị như quyết định trọng tài, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo. Hòa giải tranh chấp lao động được Hội đồng trọng tài lao động hoặc Hòa giải viên lao động của cơ quan lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tiến hành khi có tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và trong quá trình học nghề giữa người lao động và người sử dụng lao động. Hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp. Việc hòa giải này được thực hiện khi nhận được 12 đơn của một hoặc hai bên tranh chấp và thời hạn giải quyết không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn, việc hòa giải phải được lập thành văn bản có xác nhận hòa giải thành hoặc không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là thủ tục bắt buộc được quy định trong Luật Đất đai năm 2013, trước khi các bên tranh chấp khỏi kiện ra Tòa án hoặc giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền Khác với các loại hình hòa giải nêu trên, hòa giải ở cơ sở không có yếu tố “tư pháp”, tức là không có sự tham gia của Tòa án mà được thực hiện thông qua hoạt động của Tổ hòa giải. Pháp luật về hòa giải hiện nay không quy định về thời hạn tiến hành hòa giải tranh chấp do các Tổ hòa giải tiến hành như các loại hình hòa giải khác, vì vậy, việc hòa giải chỉ kết thúc khi các bên đạt được kết quả hòa giải và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Khác với các loại hình hòa giải ở trên, hòa giải ở cơ sở không bắt buộc phải lập thành văn bản. Theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở hiện nay, việc có lập thành văn bản hay không do các bên tự nguyên, không có giá trị bắt buộc phải thực hiện như bản án của tòa án, phán quyết trọng tài, biên bản hòa giải tranh chấp đất đai hay quyết định giải quyết của cơ quan hành chính mà chỉ như một sự ghi nhận thỏa thuận mang tính đạo lý giữa người với người. Đây là một hình thức giải quyết rất hiệu quả và đang ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong đời sống xã hội. Góp phần vào việc củng cố khối đại đoàn kết trong cộng đồng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà nước và của nhân dân. 1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của hòa giải ở cơ sở: 1.2.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của hòa giải. Vì vậy, để tìm hiểu về hòa giải ở cơ sở trước hết cần tìm hiểu khái niệm về hòa giải nói chung. Tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải mà có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải. 13 Trong khoa học cũng như trong thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải. Một số luật gia cho rằng hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải, coi hòa giải như một nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động của Tòa án. Còn các nhà thực tiễn coi hòa giải là những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng. Trên thế giới có nhiều quan niệm về hòa giải. Theo từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về quan hệ lao động và các vấn đề liên quan coi “Hòa giải là sự tiếp nối của quá trình thương lượng trong đó các bên cố gắng làm điều hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba đóng vai trò người trung gian hoàn toàn độc lập với hai bên...không có quyền ắp đặt..., hành động như một người môi giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới những điểm mà họ có thể thỏa thuận được” [33]. Theo hiệp hội hòa giải Hoa Kỳ thì: “Hòa giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ”[33]. Theo quan niệm này, người hòa giải không tham gia vào quá trình hoặc việc thỏa thuận các giải pháp. Vai trò chủ yếu của người hòa giải là người trung gian giúp cho hai bên tranh chấp tự nguyện ngồi lại với nhau, tạo điều kiện cho họ duy trì đối thoại và thương lượng giải quyết mâu thuẫn, bất đồng. Điều 3 Chỉ thị số 2008/52/UC của Liên minh Châu Âu ngày 21 tháng 5 năm 2008 về một số khía cạnh của hòa giải vụ việc dân sự, thương mại định nghĩa: “Hòa giải là một quy trình có tổ chức, bất kể dưới tên gọi là gì, trong đó hai hay nhiều bên tranh chấp cố gắng đạt được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp một cách tự nguyện với sự giúp đỡ của Hòa giải viên” [52]. Theo từ điển Luật học của Pháp định nghĩa: “Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người trung gian thứ ba (Hòa giải 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan