TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
HUỲNH THÚY NIỀM
MSSV: 6062201
HÌNH TƯỢNG VI TIỂU BẢO VÀ AQ
TRONG HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG
TINH THẦN TRUNG HOA
(Luận văn tốt nghiệp ñại học ngành Ngữ văn – Khóa 2006 – 2010)
CBHD: PHẠM HOÀNG NGHĨA
TP. Cần Thơ, tháng 5/2010
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1. Lý do chọn ñề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn ñề................................................................................................ 2
3. Mục ñích yêu cầu........................................................................................... 6
4. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 8
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH......................................................................... 10
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Văn học hiện ñại Trung Quốc từ góc nhìn ñổi mới ở Việt Nam ........ 10
1.1.1 Tiếp nhận văn học – một yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh giao lưu
toàn cầu hóa hôm nay................................................................................... 10
1.1.2 Dịch thuật – một bộ phận không thể tách rời trong lý thuyết tiếp
nhận so sánh văn học ................................................................................... 12
1.1.3 Tiếp nhận văn học hiện ñại Trung Quốc từ góc nhìn Việt Nam ........ 15
1.1.3.1 Trước ñây ...................................................................................... 15
1.1.3.2 Từ sau ñổi mới năm 1986.............................................................. 18
1.2. Tiểu thuyết – những quan niệm tiếp cận............................................. 21
1.2.1 Cách hiểu truyền thống ....................................................................... 21
1.2.2 Tiếp cận tiểu thuyết từ tư duy tiểu thuyết hiện ñại ............................. 23
1.3 Tiểu thuyết hiện ñại Trung Quốc từ thời Ngũ Tứ ñến một
bộ phận ñặc thù của Trung Quốc: Lãnh thổ Hồng Kông ........................ 25
1.3.1 Một số quan niệm................................................................................ 26
1.3.2 Những thành tựu ñạt ñược .................................................................. 29
1.3.2.1 Tiểu thuyết hiện ñại Trung Quốc ................................................. 29
1.3.2.2 Tiểu thuyết hiện ñại Hồng Kông ................................................... 32
CHƯƠNG 2: LỖ TẤN VÀ KIM DUNG – HAI VĂN GIA
KIỆT XUẤT TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI TRUNG QUỐC
2.1 Về cuộc ñời và thân thế .......................................................................... 36
2.1.1 Lỗ Tấn ................................................................................................. 36
2.1.2 Kim Dung............................................................................................ 38
2.2 Những thành tựu ñã ñạt ñược trong nền văn học Trung Quốc......... 41
2.2.1 Lỗ Tấn ................................................................................................. 41
2.2.2 Kim Dung............................................................................................ 42
CHƯƠNG 3: VI TIỂU BẢO VÀ AQ TRONG HỆ THỐNG
BIỂU TƯỢNG TINH THẦN TRUNG HOA
3.1 Bước phát triển về tư duy tiểu thuyết từ Lỗ Tấn ñến Kim Dung ...... 47
3.1.1 Quan niệm của Lỗ Tấn về tiểu thuyết................................................. 47
3.1.2 Quan niệm của Kim Dung về tiểu thuyết ........................................... 48
3.2 Sự vận ñộng tư duy tiểu thuyết trong việc triển khai chủ ñề
tinh thần Trung Hoa: ................................................................................... 50
3.2.1 Cái nhìn của hai nhà văn về hình tượng con người Trung Quốc........ 50
3.2.1.1 Ở Lỗ Tấn........................................................................................ 50
3.2.1.2 Ở Kim Dung................................................................................... 55
3.2.2 Cái nhìn của hai nhà văn về kỹ thuật viết tiểu thuyết......................... 60
3.2.2.1 Với Lỗ Tấn..................................................................................... 60
3.2.2.2 Với Kim Dung................................................................................ 62
3.3 Những biểu hiện của hình tượng Vi Tiểu Bảo và AQ tiêu biểu cho
hệ thống biểu tượng tinh thần Trung Hoa ................................................. 65
3.3.1 Hình tượng AQ - hiện ñại mà cổ ñiển................................................. 65
3.3.1.1 Điển hình cho người Trung Hoa truyền thống, mang tâm thức
dân tộc Trung Hoa .................................................................................... 65
3.3.1.2 AQ – biểu tượng của sự sụp ñổ tinh thần Trung Hoa
truyền thống nhưng không tìm thấy lối thoát trong hiện tại ..................... 70
3.3.2 Hình tượng Vi Tiểu Bảo - cổ ñiển mà hiện ñại .................................. 74
3.3.2.1 Khái quát về hình tượng................................................................ 74
3.3.2.2 Tiêu biểu cho người Trung Hoa buổi giao thời hướng về
hiện ñại ...................................................................................................... 77
3.3.2.3 Tinh thần Vi Tiểu Bảo – biểu tượng cho sự tương phản của
xã hội Trung Hoa hiện ñại ........................................................................ 82
3.3.3 Bước phát triển từ hình tượng AQ ñến Vi Tiểu Bảo .......................... 87
3.3.3.1 Tương ñồng từ nhiều phương diện................................................ 87
3.3.3.2 Những dị biệt ñộc ñáo ................................................................... 90
3.3.4 Ý nghĩa của hai hình tượng ................................................................ 103
PHẦN III: KẾT LUẬN ................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ñề tài
Trung Quốc – một trong những quốc gia rất nổi tiếng ở khu vực Châu Á với
những nét văn hóa vô cùng ñặc sắc. Nói ñến Trung Quốc, chúng ta không thể không
nhắc ñến công trình Vạn lý trường thành ñồ sộ ñược xây dựng dưới thời Tần Thủy
Hoàng dài 6.352 km; nhớ ñến Tử Cấm Thành uy nghiêm, rực rỡ, tráng lệ là nơi ở của
các vị vua ngày xưa... Đây là những công trình ñược thế giới quan tâm không chỉ vì
nét ñẹp, nét cổ ñiển gắn liền với lịch sử các triều ñại vua chúa, mà qua ñó ta còn có
dịp tìm hiểu, nghiên cứu về những bí mật bên trong chưa ñược giải ñáp - bí mật của
một ñất nước với diện tích 9,6 triệu km2, dân số 1,3 tỷ người bao gồm nhiều sắc tộc
nhưng ñã ñoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một khối vững chắc.
Một nước ñất rộng người ñông với 56 dân tộc và năm ngàn năm lịch sử,
Trung Quốc ñã tích lũy cho mình một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú ña dạng
có sức sống mãnh liệt. Theo truyền thuyết xưa kể rằng: Từ thời Hoàng Đế vị thủy tổ
của cộng ñồng dân tộc Hoa Hạ ñã bắt ñầu khai sinh ra nền văn hóa dân tộc mình, cho
ñến khi hệ thống tư tưởng “Bách gia” thời Xuân Thu ra ñời, trong ñó học thuyết
Khổng gia từng bước chiếm ñịa vị thống trị suốt chiều dài hàng nghìn năm lịch sử.
Tư tưởng Nho gia chẳng những xâm nhập từng gia ñình ảnh hưởng sâu sắc ñến nếp
sống, nếp nghĩ và cách hành ñộng trong cuộc sống của từng con người Trung Hoa,
mà còn vượt ra ranh giới ñến các nước lân cận như: Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản
và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng sâu rộng và học thuyết Nho gia ñã trở thành tài
sản văn hóa cộng ñồng nhân loại. Kể từ khi học thuyết Khổng Tử ra ñời cho ñến nay,
trải qua hơn hai nghìn năm lịch sử ñất nước Trung Hoa cũng ñã liên tiếp sản sinh ra
biết bao nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà văn, nhà nghệ thuật lớn… Họ kế
thừa văn hóa truyền thống xưa và phát triển lên một bước mới, góp phần làm rạng rỡ
thêm cho nền văn hóa dân tộc.
Nói một cách cụ thể hơn là, văn minh tinh thần Trung Hoa có những rạng rỡ
như ngày nay là nhờ sự ñóng góp về tư tưởng của các triết gia: Khổng Tử, Mạnh Tử,
Lão Tử, Trang Tử, Tuân Tử... Những nhà hiền triết này ñã xây dựng và bổ sung cho
nhau về giáo dục tư tưởng con người. Họ xây dựng tam giáo (Nho – Đạo – Phật) trở
thành những biểu hiện cao nhất của văn hóa tinh thần truyền thống Trung Quốc. Đó
là hệ thống tín ngưỡng, hệ thống phán ñoán, hệ thống giải thích, hệ thống lễ nghĩa,
hệ thống giao lưu nhận thức và hệ thống hình thái ý thức của người Trung Hoa từ
ngàn xưa. Các tư tưởng này là thước ño mọi giá trị trong ñời sống, nó ñưa con người
vào khuôn khổ của những nếp suy nghĩ phù hợp với thời ñại: xã hội phong kiến
Trung Quốc. Chẳng hạn như, trong tư tưởng Nho giáo, họ quan niệm người quân tử
phải “trung quân, ái quốc”, “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, tu thân theo tam cương
ngũ thường; trong Đạo gia lại có khuynh hướng thoát tục, chủ trương “vô vi”, “tri
túc”, “tự lạc” khuyến khích con người sống thiện hơn, xa lánh danh lợi hão huyền
mà sống an lạc thanh nhàn; Phật giáo với pháp lý tu thân, từ bi bác ái ñã ñưa nhân
dân ñến những tình cảm yêu thương sẻ chia với những nỗi ñau khổ của nhân loại...
Không chỉ có thế, Trung Quốc còn ñược thế giới biết ñến về một nền văn học
với các tác phẩm nổi tiếng như: Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, Thủy hử của
Thi Nại Am, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du ký của Ngô Thừa Ân
- Tứ ñại kỳ thư của Trung Quốc cũng như của nhân loại. Các tác phẩm văn học này
giúp ta có dịp tiếp xúc với những người anh hùng, những con người hảo háng ñầy
dũng mãnh với trí tuệ siêu việt. Tuy nhiên, mỗi thời ñại sẽ có những hình tượng con
người khác nhau. Trong thời hiện ñại, văn học Trung Quốc ñã có những thay ñổi khi
nhìn nhận về hiện thực xã hội của ñất nước, và ñiều này dẫn ñến sự thay ñổi về hình
tượng con người theo mô thức truyền thống. Đó là những con người như thế nào và
mang những nét tiêu biểu gì cho tinh thần dân tộc Trung Hoa? Có bước phát triển,
ñổi mới gì trong tư duy qua những hình tượng này?
Vì có sự yêu thích khi tìm hiểu về ñất nước Trung Hoa vốn mang nhiều nét bí
ẩn cũng như những trăn trở, băn khoăn chưa có dịp giải ñáp; do ñó, khi có dịp tiếp
xúc với ñề tài: “Hình tượng Vi Tiểu Bảo và AQ trong hệ thống biểu tượng Trung
Hoa”, tôi ñã chọn ñể nghiên cứu nhằm mở rộng tầm hiểu biết của mình về ñất nước
cũng như về con người nơi ñây.
2. Lịch sử vấn ñề
Lỗ Tấn là nhà văn nổi tiếng thế giới và là “linh hồn dân tộc” Trung Hoa. Là
gương mặt tiêu biểu của văn học hiện ñại Trung Hoa. Lỗ Tấn là một nhà văn không
quá xa lạ ñối với người Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, những tác phẩm của ông ñược
dịch phổ biến ở Việt Nam, do ñó việc nghiên cứu về Lỗ Tấn cũng ñược nhiều nhà
nghiên cứu bàn bạc, ñánh giá.
Lỗ Tấn ñược nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam tìm hiểu qua nhiều giai ñoạn
khác nhau nhằm có sự ñào sâu về nhiều khía cạnh khác nhau chưa ñược làm sáng tỏ
về nhà văn thiên tài này. Ở nước ta, Lỗ Tấn ñược ñánh giá rất cao qua những bài
viết của các nhà nghiên cứu, phê bình như Đặng Thai Mai, Trương Chính, Lương
Duy Thứ,… Đặc biệt, các nhà nghiên cứu có sự tìm hiểu sâu sắc về hình tượng AQ
trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn, nhằm khái quát lên nét tinh thần Trung Hoa ñược
thể hiện qua nhân vật. Qua ñó hiểu hơn về tinh thần dân tộc của quốc gia “văn minh”
này. Và vấn ñề này ñược ñề cập qua khá nhiều bài viết.
Trong Đến với Lỗ Tấn do Lê Giảng và Ngô Viết Dinh biên soạn (2005), có
nhiều bài tiểu luận bàn về vấn ñề này như sau: Trong bài Truyện ngắn Lỗ Tấn,
Lương Duy Thứ cho rằng cuộc ñời AQ là sự dẫy dụa tìm ñường sống của một cố
nông và ông kết luận AQ có phép thắng lợi tinh thần. Ông chỉ tìm hiểu vấn ñề ở sự
khái quát, chưa ñào sâu vào tinh thần AQ. Trong Thế giới nhân vật dị dạng trong
truyện Lỗ Tấn, Lê Nguyên Cẩn xem xét AQ trong mối tương quan với thế giới nhân
vật dị dạng. Ông chỉ ra những khuyết tật thuộc về hình thể chứ chưa ñề cập ñến
khuyết tật bên trong tâm hồn AQ. Đặng Thái Mai giới thiệu về AQ và ñề cập ñến
thủ ñoạn “thắng trận tưởng tượng” của y qua bài Giới thiệu AQ chính truyện. Bài
viết này có chỉ ra một tính cách của AQ tiêu biểu cho người dân Trung Hoa: ñó là
tâm lý tự cao tự ñại. Tuy nhiên, ñây chỉ là bước nghiên cứu dạo ñầu chưa sâu sắc
lắm. Ông chỉ nghiêng về sự sơ lược nên chưa ñi sâu khai thác nét tinh thần của AQ.
Ngoài ra, trong Đến với Lỗ Tấn còn có bài Những chi tiết tiêu biểu của AQ
chính truyện của Thái Quang Vinh. Bài có ñi sâu vào việc khai thác nét tinh thần của
AQ, qua ñó làm nổi bật một số nét ñặc trưng như: tinh thần tự hào thái quá trong khi
AQ không có gì ñáng hơn người; ảo tưởng về tương lai và tin vào ñó mà tự an ủi
mình một cách ñiên rồ; nghĩ mình mạnh nhất, hơn tất cả và không ai sánh kịp,… Đó
cũng chính là biểu hiện của “phép thắng lợi tinh thần” tiêu biểu cho tinh thần dân tộc
Trung Hoa. Ông cũng khẳng ñịnh thêm rằng, chính “phép thắng lợi tinh thần” này ñã
ñưa dân tộc Trung Hoa rơi vào “cảnh tối tăm nghèo khổ và dốt nát thì ngày càng tối
tăm, nghèo khổ, dốt nát” [9; tr. 593]. Bài Tính khái quát cao ñộ của nhân vật AQ –
Lê Huy Bắc cũng có những ý tương tự như bài viết của Thái Quang Vinh. Tuy nhiên
ở ñây, Lê Huy Bắc có khẳng ñịnh “AQ trở nên bất tử không phải nhờ vào ngoại diện
nông dân ấy mà chính nhờ vào nét tâm lý và lối tư duy, hành ñộng tương phản với
lai lịch của y” [9; tr. 596]. Cách suy luận này có vẻ hơi mới mẻ nhưng chỉ là cách gọi
khác của “phép thắng lợi tinhh thần” mà thôi.
Trong bài tiểu luận Lỗ Tấn với cuộc giải phẫu “quốc dân tính” Trung Hoa,
Đức Uy ñã có những ý khái quát: Lỗ Tấn ñã phanh phui hình tượng văn học bản chất
và các thuộc tính của con người phương Đông – Châu Á qua AQ. Ông xác ñịnh
những tính cách tồn tại trong AQ ñó cũng là những nét tính cách ñặc trưng của
người nông dân trong xã hội phong kiến Trung Quốc: tính tôi ñòi nô lệ, tự lừa dối, tự
ru ngủ mình.
AQ chính truyện của Lương Duy Thứ là một trong những bài nghiên cứu có
thể nói có sự ñi sâu vào những nét tinh thần của AQ. Từ việc xem xét ñộng cơ sáng
tác của Lỗ Tấn khi viết AQ chính truyện và từ ñó làm sáng rõ nhiều khía cạnh trong
tinh thần AQ như: tinh thần AQ ñặc trưng tinh thần của giai cấp thống trị phong kiến
Trung Quốc ñầu thế kỷ XX trước sự tấn công của chủ nghĩa ñế quốc, AQ là nhân vật
ñiển hình bất hủ có môi trường phát sinh và phát triển,… Ông kết luận rằng, “AQ là
ñiển hình của những người vô sản nông thôn Trung Quốc vốn có một khả năng cách
mạng tiềm tàng nhưng bị phép thắng lợi tinh thần trói buộc nên ngơ ngác trước tấn
tuồng lịch sử do giai cấp tư sản ñạo diễn” [9; tr. 610]
Chú AQ và cách mạng Trung Quốc – Trương Chính có một số ý như sau: ông
chỉ ra rằng AQ dù bị áp bức bóc lột ñến ngu muội và nghèo ñói nhưng cũng không
chịu ép một bề (ghét thằng Tây giả, ghét cụ Cố họ Triệu, cụ Cố họ Tiền,… ). AQ
luôn có những trận gây sự với những người cùng tầng lớp: cu D, Vương râu xồm.
Theo ông, ñây là những biểu hiện của tư tưởng bá quyền, bành trướng nếu như AQ
là một người có thế lực trong tay. AQ sợ kẻ mạnh nhưng lại hay bắt nạt kẻ yếu. Đây
là những nét tính cách của AQ do bị ảnh hưởng của chế ñộ phong kiến truyền thống
ñã ăn sâu vào tinh thần dân tộc Trung Hoa. Đây cũng là một nguồn tư liệu ñể tôi
hoàn thành luận văn tốt hơn.
Đặc biệt trong Đến với Lỗ Tấn có bài AQ là ñiển hình cho loại người nào?
của Nghiêm Gia Viêm (Trung Quốc) do Hồ Thanh Nga dịch. Qua việc chỉ ra tính
ñiển hình của nhân vật này, tác giả ñã chỉ ra những thói tật của AQ: mang nặng tư
tưởng phong kiến, tư tưởng báo thù nguyên thủy của nông dân, thậm chí có nhiều lối
suy nghĩ buồn cười… Ông khẳng ñịnh “AQ là ñiển hình cho nông dân phiêu bạt có
bệnh thái tinh thần nghiêm trọng trong thời kỳ cách mạng Tân Hợi”[9; tr. 632]. Ông
cũng chỉ ra những ñiều kiện lịch sử xã hội hình thành nên tính cách AQ. Đây là bài
viết khá hay, có chiều rộng mở ra nhiều ñiều về hình tượng nhân vật, nhưng chưa ñạt
ñến ñộ sâu sắc khi chưa phân tích sâu tinh thần AQ.
Khi tiếp cận với quyển Lỗ Tấn - Nhà lý luận văn học của Phương Lựu, ta thấy
ông có ñề cập ñến số phận bi thảm của AQ trong xã hội phong kiến Trung Hoa, bàn
về khẩu hiệu “thương vì khổ mà giận vì cam tâm chịu khổ” của Lỗ Tấn ñối với nông
dân, ñặc biệt là AQ. Cái “giận” của Lỗ Tấn là dựa trên cơ sở tình thương và nhằm
mục ñích làm sao cho những con người như AQ chóng phát hiện ra vết thương ñang
ung mủ và tìm cách chạy chữa. Đó cũng là công việc mà Lỗ Tấn luôn cố gắng thực
hiện. Ngoài ra, Phương Lựu còn bàn về tính ñiển hình của AQ tiêu biểu cho “linh
hồn quốc dân”.
Đây là những bài nghiên cứu giúp tôi có cơ sở cũng như những tư liệu khi ñi
sâu phân tích ñể làm rõ tinh thần nhân vật AQ –một biểu tượng tinh thần của dân tộc
Trung Hoa.
Trong ñề tài này, ta còn phải tìm hiểu về nhân vật Vi Tiểu Bảo trong Lộc
Đỉnh ký của Kim Dung. Do ñó, những bài nghiên cứu về nhân vật này cũng là quan
trọng ñối với việc thực hiện ñề tài.
Kim Dung là một cao thủ trong tiểu thuyết võ hiệp. Hình tượng nhân vật Vi
Tiểu Bảo thể hiện nhiều phương diện của con người thời ñại trong xã hội Trung Hoa.
Do ñó, hiểu về nhân vật này ta sẽ có những cách nhìn về con người Trung Quốc với
những nét khái quát hơn.
Kiều Phong – khát vọng của tự do (quyển thượng) của Vũ Đức Sao Biển,
NXB Trẻ 1998, có bài Vi Tiểu Bảo ở ñâu? ñã nói ñôi nét về nhân vật Vi Tiểu Bảo
như: xuất thân từ ñâu, lý do tiếp cận ñược với Khang Hy, ñược Khang Hy trọng dụng
ra sao, nghệ thuật làm quan của Vi Tiểu Bảo, những may mắn Vi Tiểu Bảo có ñược.
Vấn ñề chỉ là sơ lược chứa ñựng trong bốn trang nên chưa sâu lắm. Trong bài Chất
hài trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, Vũ Đức Sao Biển nói về chất hài và tính hài
hước trong Lộc Đỉnh ký ñặc biệt là có ñi vào việc phân tích tính hài hước của nhân
vật Vi Tiểu Bảo. Và qua ñây, ông cho rằng nhân vật này mang những nét tính cách
của con người trong xã hội Trung Hoa thế kỷ XX với những suy nghĩ, những tình
huống dỡ khóc dỡ cười. Ông có khẳng ñịnh nhân vật này tiêu biểu cho người Trung
Hoa nhưng sự phân tích vào vấn ñề này thì chưa ñược giải quyết trọn vẹn. Cũng
trong quyển này, Vũ Đức Sao Biển ñưa ra tính xấu và tính tốt của Vi Tiểu Bảo qua
bài Vụ án “Di hoa tiếp mộc” trong Lộc Đỉnh ký: có lòng nghĩa khí, biết yêu thương
ñồng loại,…
Trong quyển hạ Từ AQ ñến Vi Tiểu Bảo, Vũ Đức Sao Biển nói về một vài nét
tính cách của Vi Tiểu Bảo bộc lộ qua hành ñộng của y. Trong bài Từ AQ ñến Vi Tiểu
Bảo, ông ñưa ra những nét tương ñồng giữa AQ (trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn)
và Vi Tiểu Bảo (Kim Dung). Trong bài Khi Vi Tiểu Bảo hình sự hóa quan hệ dân
sự, ta phần nào thấy ñược tính cách của Vi Tiểu Bảo là sẵn sàng làm mọi chuyện ñể
thỏa mãn bản thân, y không hề biết nhường nhịn ai cả; luôn dùng quyền lực ñể
khống chế những kẻ yếu hơn mình. Trong Vi Tiểu Bảo phá án ñua ngựa, tác giả nói
về một trong những may mắn của Vi Tiểu Bảo gặp khi cùng lúc tham gia nhiều thế
lực phân tranh.
Kim Dung cuộc ñời và tác phẩm của Bành Hoa – Triệu Kính Lập (2001) do
Nguyễn Thị Bích Hải dịch – NXB Trẻ, TPHCM. Trong bài này, tác giả chỉ ra những
ñiểm tương ñồng giữa Vi Tiểu Bảo và AQ, rồi ñưa ra những nét dị biệt của hình
tượng Vi Tiểu Bảo khác với AQ. Nói về mười thứ “thiên hạ ñệ nhất” mà Vi Tiểu
Bảo có ñược. Tác giả quan niệm “Đối với sự hắc ám của lịch sử, ñối với thói ñời ấm
lạnh, Lộc Đỉnh ký tràn ñầy tinh thần phê phán cay ñộc, tràn ñầy những phát hiện
sâu sắc, cũng ñầy sự hoài nghi” [11; tr; 239]. Ở ñây, tác giả ñưa ra nhiều tư liệu,
nhiều vấn ñề trong Lộc Đỉnh ký nhưng chưa thật sự ñi sâu vào vấn ñề tinh thần, do
ñó tính cách Vi Tiểu Bảo chỉ hiện ra nhưng chưa rõ nét.
Trần Mặc với quyển Võ hiệp ngũ ñại gia (2003) do Nguyễn Thị Bích Hải
dịch, NXB Trẻ, TPHCM: ñánh giá Vi Tiểu Bảo là nhân vật phản hiệp, có những nét
tính cách của con người trong lịch sử triều ñại Khang Hy và cũng có những tính cách
của con người thời ñại. Ông còn nói về sự may mắn liên tiếp trong cuộc ñời Vi Tiểu
Bảo. Và ông kết luận rằng: “kinh nghiệm thành công của Vi Tiểu Bảo cũng là thảo
luận ñặc sắc của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Lộc Đỉnh ký thực sự là một bộ
kỳ thư. Sự biểu hiện ñặc sắc của người Trung Quốc và văn hóa Trung Quốc quả là
không tác phẩm nào sánh nổi” [14; tr. 131]. Ông ñặt vấn ñề ñã ñúng hướng nhưng
chưa cụ thể hóa sâu sắc.
Đó là những bài nghiên cứu rất hay và ñã ñược nhiều ñộc giả tiếp nhận. Đây
cũng chính là những cơ sở ñể tôi có thể phát huy thêm những nội dung, khía cạnh
khác khi thực hiện ñề tài.
3. Mục ñích yêu cầu
Vì yêu cầu của ñề tài là nghiên cứu về “Hình tượng Vi Tiểu Bảo và AQ trong
hệ thống biểu tượng tinh thần Trung Hoa” cho nên trong việc khai thác, ñi sâu vào
thực hiện công việc phân tích ñề tài, người viết chỉ chú trọng những mảng có liên
quan sẽ trợ giúp trong việc hoàn thành ñề tài.
Đây là ñề tài chủ yếu nghiên cứu về tinh thần dân tộc Trung Hoa qua hai hình
tượng nhân vật: AQ trong AQ chính truyện (Lỗ Tấn) và Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh
ký (Kim Dung). Do ñó, ñể thực hiện ñược ñề tài này người viết ñã ñặt ra những mục
ñích yêu cầu sau ñây, nhằm ñịnh hướng cho việc nghiên cứu ñề tài ñược cụ thể, rõ
ràng, tránh lạc hướng hoặc ñi quá xa so với ñề tài:
Đọc và tìm hiểu về hai tác phẩm ñể có thể nắm ñược những vấn ñề cốt lõi có
liên quan mật thiết với ñề tài cũng là một mục ñích rất cần thiết mà người viết ñã ñặt
ra khi bắt tay vào thực hiện ñề tài.
Khi triển khai ñề tài, người viết cần vận dụng lý luận văn học của văn học
hiện ñại Trung Quốc ñể tìm hiểu sâu hơn về cuộc ñời, sự nghiệp văn chương cũng
như những tư tưởng của Lỗ Tấn và Kim Dung khi chịu ảnh hưởng bởi những hình
ảnh con người, gây cho hai nhà văn những xúc cảm cần phải ñược giải tỏa.
Tìm hiểu quan niệm của hai nhà văn về hình tượng con người Trung Hoa, qua
ñó sẽ thấy ñược những kiểu con người khác nhau từng tồn tại trong lịch sử Trung
Hoa. Dưới cái nhìn của hai nhà văn về hiện thực con người, chúng ta ít nhiều sẽ bắt
gặp những cách ñánh giá, nhận xét, bình luận của hai nhà văn sẽ có liên quan ñến
vấn ñề tinh thần dân tộcTrung Hoa.
Tìm hiểu về bối cảnh mà hai nhà văn ñã xây dựng khi sáng tác tác phẩm cũng
là một mục ñích nhằm ñưa chúng tôi ñến cách phân tích khoa học khi dựa trên hiện
thực khách quan của lịch sử mà nhìn nhận vấn ñề. Vai trò, ý nghĩa xã hội của hai
nhân vật sẽ dần ñược khái quát, chi tiết hơn, mang tính hợp lý hơn.
Và ñể nhằm làm rõ hơn về nhận ñịnh khi cho rằng hai hình tượng nhân vật
này là biểu tượng của tinh thần Trung Hoa, người viết sẽ phải khái quát lên ñược
những nét cơ bản nhất, ñặc thù nhất dựa trên những nét tương ñồng và dị biệt rút ra
từ việc phân tích hai hình tượng nhân vật.
Từ những mục ñích ñược xác ñịnh trên ñây, tinh thần dân tộc Trung Hoa sẽ
ñược làm sáng rõ hơn, ñưa ñến cho chúng ta những cách nhìn nhận ñúng ñắn hơn về
tinh thần dân tộc ñất nước này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Lỗ Tấn và Kim Dung là hai nhà văn ñại tài trong nền văn học hiện ñại Trung
Quốc. Khi nói ñến hai nhà văn này, chúng ta có rất nhiều vấn ñề cần phải làm sáng
rõ. Tuy nhiên, ñề tài này chỉ yêu cầu nghiên cứu về tinh thần Trung Hoa ñược thể
hiện một cách rõ nét qua hai nhân vật AQ và Vi Tiểu Bảo. Do ñó, phạm vi ñề tài sẽ
là những gì liên quan ñến vấn ñề cần khảo sát làm rõ, không ñi sâu vào những vấn ñề
khác tránh gây lạc ñề.
Mặt khác, trong nền văn học Trung Quốc hiện ñại, hai bậc kỳ tài này ñã có rất
nhiều tác phẩm nổi tiếng và ñây chính là những cơ sở dữ liệu ñể người viết ñối
chiếu, so sánh nhằm làm rõ hơn cho vấn ñề ñang nghiên cứu ñề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong tiến trình phát triển văn học xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, tình hình lý
luận phê bình văn học ñã có những biến chuyển lớn so với thời kỳ 17 năm (1949 1966) ñối với sự truyền bá tư tưởng mỹ học Mác – xít, tư tưởng văn nghệ Mao Trạch
Đông, kiên trì phương hướng ñúng ñắn của văn học. Mặc dù vậy, cũng không thể
phủ nhận tình hình là do ảnh hưởng của sự chỉ ñạo “Tả” khuynh trong hàng loạt cuộc
vận ñộng chính trị, sự ñơn giản và thô bạo trong công tác lý luận, phê bình văn nghệ
bị ñả kích dữ dội. Trong phong trào giải phóng tư tưởng, giới văn nghệ có rất nhiều
nhà phê bình, lý luận, sáng tác văn học và những lực lượng văn học mới trỗi dậy và
phát huy tác dụng chiến ñấu mạnh mẽ. Lý luận phê bình ñã gầm thét xông pha, ñạp
tung xiềng xích của “bè lũ bốn tên”, quét sạch những “thanh quy giới luật”, những
thành kiến và tập tục hình thành trong 17 năm. Họ ñã xuất hiện với tư thế của người
nổi gió, hoạt ñộng sôi nổi trong trào lưu mới của văn học. Họ nhiệt thành giúp ñỡ,
ủng hộ nhiệt tình hiện tượng mới, sự vật mới, tác phẩm mới, nhà văn mới – Tất cả
những gì có ý nghĩa thời ñại. Đồng thời cũng gánh vác lấy sứ mệnh cảm giác và mổ
xẻ những mạch ngầm, những cặn bả không thể tránh khỏi trong buổi giữa cái mới và
cái cũ, giữa cách mạng và phản cách mạng.
Một loạt nhà phê bình lão thành ñã tự thử thách nay ñang cần mẫn cầm bút trở
lại. Thêm vào ñó là sự hoạt ñộng sôi nổi của ñông ñảo những người làm công tác phê
bình trung niên. Giới lý luận, phê bình văn học tỏ ra rất sung sức. Do quán triệt tình
cảm chiến ñấu, cảm nhận hơi thở cuộc sống, cùng nhịp ñập của công cuộc cải cách
của thời ñại, cho nên văn phong của lý luận phê bình có nhiều ñổi mới, có vẻ ñẹp
văn chương, có tình cảm, có kiến thức ngày một tăng lên. Công tác này cần ñược cải
tiến và tăng cường hơn nữa mới có thể ñáp ứng ñược yêu cầu của thời ñại mới.
Lý luận phê bình Mác – xít vốn giàu sức sống, dũng cảm phản tỉnh cuối cùng
ñã trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ. Lực lượng mới của lý luận, phê bình văn học ñã
bắt ñầu xuất hiện. Cục diện sáng tác văn học và lý luận, phê bình văn học thúc ñẩy
lẫn nhau cũng ñã bắt ñầu hoạt ñộng có hiệu quả.
Đó là một trong những phương tiện cần có nhằm nắm bắt vấn ñề rõ ràng hơn.
Đặt phạm vi ñề tài trong mối quan hệ với lý luận văn học hôm nay ñể có nhiều khía
cạnh khác nhau khi tiếp cận ñề tài. Để thực hiện ñề tài này, người viết có sử dụng
những phương pháp sau:
Trước hết là công việc tìm kiếm, thu thập tài liệu ñể ñọc và nghiên cứu. Trên
cơ sở ñó, người viết có ñược những tiếp cận cần thiết cho việc giải quyết ñề tài: lựa
chọn, sàng lọc những mục ñề có liên quan; củng cố những gì con thiếu, chưa hiểu rõ.
Phương pháp lịch sử – xã hội: Khi nghiên cứu văn học, chúng ta cần phải ñặt
vấn ñề nghiên cứu vào thời ñiểm mà tác phẩm văn chương ñó ra ñời và có ảnh
hưởng như thế nào ñối với con người trong xã hội. Xuất phát từ phương pháp này ñể
khai thác những nội dung mang tính chất lịch sử xã hội tồn tại trong tác phẩm. Đây
chính là cách làm việc vừa mang tính khách quan vừa mang tính khoa học.
Quan trọng nhất là phương pháp ñối sánh: so sánh, ñối chiếu ở nhiều phương
diện ñể thấy ñược sự vận ñộng tư duy, sự phát triển của văn học Trung Quốc; làm
sáng rõ tinh thần dân tộc trong tiến trình chuyển giao.
Ngoài ra, người viết còn kết hợp những phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, khái quát vấn ñề: Trên cơ sở những dữ liệu ñã ñược thu thập, người viết sẽ
ñi vào phân tích từng vấn ñề, sau ñó tổng hợp lại rồi khái quát lên những vấn ñề
thuộc phạm vi ñề tài, ñưa ñến những kết luận cụ thể nhằm làm nổi bật vấn ñề mà ñề
tài ñang bàn ñến.
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Văn học hiện ñại Trung Quốc từ góc nhìn ñổi mới ở Việt Nam
1.1.1 Tiếp nhận văn học – một yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh giao lưu
toàn cầu hóa hôm nay
Trong lịch sử loài người, giao lưu văn hóa là một trong những nguồn lực của
sự sáng tạo và phát triển. Đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay,
UNESCO ñang nói ñến yêu cầu xã hội loài người phải chuyển sang xã hội tri thức.
Đó là kiểu xã hội mà trong ñó tri thức trở thành tài sản chung của cả loài người. Để
mọi người có thể tiếp cận ñược với kho tri thức chung của nhân loại, các nền văn hóa
phải giao lưu tiếp xúc với nhau, phải có những chính sách và biện pháp rất cụ thể ñể
phổ biến cũng như tiếp nhận văn hóa của nhau, trong ñó có phổ biến và tiếp nhận
văn học.
Vấn ñề tiếp nhận ñã ñược Arixtote ñề cập ñến trong “Nghệ thuật thơ ca” qua
tác dụng “thanh lọc” của tác phẩm ñối với người tiếp nhận. Đến thế kỷ XVII,
Friedrich Schlegel nói ñến tiếp nhận văn học trong sự thừa nhận có mối quan hệ giữa
các bậc tiền bối với hậu bối của mình. Ông cho rằng tác phẩm có mối quan hệ với
người ñọc ñương thời thì nghĩa là nó sống. Thế nhưng từ những năm 40 của thế kỷ
XX trở về trước, các trường phái nghiên cứu văn học truyền thống ñã tồn tại một
quan niệm lạc hậu khi phủ nhận vai trò của người ñọc, người tiếp nhận với tư cách là
một nhân tố thiết yếu của chu trình sáng tạo nghệ thuật. Họ quan niệm mỹ học sáng
tạo là khép kín, tác phẩm văn học tự thân nó ñã là một chỉnh thể thống nhất toàn vẹn,
người ñọc nếu tham gia vào việc gia công nghĩa cho tác phẩm sẽ phá vỡ tính thống
nhất của tác phẩm văn học. Vì vậy trong nghiên cứu văn học chỉ chú ý ñến hai phần
là tác giả (thế giới quan, tư tưởng, lập trường, lý tưởng thẩm mỹ, cảm hứng…) và tác
phẩm (thể loại, chủ ñề - ñề tài, hình thức nghệ thuật…), gạt người ñọc ra ngoài quỹ
ñạo tồn tại của nhà văn và tác phẩm. Với họ, tiếp nhận văn học chỉ nghiên cứu về
“hậu sử”, về người ñọc, về sự tiếp nhận – những yếu tố bên ngoài tác phẩm, không
có giá trị nghệ thuật, giá trị mỹ học – không có ñóng góp gì ñược cho nghiên cứu
lịch sử văn học. Sự khiếm khuyết một nhân tố, một giai ñoạn trong ñời sống của tác
phẩm trong thời gian dài ñã dẫn ñến sự khủng hoảng của lý luận và nghiên cứu văn
học khi viết lịch sử văn học chỉ bắt nguồn từ phía sáng tạo.
Đến những năm 50, 60 vấn ñề tiếp nhận bắt ñầu ñược quan tâm nghiêm túc và
phát triển mạnh mẽ. Nó ñược sự cộng hưởng bởi các lý do như sau: Thứ nhất là do
phong trào xã hội hóa, dân chủ hóa các vấn ñề xã hội, trong ñó có việc ñòi tước bỏ
quyền uy của tác giả. Thứ hai là do lịch sử văn học theo lối cũ không còn vừa khuôn
với tình hình văn học ngày càng phong phú, cần phải có con ñường nghiên cứu văn
học theo lối mới, ñó là cần xây dựng cơ sở mới là “mỹ học tiếp nhận”. Thứ ba là do
những lý thuyết của các ngành khoa học như ngôn ngữ, tâm lý, ký hiệu, cấu trúc,
giao tiếp…ñã gợi mở cho nghiên cứu văn học.
Từ những cơ sở lý thuyết tiếp nhận văn học ñược xây dựng nhằm ñóng góp
cho phương pháp nghiên cứu tác phẩm có tính tổng hợp, bổ sung cho mỹ học sáng
tạo, xác ñịnh giá trị tác phẩm một cách trọn vẹn, toàn diện hơn.
Và ñến thế kỷ XX, khi Lênin nghiên cứu tỉ mỉ Lep Tolstoi, Người không chỉ
ñặt vấn ñề giải thích những tác phẩm bằng những tiền ñề khách quan và chủ quan
(thời ñại, tư tưởng, tình cảm, tài năng của nhà văn…) – tức sự hình thành tác phẩm –
mà còn hết sức chú ý ñến tác dụng của những tác phẩm này ñối với ñương thời và về
sau, cũng tức là ñề cập ñến số phận và sự vận ñộng của nó qua các môi trường xã hội
và trong sự phát triển của lịch sử. Lênin tập trung chủ yếu vào việc làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa tác phẩm Tolstoi với thời ñại của ông, với tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng và sự nghiệp cách mạng của họ. Nghĩa là Lênin thừa nhận sự tồn tại
quan trọng của người tiếp nhận ñối với tác phẩm văn học. Như vậy vai trò, vị trí của
người ñọc ñối với sáng tạo văn học là không thể phủ nhận.
Xác ñịnh tiếp nhận văn học là một yêu cầu, ñiều kiện cần thiết trong thực tiễn
hôm nay nên chúng ta ñã và ñang rất coi trọng việc nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn về
vấn ñề này. Vậy tại sao ta cần phải coi vấn ñề này là quan trọng trong thực tiễn hiện
nay?
Từ thời cổ ñại, ñế quốc La Mã sau khi ñánh chiếm các quốc gia thuộc thế giới
Hy Lạp cổ ñại ñã tiếp thu gần như nguyên vẹn nền văn hóa Hy Lạp với những thành
tựu rực rỡ của nó nhằm làm giàu cho nền văn hóa La – tinh và biến nó thành ñộng
lực phát triển. Vương quốc Mãn Thanh sau khi chinh phục Trung Quốc lại tiếp thu
nền văn hóa Hán của xứ này ñể biến thành nền văn hóa của mình. Và muốn tiếp nhận
ñược văn hóa tiên tiến của các nước khác, một quốc gia phải chủ ñộng tìm hiểu ñối
tác chứ không thụ ñộng ngồi chờ người ta ñem lại cho mình. Từ thế kỷ XIX, khi chủ
nghĩa tư bản ñã ñạt tới ñỉnh cao của nó, các nhà hoạt ñộng văn hóa cũng ñã nói ñến
sự lên ngôi của nền văn hóa – văn học toàn thế giới. Văn học dân tộc không còn có ý
nghĩa gì nhiều, ở thời ñại chúng ta là thời ñại của văn học thế giới và mỗi chúng ta
cần phải góp phần làm cho thời ñại ñó hình thành càng sớm càng tốt”. C. Mác ñã nêu
ý tưởng trong Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản (1848) rằng: Tính chất ñơn phương và
phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại ñược nữa, và từ những nền văn học
dân tộc và ñịa phương, muôn hình muôn vẻ, ñang nảy nở ra một nền văn học toàn
thế giới.
Vì vậy, tiếp nhận văn học là một ñiều kiện rất cần thiết với thực tiễn giao lưu
văn hóa như hôm nay, nhằm xây dựng nên một nền văn học toàn thế giới. Do ñó,
chúng ta phải có những cách tiếp nhận, những phương pháp tiếp nhận thật thiết thực
ñể thực hiện ñược ñiều ñã ñặt ra. Việc nghiên cứu tìm hiểu về vấn ñề này ngày càng
ñược chú trọng nhiều hơn trong hiện tại lẫn trong tương lai.
Trong thực tiễn giao lưu toàn cầu hóa như hiện nay, sự tiếp nhận văn học có
ảnh hưởng ñến việc nghiên cứu về các nền văn hóa thế giới. Tiếp nhận văn học là
một cây cầu mà ở ñó nhu cầu và lợi ích giữa nhà văn và người ñọc cùng gặp gỡ,
cũng là nơi ñối thoại của hai nhân tố này. Văn học là một bức tranh sống ñộng phản
ánh hiện thực xã hội của từng thời ñại. Qua sự tiếp nhận văn học chúng ta sẽ có cơ
hội mở rộng tầm nhìn, sự hiểu biết về con người, nền văn hóa của các dân tộc, các
nước trên thế giới. Chính sự tiếp nhận này là ñiều rất cần thiết và vô cùng quan trọng
trong cơ chế mở cửa và giao lưu của thế giới hôm nay. Để tiếp nhận một tác phẩm
văn học của nước khác, người ñọc có thể tự tra cứu; tuy nhiên, yếu tố này là một
ñiều khó khăn ñối với sự giao lưu văn hóa - văn học. Đội ngũ dịch giả ñông ñảo, có
kinh nghiệm, có kiến thức rộng, tầm hiểu biết sâu sẽ là yếu tố rất cần thiết ñể khắc
phục sự khó khăn này.
1.1.2 Dịch thuật – một bộ phận không thể tách rời trong lý thuyết tiếp
nhận so sánh văn học
Xuyên qua thời gian, vượt qua không gian, những giá trị nhân văn của văn
hóa nhân loại ñến với từng dân tộc, từng nền văn hóa dân tộc, từng con người trên
hành tinh chúng ta ñại ña số là nhờ vào con ñường dịch thuật. Trong tiến trình của
văn học dân tộc, văn học dịch giữ một vai trò rất to lớn. Ngày nay vai trò ấy còn to
lớn hơn trong cuộc sống ñầy chuyển biến dữ dội, thường xuyên của từng nền văn
hóa dân tộc. Dịch thuật là một bộ phận của cấu trúc xã hội phức tạp. Qua văn học
dịch, ta nghe bước chân sinh ñộng của lịch sử với những suy tư rộng lớn, những tình
cảm sâu kín của con người. Qua ñó, chúng ta biết ñược từng mảng lớn hiện thực xã
hội cùng những phong tục tập quán ñến từ bốn phương trời trong nhiều thời ñiểm
lịch sử khác nhau. Văn học dịch là một trường học lớn và “ñóng vai trò hết sức quan
trọng trong sự phát triển văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc” - Phan Ngọc nói [4;
tr. 173]. Và văn học dịch này có mối quan hệ chặt chẽ trong lý thuyết tiếp nhận văn
học so sánh.
Trong văn học so sánh, nghiên cứu dịch thuật ñược quan niệm như là “viết
lại” bản gốc. Viết lại, dù dưới hình thức nào: giới thiệu, phê bình hay dịch thuật,
phóng tác hay làm hợp tuyển, trong thực tế ñã thành một chiến lược quan trọng ñối
với nền văn hóa tiếp nhận. Trong lý luận văn học và trong văn học so sánh, dịch
thuật có một vị thế quan trọng, không thể thay thế ñược. Cùng với thời gian, dịch
thuật ñã trở thành một khoa học, có phương pháp luận riêng. Dịch thuật là một lực
lượng mạnh mẽ thúc ñẩy văn hóa thế giới phát triển. Văn học so sánh ngày nay
không thể không kể ñến dịch thuật. Và người dịch là người phải “lĩnh hội cho thấu
nguyên ý”, quan ñiểm của Giáo sư Đặng Thai Mai [4; tr. 178],...
Quả thực, dịch thuật là một hoạt ñộng bao hàm những cảm xúc lớn về văn
học. Nếu ñầu thế kỷ XVIII, Dryden cho rằng dịch giả “phải làm chủ mình hoàn
toàn, hiểu sâu sắc tài năng, cảm xúc của tác giả, hiểu thực chất những thuật ngữ mà
ñề tài ñề cập ñến. Sau ñó, anh ta mới tự thể hiện ñược hết mình với sức sống mạnh
mẽ, thoải mái như chính anh ta ñang viết ra bản gốc; ngược lại, những ai chỉ sao
chép, dịch từng chữ sẽ mất tinh thần trong cuộc tiếp máu buồn tẻ này” [4; tr. 179],
thì ñến cuối thế kỷ XX, các nhà dịch thuật học và các dịch giả vẫn còn băn khoăn
giữa hai con ñường nên trung thành với tinh thần hay với lời văn nguyên bản. Họ
vẫn còn phải ñối mặt với cái “khó khăn cơ bản là lèo lái giữa trung thành với
nguyên bản và tính dễ ñọc dễ hiểu ñối với bạn ñọc bản dịch… nhất là khi có những
cách ngôn, những ám chỉ văn học, những trích dẫn lịch sử” [4; tr. 179].
Dịch một tác phẩm văn học hoàn toàn không cùng nghĩa với dịch mật mã, rồi
mã hóa trở lại thành một dịch phẩm. Nghề này ñòi hỏi cao về trình ñộ ngoại ngữ,
trình ñộ văn học, kiến thức nền và chuyên ngành mới có những dịch phẩm có chất
lượng cao.
Từ xưa ñến nay trong ñội ngũ dịch giả văn học lúc nào cũng có sự khác biệt
về ñộng cơ, về mục ñích sáng tạo. Đối với số này, dịch thuật là một hoạt ñộng văn
học thứ thiệt, phải tìm tòi, kiên trì, lao tâm khổ tứ hết mình vì dịch phẩm, ñể dịch
những tác phẩm vào hàng cổ ñiển, trứ danh. Đối với số khác, dịch thuật là ñộng tác
làm thuê cho thị trường. Dịch càng nhanh càng tốt cho thị trường văn hóa bản ñịa.
Do ñó, hiện tượng dịch “không nghiêm túc” ñể kiếm tiền là ñiều không thể tránh
khỏi. Và số dịch phẩm có chất lượng cao, số dịch giả yêu nghề cứ ngày một vơi dần,
ở ñây, ta chưa kể ñến dịch thuật là một công cụ sư phạm lấy chuẩn tắc dịch ñúng làm
ñầu. Nếu áp dụng chuẩn tắc sư phạm vào dịch thuật, lặp tức ta sẽ rơi vào ngây ngô,
ngọng nghịu, buồn cười. Ngày nay, có người quan niệm công việc của dịch giả là
“làm cho một người chết sống lại, là giới thiệu một gương mặt sống” (Ezra Pound)
[4; tr. 181]. Có người ví bản dịch nghệ thuật là “kiếp sau” của bản gốc (Walter), vì
bản dịch chính là cột mốc ñánh dấu cuộc sống của bản gốc ñược tiếp tục. Chính dịch
thuật ñã giúp cho một số tác phẩm kéo dài tuổi thọ ở một môi trường khác. Và dịch
phỏng cũng trở thành bản gốc, có tác ñộng mới mẻ ñối với môi trường khác ấy. Dịch
thuật quả ñã ñưa lại một ñời sống mới cho bản gốc. Trong trường toàn cầu hóa hiện
nay, dịch thuật là một hoạt ñộng bảo ñảm cho việc giao lưu quốc tế ở mọi cấp ñộ,
mọi kiểu loại, ñặc biệt là sự nghiệp ñối thoại giữa các nền văn hóa trên hành tinh
chúng ta. Các nhà văn học so sánh Châu Âu và Bắc Mỹ ñang tiến hành lập bộ phả hệ
dịch thuật. Đều thú vị là trong bộ phả hệ này, nữ giới chiếm một vị trí quan trọng.
Cuộc “ñại tổng kết” ấy ñã có một số phát hiện, ñánh giá lại nhiều thẩm ñịnh lịch sử
văn học và lịch sử văn hóa. Đó là việc rất cần thiết ñối với nền văn hóa hậu thực dân
chủ nghĩa.
Trong dịch thuật ngày nay, bản gốc văn học không còn là dòng chảy một
chiều mà là một “sự nghiệp xuyên văn hóa hai chiều”. Quả thật, khi dịch người dịch
phải ñọc bản gốc nhiều lần sau ñó mới viết ra bản dịch. Vai trò dịch giả chân chính
ngày nay càng cao trong “văn hóa ñiện tử”. Văn học so sánh gắn bó với “người bạn
ñường” dịch thuật ngày càng chặt chẽ hơn. Có nhà so sánh học – dịch thuật phát
biểu: “Dịch thuật ñã có một bề dày với nhiều phương pháp khác nhau ñó là một môn
học có quan hệ với nhiều bộ môn khác. Nên chăng gọi dịch thuật là bộ môn nghiên
cứu mối tương quan giữa các nền văn hóa?” [4; tr. 184].
Dịch thuật không chỉ là “chiếc cửa sổ nhìn ra thế giới”, mà còn là một kênh
mở rất lợi hại, một con dao hai lưỡi ñối với văn hóa tiếp nhận. Chính văn học so
sánh có nhiều khả năng giúp văn hóa tiếp nhận vượt qua khó khăn mang tính quy
luật này. Thông thường, văn hóa - văn học dân tộc trực tiếp gắn bó với sự vươn lên
của tinh thần dân tộc. Cũng chính văn học so sánh ñã ñược sử dụng ñể ñánh giá bản
sắc dân tộc, vì nó có ñủ ñiều kiện hòa hợp với các nền văn học khác nhau, hội ñủ
mọi yếu tố ñể nâng cao ñịa vị của người dịch thuật, trả về cho “người bạn ñồng
hành” với mình vị trí xứng ñáng của nó trong sự phát triển văn học.
Tiếp nhận một nền văn hóa khác hòa vào nền văn hóa dân tộc vừa không làm
mất ñi bản sắc của văn hóa dân tộc, vừa góp phần ñưa nền văn hóa dân tộc có sự
phát triển ñi lên là một việc rất ñáng khích lệ trong xu hướng hiện nay. Bộ phận dịch
giả sẽ là một trong những ñiều kiện ñể thực thi ñiều ñó. Việc dịch thuật văn chương
là một công việc rất nghiêm túc xuất phát từ ý thức phát triển và tiếp nhận văn hóa –
văn học thế giới. Nó ñòi hỏi rất cao vai trò của dịch giả. Phải có sự yêu nghề, có cái
tâm, cái tầm trong việc lĩnh hội tri thức văn hóa thế giới là một ñiều rất có ích cho
công việc họ ñang theo ñuổi. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc ñịnh hướng
dịch thuật, giới thiệu những tác phẩm văn học nước ngoài vừa phù hợp với tâm thức
văn hóa của dân tộc, vừa góp phần gợi những ñường hướng sáng tác mới lại càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Dịch thuật sẽ mở ra những khung trời mới, những con
ñường mới giúp ta có ñược cơ hội tiếp cận với những ñiều mới mẻ, hấp dẫn của mọi
nền văn hóa thế giới, trong ñó có nền văn hóa – văn học Trung Quốc. Đây là một
trong những nền văn hóa có ảnh hưởng từ rất lâu ñối với chúng ta. Và hiện nay, ñiều
này vẫn chưa là kết thúc, ta vẫn ñang có sự lĩnh hội, học tập từ Trung Quốc.
1.1.3 Tiếp nhận văn học hiện ñại Trung Quốc từ góc nhìn Việt Nam
1.1.3.1 Trước ñây
Văn học hiện ñại Trung Quốc mở ñầu từ cuộc vận ñộng văn học mới Ngũ Tứ.
Từ cuối thế kỷ XIX ñầu thế kỉ XX, cùng với nguy cơ dân tộc do chủ nghĩa ñế quốc
xâm lược gây nên ngày càng nặng nề, các trí thức tiên tiến Trung Quốc ñược trào lưu
tư tưởng mới, văn học mới phương Tây khơi gợi, ñã nảy sinh yêu cầu khai sáng, cải
cách văn học ñể thức tỉnh dân tộc, ñã sơ bộ thử nghiệm cải lương văn học trên các
lĩnh vực lý luận, thơ ca, tiểu thuyết, kịch, tản văn… chuẩn bị về tư tưởng và văn học
cho cuộc cách mạng văn học Ngũ Tứ.
Nếu tính từ năm 1919 với cuộc vận ñộng cách mạng văn học Ngũ Tứ thì ñến
năm 1945 văn học hiện ñại Trung Quốc trải qua chặng ñường gần 30 năm. Đó là
chặng ñường văn học Trung Quốc không ngừng phát triển theo hướng dân tộc, khoa
học, ñại chúng, gắn với những cuộc vận ñộng văn hóa học thuật sôi nổi và những tên
tuổi có ñịa vị vẻ vang trên ñàn thế kỷ như Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Tào Ngu…
Là một nước có quan hệ văn học lâu ñời với Trung Quốc và cũng ñang trong
tiến trình hiện ñại hóa văn học dân tộc, văn học ta trong giai ñoạn này tiếp nhận ñược
những gì từ những thành tựu văn học hiện ñại Trung Quốc? Quan hệ văn học giữa
hai nước trong giai ñoạn này có gì ñặc biệt? Tìm hiểu việc nghiên cứu – giới thiệu
văn học hiện ñại Trung Quốc ở nước ta trước cách mạng tháng Tám năm 1945 sẽ
góp phần làm rõ những vấn ñề thuộc về quan hệ văn học nêu trên.
Trong khoảng thời gian văn học Trung Quốc có những chuyển biến mạnh mẽ
với sự phát triển thắng lợi của nền văn học mới, ở nước ta cũng có phong trào vận
ñộng xây dựng “nền Quốc văn mới” lấy quốc ngữ làm phương tiện, chú trọng khảo
cứu, dịch thuật tinh hoa văn hóa Đông Tây. Riêng ñối với văn học Trung Quốc,
chúng ta ñã dịch hầu hết các tác phẩm văn học cổ ñiển Trung Quốc, dịch cả Từ Trẩm
Á. Tuy nhiên suốt thời gian khá dài, ngót trên 20 năm, những biến ñộng lớn ở Trung
Quốc – cuộc vận ñộng tân văn hóa, phong trào Ngũ Tứ vận ñộng…, những tên tuổi
lớn kể cả Lỗ Tấn, hầu như không ñược biết ñến ở nước ta. Nếu có, cũng chỉ là những
tiếng vọng mơ hồ.
Trong những năm 30 còn có thể ghi nhận một vài bài báo gọi là có nhắc ñến
chút liên quan ñến văn học hiện ñại Trung Quốc. Đó là bài của Lê Dư – Nguồn gốc
văn học nước nhà là nền văn học mới; của Trực Tâm – Cuộc vận ñộng Tân văn hóa
ở Trung Quốc; của Nguyễn Tiến Lãng – Văn mới của người Tàu; của Phan Khôi –
Trên văn ñàn thế giới, văn học Trung Hoa ở ñịa vị nào?...
Nhìn chung, các bài báo trên chỉ giới thiệu hoặc nhắc sơ sài về cái lợi của việc
dùng văn bạch thoại thay cho văn ngôn; có người ñề cao công của Hồ Thích, Trần
Độc Tú, có người ñề cao công của Lỗ Tấn nhưng không ai thấy ñược thực chất về
vai trò của Ngũ Tứ vận ñộng, của nền văn học mới. Đó là một nền văn học chiến
ñấu, ñại chúng và hiện thực.
- Xem thêm -