Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn lỗ tấn (qua hai tập gào thét và bàng h...

Tài liệu Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn lỗ tấn (qua hai tập gào thét và bàng hoàng)

.PDF
59
349
77

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN THỊ TÚ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN (QUA HAI TẬP “GÀO THÉT” VÀ “BÀNG HOÀNG”) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN THỊ TÚ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN (QUA HAI TẬP “GÀO THÉT” VÀ “BÀNG HOÀNG”) Chuyên ngành: Văn học nước ngoài KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: ThS. Hà Thị Hải Sơn La, năm 2013 LỜI CẢM ƠN Khoá luận được hoàn thành với sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của cô giáo Thạc sĩ Hà Thị Hải. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô, người đã luôn quan tâm giúp đỡ tận tình trong quá trình em thực hiện khoá luận này. Em chân thành cảm ơn phòng Nghiên cứu khoa học, thư viện trường Đại học Tây Bắc, các thầy cô giáo trong nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, các thầy cô bộ môn Văn học nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực hiện khoá luận này. Em cũng xin chân thành cảm ơn cô giáo chủ nhiệm cùng tập thể các bạn sinh viên lớp K50 Đại học Sư phạm Văn – Giáo dục công dân đã động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian em thực hiện khoá luận. Trong quá trình thực hiện khoá luận do thời gian và phạm vi khoá luận nên không tránh khỏi sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận này hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 05 năm 2013 Tác giả Nguyễn Thị Tú MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2 3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................... 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 5 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 6 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 6 5. Đóng góp của khoá luận ................................................................................. 6 6. Cấu trúc khoá luận.......................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM TÍNH CÁCH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN ..................................................................... 7 1.1. Nhân vật văn học và tính cách nhân vật ...................................................... 7 1.1.1 Nhân vật văn học .................................................................................. 7 1.1.2. Tính cách nhân vật ............................................................................... 8 1.2. Đặc điểm tính cách người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn ................. 9 1.2.1. Đặc điểm tính cách chung .................................................................... 9 1.2.1.1. Khát khao hạnh phúc ................................................................. 10 1.2.1.2. Có tinh thần phản kháng ............................................................ 13 1.2.1.3. Luôn day dứt đau khổ. ............................................................... 16 1.2.2. Đặc điểm tính cách riêng ................................................................... 19 1.2.2.1. Tử Quân - một người vừa cương quyết vừa bạc nhược .............. 20 1.2.2.2. Cô Ái - một người dũng cảm nhưng không triệt để .................... 23 1.2.2.3. A Thuận - một cô bé nhút nhát, cả tin ........................................ 25 CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN ............................................. 29 2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................... 29 2.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn ................................................................................................................... 31 2.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật............................................................... 31 2.2.2. Miêu tả hành động nhân vật ............................................................... 37 2.2.3. Khắc hoạ ngôn ngữ nhân vật.............................................................. 41 2.2.3.1. Đối thoại .................................................................................... 41 2.2.3.2. Độc thoại nội tâm....................................................................... 45 2.2.4. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ người kể chuyện .................................. 47 2.2.5. Miêu tả nhân vật qua khung cảnh thiên nhiên .................................... 49 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 53 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học Trung Quốc là nền văn học rất lâu đời và phong phú. Ngay từ trước công nguyên nền văn học đã có những thành tựu rực rỡ như thần thoại, kinh thi, văn xuôi triết học, Sở từ, Sử kí… Sang đến thời trung đại thì Đường thi, Tống từ và tiểu thuyết Minh Thanh đã trở thành ba đỉnh cao văn học rực rỡ chói lọi. Đến thời kì hiện đại văn học Trung Quốc đã có nhiều tác giả, tác phẩm nổi bật và ngày càng được khẳng định về số lượng và chất lượng. Văn học thời kì mới này cũng đã tự tin tiếp nối một cách xứng đáng với văn học truyền thống. Lỗ Tấn là tên tuổi vĩ đại của văn học Trung Quốc thế kỷ XX, ông là một trong số không nhiều các tác gia truyện ngắn trên thế giới có tài hấp dẫn độc giả bao thế hệ. Lỗ Tấn không chỉ là nhà văn lớn của Trung Quốc mà là của cả thế giới. Ông được xem là “người thầy cách mạng văn hoá Trung Quốc; ngôi sao sáng vĩ đại trên văn đàn Trung Quốc”, “tấm gương sáng cho mọi người con của dân tộc Trung Hoa noi theo”. Ông còn được gọi là “linh hồn dân tộc” [19, 3]. Lỗ Tấn là nhà văn yêu nước chân chính, có tinh thần nhân đạo sâu sắc, ông luôn quan tâm đến vận mệnh dân tộc và số phận của người dân Trung Hoa. Bao trùm lên sáng tác của Lỗ Tấn là lòng yêu thương con người sâu sắc, không chỉ là lòng thương người chung chung mà có cơ sở giai cấp và dân tộc. Có hai loại người ông không bao giờ chĩa mũi dùi châm biếm đó là phụ nữ và trẻ em. Đề tài người phụ nữ xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Lỗ Tấn đặc biệt qua hai tập truyện ngắn nổi tiếng “Gào thét” và “Bàng hoàng”. Từ bao đời nay, người phụ nữ bị khinh rẻ, bị chà đạp và không phải nhà văn nào cũng có cái nhìn tiến bộ về khả năng cách mạng của họ. Lỗ Tấn là nhà văn có cái nhìn tiến bộ về người phụ nữ, hình ảnh người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm của ông đầy bi kịch nhưng cũng tiềm tàng đầy sức mạnh phản kháng. Khác với những nhà văn cùng thời, Lỗ Tấn trân trọng họ, lên tiếng đòi quyền bình đẳng tự do cho họ và gián tiếp chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ. Chọn đề tài “Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn” sẽ giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về tài năng sáng tạo nghệ thuật và tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn yêu nước Lỗ Tấn cũng như vị trí của ông trong lịch sử văn học Trung Quốc. 1.2. Lỗ Tấn là một nhà văn lớn của thế giới, tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ở nước ta từ lâu cái tên Lỗ Tấn đã trở nên rất gần gũi, quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả. Những sáng tác của Lỗ Tấn đã trở 1 thành đề tài lớn của nhiều nhà nghiên cứu văn học. Chúng tôi đã được tìm hiểu ở bậc phổ thông những tác phẩm tiêu biểu của Lỗ Tấn như AQ chính truyện, Thuốc, Cố hương. Lỗ Tấn đã để lại cho chúng tôi ấn tượng sâu sắc và lòng khâm phục đối với nhà văn, nhà cách mạng vĩ đại của nền văn học hiện đại Trung Quốc. Lên bậc đại học chúng tôi có dịp tiếp cận với nhà văn qua học phần văn học thế giới - văn học Trung Quốc. Đây chính là cơ hội để chúng tôi tìm hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về Lỗ Tấn đồng thời cũng giúp cho chúng tôi có điều kiện thực hiện khoá luận tốt nghiệp với đề tài nghiên cứu về sáng tác của ông. Chọn đề tài này sẽ giúp cho độc giả cũng như bản thân người thực hiện đề tài thêm lòng kính yêu, quý trọng những tinh hoa nghệ thuật được chắt lọc từ cuộc đời và tâm huyết của nhà văn Lỗ Tấn, từ đó giúp cho việc học tập và nghiên cứu về Lỗ Tấn sẽ trở nên dễ dàng hơn. 1.3. Từ trước đến nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về Lỗ Tấn, về những sáng tác của ông. Hơn nữa những tác phẩm của ông đã được lựa chọn và đưa vào chương trình giảng dạy ở trường trung học phổ thông và trung học cơ sở như Thuốc, AQ chính truyện, Cố hương. Trên cơ sở phục vụ cho việc học tập và giảng dạy sau này, đề tài này quả thật rất có ý nghĩa và cần thiết với những sinh viên chuyên nghành Sư phạm Văn như chúng tôi. Đề tài này không chỉ giúp chúng tôi biết cách thực hiện một công trình nghiên cứu văn học phục vụ cho việc học tập và giảng dạy, mặt khác trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân người viết có cơ hội rèn luyện cho mình một cách toàn diện, phát huy tính tích cực “tinh thần Lỗ Tấn” vào cuộc sống, học tập ở Lỗ Tấn một nhân cách cao cả, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, can đảm, lao động nghệ thuật chân chính không vì lợi ích của cá nhân mà đấu tranh vì quyền lợi chung. 2. Lịch sử vấn đề Lỗ Tấn là nhà văn hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, suốt cuộc đời 55 năm cầm bút của mình, ông đã để lại cho dân tộc Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú. Do đó mà một loạt các công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông xuất hiện. Tuy nhiên, truyện ngắn của ông được ưu ái hơn cả. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Lỗ Tấn, tất cả đều đi đến thống nhất một nhận định khái quát: Lỗ Tấn là một nhà văn đại tài, một danh thủ truyện ngắn của nền văn học hiện đại thế kỷ XX. Sau đây là một số ý kiến của các tác giả về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. 2 Đinh Linh trong Ngũ Tứ tạp đàm do Lương Duy Thứ dịch có viết về số phận của nhân vật Tường Lâm như sau: “Tường Lâm chỉ một con đường chết, không chết không được. Những người đồng tình với chị hoặc lạnh lùng với chị, những người chỉ biết có mình, đều cùng dồn đuổi chị vào chỗ chết, đều cùng làm chị thêm đau khổ về tinh thần. Bởi lẽ, không phải người này hay người khác tạo nên số phận bi thảm của chị, nếu như thế thì chỉ là vấn đề con người với nhau, thay đổi người khác thì số phận Tường Lâm sẽ khác. Nhưng Lỗ Tấn không viết như thế, không viết về một câu chuyện bi hoan li hợp mà là viết về chế độ ăn thịt người…” [DT 19, 310]. Trong giáo trình Lịch sử văn học Trung Quốc tập II, Nguyễn Khắc Phi có viết: “Lỗ Tấn đã dành một phần ba truyện ngắn của mình trong “Gào thét” và “Bàng hoàng” để phản ánh số phận của người phụ nữ Trung Quốc trong xã hội cũ” [15, 203]. Nguyễn Khắc Phi chỉ ra một số nét tính cách của người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn như sau: “Hai loại phụ nữ mà Lỗ Tấn thường phản ánh trong truyện là phụ nữ lao động và trí thức… Họ đều có tinh thần phản kháng nhưng vì đơn độc, yếu ớt cuối cùng đều bị thất bại. Thím Tường Lâm trong Lễ cầu phúc vùng vẫy chống lại lễ giáo phong kiến, cuối cùng bị cái lễ giáo đó làm cho mụ mẫm, sống lay lắt, chết trong giá tuyết của kiếp người ăn mày. Cô Ái trong Ly hôn quyết không để nhà chồng hành hạ áp bức, cô bỏ về nhà mẹ đẻ, kiện cáo lên huyện không xong thì lên phủ, làm cho bên nhà chồng phải khuynh gia bại sản. Nhưng cuối cùng cô cũng bị thế lực phong kiến áp đảo làm mất hết chí khí, đành phải nhẫn nhục nhận lấy chín mươi đồng bạc của nhà chồng bồi thường cho. Còn Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất là một phụ nữ có học, kiên quyết đấu tranh giành quyền tự do hôn nhân. Cô đã bất chấp sự ngăn cản của bạn bè và sự dèm pha của xã hội để đến với tình yêu” [15, 204]. Nguyễn Khắc Phi cũng nêu lên một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ: “Trong Lễ cầu phúc qua mười ba lần tả đôi mắt thím Tường Lâm, Lỗ Tấn nêu lên diễn biến phức tạp trong tâm trạng thím. Hoặc trong truyện Trong quán rượu để làm nổi bật cái trong trắng hồn nhiên của A Thuận, Lỗ Tấn đã chú ý miêu tả cặp mắt của A Thuận “trong suốt như nền trời một đêm quang tạnh”. Thủ pháp “vẽ đôi mắt, tả linh hồn” trên đây của Lỗ Tấn đã có tác dụng to lớn, nó làm tăng sức truyền cảm nghệ thuật, thể hiện được chỗ sâu kín của tâm hồn” [15, 213]. Nhà văn Anh Đức trong Lỗ Tấn bậc thầy về truyện ngắn có viết: “Cái cảm nghĩ trước hết của tôi bao trùm lên tất cả truyện ngắn Lỗ Tấn ấy là tình yêu thương con người, là tinh thần nhân đạo và nhân bản thấm đậm nơi ông… Hầu hết những con người mà Lỗ Tấn dựng lên bằng chữ nghĩa đều là những người 3 đau, những người bất hạnh trong cái xã hội Trung Quốc đầy bệnh tật và bất hạnh” [19, 356]. Như vậy, có thể nói mối quan tâm của Lỗ Tấn hướng về những con người bất hạnh mà người phụ nữ trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ đều là những con người khổ cực nhất, bất hạnh nhất, Lỗ Tấn đã dành mối quan tâm đặc biệt đến những con người này. Ngoài ra còn nhiều luận văn, đề tài cũng có đề cập đến vấn đề người phụ nữ dù chưa đi sâu cụ thể nhưng cũng điểm qua những chi tiết liên quan đến vấn đề người phụ nữ. Trong Tìm hiểu phong cách nghệ thuật Lỗ Tấn qua các truyện ngắn của ông, Mai Trọng Vị đã khái quát một số nét về phong cách nghệ thuật của Lỗ Tấn. Thứ nhất về đối tượng phản ánh cũng có nhắc đến hình ảnh của những người phụ nữ: “Nhân vật của Lỗ Tấn còn là nạn nhân của bao nhiêu nỗi giày vò, đày đoạ về cuộc sống tinh thần. Lễ giáo phong kiến luôn luôn thù địch với họ, khiến họ hốt hoảng trước bao nhiêu câu hỏi dồn dập về số phận của họ. Đó là thím Tường Lâm, cô Ái, chị Tư Thiền, là Tử Quân, vú Ngò” [25, 19], về ngôn ngữ trong tác phẩm cũng được tác giả chỉ ra: “Trong tác phẩm của Lỗ Tấn cần chú ý hai hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật cùng tồn tại trong tác phẩm” [25, 45], về nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ ông cho rằng: “Thím Tường Lâm trong truyện ngắn Lễ cầu phúc đối thoại nhưng thực ra là độc thoại. Vỏn vẹn ba câu hỏi với tác giả và một câu đối thoại với bà con Lỗ Trấn, mà tính cách nhân vật được khắc hoạ đậm nét” [25, 49]. Trong Nhân vật nữ trung tâm và những chấn thương tinh thần trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, Trần Lê Hoa Tranh cũng đã đi vào tìm hiểu bi kịch của người phụ nữ: “Lỗ Tấn không ngần ngại hào hứng xây dựng hình ảnh người phụ nữ mới của Trung Quốc tương lai độc lập, tự tin, không lệ thuộc vào người khác, có quyền làm chủ vận mệnh của mình” [21, 3]. Bên cạnh đó, những người nông dân có số phận bất hạnh cũng được tác giả khắc hoạ một cách rõ nét: “Hình ảnh chị Tư Thiền và chị Tường Lâm đều là chân dung những người phụ nữ nông dân bất hạnh nhất trong văn học hiện đại Trung Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết, họ cô đơn ngay giữa đồng loại của mình vì không tìm được sự cảm thông” [21, 5]. Trần Lê Hoa Tranh cũng nhận định về những người phụ nữ biết đấu tranh cho quyền lợi của mình: “Ái là người phụ nữ mạnh mẽ, đốp chát và triệt để. Cô quyết tâm đi tìm lẽ công bằng cho cuộc hôn nhân đã tan vỡ của mình. Cô là hình tượng phụ nữ đầu tiên của Lỗ Tấn dám đứng lên chống lại sự bất công, áp bức của lễ giáo phong kiến, sự đè nén vô nhân đạo, sự tôn vinh chế độ nam quyền” 4 [21, 6]. Tác giả đã tìm hiểu về số phận của những người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn một cách tương đối cụ thể. Trần Thị Thuý Nguyệt trong luận văn“Đề tài người lao động và người trí thức trong truyện ngắn của Lỗ Tấn” đã viết về hình ảnh người phụ nữ lao động: “Người phụ nữ lao động trong truyện ngắn của Lỗ Tấn có số phận éo le, cay đắng. Họ bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến thần quyền và nam quyền” [13, 41]. Luận văn đã chỉ ra những số phận bất hạnh, những nguồn cơn gây ra nỗi đau khổ của người phụ nữ trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Đó là “thím Tường Lâm trong Lễ cầu phúc suốt đời bị lễ giáo phong kiến buộc vào cổ” [13, 41]; chị Tư Thiền trong Ngày mai đau đớn vì “niềm vui duy nhất trong cuộc đời này là đứa con nhưng nó cũng rời bỏ chị mà đi, chị sống cô độc trong sự thờ ơ, ghẻ lạnh, tàn nhẫn của người đời” [13, 42]; cô Ái “một cô gái mạnh mẽ, có tinh thần phản kháng nhưng chưa có sự đoàn kết của tập thể nên đấu tranh của cô trở thành cô độc, lạc lõng giữa dòng đời đầy bon chen” [13,43]. Bên cạnh đó, luận văn còn khai thác về đề tài người phụ nữ trí thức tập trung qua nhân vật Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất: “Tử Quân là một phụ nữ có học thức, hiểu biết, cô kiên quyết đấu tranh đòi tự do hôn nhân” [13, 62]. Khoá luận đã đề cập đến hình ảnh những người phụ nữ lao động và phụ nữ trí thức nhưng chưa đi sâu cụ thể vào đặc điểm tính cách chung, đặc điểm tính cách riêng của người phụ nữ. Từ những tư liệu trên cho thấy, những công trình nghiên cứu về truyện ngắn Lỗ Tấn thì rất nhiều, tuy nhiên chưa có một công trình riêng nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Chúng tôi chọn đề tài “ Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn (qua hai tập “Gào thét” và “Bàng hoàng”)”. Trong quá trình triển khai đề tài chúng tôi sẽ tiếp thu có chọn lọc ý kiến của các thế hệ đi trước. 3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Khoá luận nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn qua hai tập “Gào thét” và “Bàng hoàng”. 5 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Khoá luận chỉ ra những đặc điểm tính cách của người phụ nữ và nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn, qua đó nêu bật tài năng sáng tạo nghệ thuật của tác giả Lỗ Tấn. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khảo sát văn bản: Chúng tôi dựa vào việc khảo sát văn bản để tìm ra những dẫn chứng làm sáng tỏ những nhận định, đánh giá trong đề tài. Thống kê, phân loại những chi tiết để làm sáng rõ tính cách của người phụ nữ cũng như nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Phương pháp phân tích nhân vật: Để làm nổi bật những đặc điểm tính cách của nhân vật và những biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật đó. Phương pháp so sánh: So sánh người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn với người phụ nữ trong các tác phẩm văn học của các nhà nhà văn khác trong và ngoài nước Trung Quốc. 5. Đóng góp của khoá luận Khoá luận đã chỉ ra được những đặc điểm tính cách chung, đặc điểm tính cách riêng và nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. 6. Cấu trúc khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc của khoá luận gồm hai chương như sau: Chương 1. Đặc điểm tính cách người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Chương 2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. 6 CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM TÍNH CÁCH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tài, với nhiều bút danh như Lỗ Tấn, Thân Phi, Đường Sỹ, Ba Nhân… Ông sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 ở phường Đông Xương, phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, trong gia đình sĩ đại phu phong kiến sa sút. Ông nội là Chu Phúc Thanh (tự là Giới Phù) đỗ tiến sĩ đời Thanh, có chân trong viện Hàn Lâm. Cha ông là Chu Phượng Nghi (tự là Bá Nghi) học đến tú tài nhưng không ra làm quan. Mẹ ông là Lỗ Thuỵ, bà tự học đến trình độ có thể xem được sách, tính tình bà hiền hậu, thương yêu con cái và tiếp thu tư tưởng mới. Bà có ảnh hưởng rất lớn đến Lỗ Tấn, bút danh Lỗ Tấn ông lấy từ họ mẹ. Ngày 19 tháng 10 năm 1936 Lỗ Tấn qua đời sau một thời gian lâm bệnh nặng. Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: Truyện ngắn, thơ cổ, thơ mới, kịch, tạp văn, khảo cứu, nghị luận, phê bình, dịch thuật… Nội dung sáng tác bao quát một phạm vi rộng lớn, một hệ thống tư tưởng dồi dào, rành mạch, gói gọn trong một phong cách nghệ thuật độc đáo, sáng sủa, nhiều màu sắc. Trong số đó, truyện ngắn và tạp văn là đặc sắc hơn cả. Khi xây dựng hình tượng người phụ nữ Lỗ Tấn chú ý chỉ ra những đặc điểm tính cách của họ. Trong chương này chúng tôi sẽ nêu khái quát những vấn đề lí luận về nhân vật văn học, tính cách nhân vật và chỉ ra những đặc điểm tính cách chung và riêng của người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. 1.1. Nhân vật văn học và tính cách nhân vật 1.1.1. Nhân vật văn học Con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học. Dù tác phẩm tự sự, trữ tình hay kịch, dù gián tiếp hay trực tiếp thì văn học đều miêu tả con người. Nhân vật văn học là “con người được miêu tả trong văn học bằng các phương tiện văn học” [10, 277]. Đó có thể là những con người được miêu tả đầy đặn về ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, có tiểu sử như thường thấy trong tác phẩm tự sự và kịch. Đó có thể là con người thiếu hẳn những nét đó nhưng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Nhân vật văn học được biểu hiện bằng phương tiện văn học. “Trong thơ trữ tình, ta có nhân vật trữ tình, tức con người xuất hiện để tự bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống. Đó là con người mang hình thức vô danh, tự bộc lộ mình bằng cảm 7 xúc, ý nghĩ cái nhìn bằng chính thế giới nội cảm. Trong tác phẩm kịch, nhân vật là những con người bộc lộ mình qua hành động và lời nói của chính mình hoặc tự vạch mặt mình” [24, 27]. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không đồng nhất với con người có thật. Nhân vật văn học khác với nhân vật trong hội họa, điêu khắc, bộc lộ trong hành động và quá trình. Nhân vật văn học có tính hình tuyến (diễn ra trong thời gian từ đầu đến cuối), đồng hiện. Nó luôn hứa hẹn những điều chưa biết trong quá trình giao tiếp. Đồng thời nhân vật văn học còn mang tính hồi cố, bởi vì mỗi bước phát triển đều làm nhớ lại công thức nhận biết ban đầu, đều làm nó sâu thêm, hoặc điều chỉnh cho xác đáng, nhưng không bao giờ bỏ quên hay xa rời cái chuẩn mực ban đầu. Ví dụ như nhân vật Chí Phèo trong Chí Phèo của Nam Cao từ đầu là một con người hiền lành, lương thiện dù tính cách có bị biến đổi vì hoàn cảnh nhưng cuối cùng cái bản tính ban đầu vẫn trở về trong con người Chí khi Chí vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lại lương thiện cái mà Bá Kiến đã cướp đi của Chí, biến Chí thành con quỷ của làng Vũ Đại. Thực tiễn sáng tác, phê bình và nghiên cứu văn học đã nêu lên kiểu và loại nhân vật văn học tương ứng với những dấu hiệu phân loại khác nhau. Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho phép nêu lên những biểu tượng văn học như: Văn học về “con người nhỏ bé”, về “con người thừa”, văn học về “thế hệ mất mát”… Những nhân vật văn học trở nên nổi tiếng thế giới chính là những hình tượng vĩnh cửu như Asin, Uylixo, Acpagong… trong văn học thế giới. 1.1.2. Tính cách nhân vật Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các nhân vật đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng. Tính cách, trong ý nghĩa rộng nhất, chung nhất là “sự thể hiện các phẩm chất xã hội lịch sử của con người qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm chất tâm sinh lí của họ” [10, 279]. Tính cách có một hạt nhân là sự thống nhất của cá tính và cái chung xã hội lịch sử. Nhưng người ta chỉ gọi là tính cách những người mà sự thống nhất kia biểu hiện một cách nổi bật các phẩm chất xã hội, lịch sử của nó. Tính cách ấy là hiện tượng nổi bật của đời sống con người. Trong Nghệ thuật thơ ca, Arixtôt viết: “Tôi hiểu tính cách là lí do mà chúng ta gọi nhân vật bằng một cái tên nào đó”, “nhân vật sẽ là có tính cách nếu trong lời nói hay hành động bộc lộ một khuynh hướng hay ý chí nào đó, bất kể nó tốt 8 hay xấu như thế nào” [DT 10, 279]. Trong các ý kiến đó, ta thấy tính cách được hiểu như là đặc điểm của nhân vật, khuynh hướng xã hội, quy luật hành động của nhân vật. Đó là nhận thức chung về tính cách như là nội dung của mọi nhân vật văn học. Chẳng hạn tính cách nhút nhát và cả tin của A Thuận; tính cách mạnh mẽ của Giamilia; tính xảo trá, lọc lừa của Xuân Tóc Đỏ… Tính chung (hay tính khái quát, tính phổ biến) của tính cách là sự tổng hợp và nâng cao những nét tiêu biểu có ở nhiều người cùng một nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, giai cấp… Với những nét tính cách đó, trong những biểu hiện ấy, tính chung về giai cấp là quan trọng nhất, vì nó quyết định bản chất xã hội của tính cách. Như tính chung của những người dân Xô man là hiền lành, dũng cảm, gan dạ, có lòng căm thù giặc sâu sắc… (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành). Tính chung luôn có mối quan hệ mật thiết với tính riêng, bởi suy đến cùng tính cách chính là sự biểu hiện cái chung qua cái riêng. Tính riêng (hay tính cụ thể, tính cá biệt) của tính cách là tập hợp của những nét bền vững và độc đáo, làm cho nó phân biệt rõ ràng với những tính cách khác về hình thể, tính tình, tâm lí, phương thức hành động… Trong đó tính chất cá biệt của trạng thái tâm lí là quan trọng nhất vì nó quyết định bản sắc cá nhân của tính cách. Tính cách keo kiệt, bủn xỉn của Grăngđê; tính thương người, bao dung của Giăng-Van-Giăng; tính ích kỷ của Hoàng… Trong nghiên cứu văn học, thuật ngữ tính cách văn học có khi được dùng để chỉ một kiểu nhân vật, phân biệt với nhân vật loại hình, nhân vật mặt nạ… Còn thuật ngữ tính cách lại có thể dùng để chỉ đối tượng phản ánh của văn học. Việc chú ý miêu tả tính cách là điểm đánh dấu văn học, như một nghệ thuật tách ra khỏi loại hình tác phẩm ngôn từ nguyên hợp. Vận dụng nguyên tắc đó Lỗ Tấn đã xây dựng nhân vật của mình hết sức đa dạng và sống động về tính cách, ở cả những đặc điểm tính cách chung và đặc điểm tính cách riêng. 1.2. Đặc điểm tính cách người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn Trong truyện ngắn của mình Lỗ Tấn thể hiện người phụ nữ vừa ở những nét tính cách chung, nhưng đồng thời mỗi nhân vật đều mang trong mình những nét tính cách riêng, không trộn lẫn với nhân vật nào khác. 1.2.1. Đặc điểm tính cách chung Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tẫn thường là những con người khổ đau, họ phải chịu nhiều tủi nhục về tinh thần, nhưng họ là những con người luôn khát khao hạnh phúc, biết phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi của mình đồng thời luôn day dứt, đau khổ. 9 1.2.1.1. Khát khao hạnh phúc Người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn là những con người bị áp bức, đè nén, bị lễ giáo phong kiến trói buộc. Lễ giáo phong kiến như một bức tường thành cao, dày bủa vây lấy người người phụ nữ, không có cánh cổng nào để thoát ra ngoài và những người phụ nữ yếu ớt đó cũng không đủ sức leo qua bức tường đó. Tuy bị lễ giáo phong kiến ràng buộc nhưng họ là những con người có khát vọng yêu đương, hôn nhân, gia đình, luôn vươn lên để có được niềm hạnh phúc mà họ mong muốn đó là một gia đình êm ấm, một cuộc sống bình thường, làm tròn bổn phận, thiên chức của một người phụ nữ. Thím Tường Lâm trong tác phẩm Lễ cầu phúc là một người đàn bà bất hạnh bị lễ giáo phong kiến, thần quyền bao vây mà không thể thoát được, luẩn quẩn trong cái vòng ấy mãi. Chế độ phong kiến tàn ác đã giết chết tâm hồn thím. Là một người phụ nữ goá chồng, thím trốn khỏi gia đình chồng tàn nhẫn để đi ở kiếm sống. Thím những mong đem sức lao động của mình để đổi lấy một cuộc sống tối thiểu, điều mong ước ấy đâu có cao xa, ảo tưởng: “Ngày tháng trôi qua rất nhanh. Công việc thím không hề bê trễ, ăn gì xong bữa thì thôi. Đã làm thì làm cật lực không suy tính thiệt hơn. Ai cũng khen nhà ông Tư nuôi được người ở gái siêng năng, lanh lẹn hơn cả đàn ông nữa. Công việc cuối năm một mình thím đảm đương hết, nào là quét dọn, lau nền nhà, giết gà, mổ ngỗng, thức suốt đêm nấu nướng sửa soạn lễ cầu phúc chẳng phải thuê mướn ai thêm. Thế nhưng thím lại lấy rất làm hể hả, trên môi thoáng thấy có nụ cười, và mặt mày cũng béo trắng ra” [18, 214]. Nhưng cái mong muốn nhỏ nhoi, tội nghiệp đó cũng bị phá vỡ. Như một con vật, thím lại bị bà mẹ chồng bắt về gả bán cho một anh trên miền núi “bà ta nhận lời gả cho anh Sáu, người bên Hạ Gia Úc” [18, 217]. Rồi người chồng thứ hai lại chết, con bị chó sói ăn thịt, anh chồng đến đuổi chị ra khỏi nhà để cướp nhà, cướp đất đai “ai có ngờ được. Bây giờ thím ta một thân, một mình trơ trọi. Ông anh chồng đến đòi nhà đuổi thím ta đi” [18, 219]. Tuy cuộc sống khổ cực đày ải thím nhưng thím Tường Lâm vẫn không thôi khao khát hạnh phúc. Qua hai đời chồng, thím cũng mong mỏi một gia đình hạnh phúc yên ấm, nhưng số phận không như người ta mong muốn, chồng chết khi thím còn trẻ, niềm hạnh phúc chưa được trọn vẹn, chưa kịp làm mẹ thím đã phải chịu đựng những mất mát đau khổ. Khi bị bắt lấy người chồng thứ hai dù thím có chống trả quyết liệt, nhưng sau cũng bằng lòng. Thật sự trong thâm tâm người phụ nữ nào cũng mong muốn tìm cho mình một điểm tựa, một bờ 10 vai vững chắc, một người bao bọc, có một cuộc sống bình yên, ấm áp bên gia đình của mình. Khi thím sinh được một người con trai, và được người chồng cũng là người chăm chỉ làm ăn thì dường như hạnh phúc đã mỉm cười với thím: “Cuối năm thím ta đẻ một thằng con trai… gặp hai mẹ con mẹ cũng béo mà con cũng béo. Anh chồng thì khoẻ như trâu, biết làm ăn. Cũng có một căn nhà riêng hẳn hoi” [18, 219]. Niềm khát khao của một người phụ nữ chỉ có thế thôi, một gia đình yên ấm hạnh phúc bên chồng, bên con, được làm vợ, làm mẹ đúng nghĩa. Bên cạnh thím Tường Lâm, cô Ái trong Ly hôn cũng là một người phụ nữ có số phận không may mắn, lấy chồng, người chồng có thói quen trăng hoa đi theo một người đàn bà khác ruồng rẫy cô. Bị ruồng rẫy cô càng khao khát hạnh phúc, khao khát đòi quyền lợi lẽ phải. Cô quyết tâm đi tìm lẽ công bằng cho cuộc hôn nhân của mình, cô vẫn muốn níu giữ hạnh phúc “đánh nhau bao nhiêu bận rồi lại làm lành với nhau bao nhiêu bận” [18, 374] nhưng cuối cùng cũng không xong. Có lẽ dù biết sẽ mất chồng, nhưng chút hạnh phúc, chút tình cảm cuối cùng của cô với chồng cô cũng muốn cho chồng thấy, tận sâu trong thâm tâm cô vẫn khát khao về một gia đình thật sự, một mái ấm bình yên. Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất là một nữ sinh tắm mình trong không khí sôi nổi của thời kì Ngũ Tứ với những tư tưởng mới mẻ, cô khát khao đi tìm hạnh phúc với tình yêu xuất phát từ đôi bên chứ không phải áp đặt theo kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Cô và Quyên Sinh yêu nhau, cô bỏ nhà ra đi với Quyên Sinh cùng nhau tự tạo lập một gia đình riêng với tình yêu hai người dành cho nhau. Khi nhận lời cầu hôn của Quyên Sinh thì Tử Quân “ngây thơ như mắt trẻ con, ánh lên một niềm vui mừng lẫn lộn buồn thương, trong đó lại có sự ngạc nhiên, sự nghi hoặc nữa” [18, 335]. Niềm hạnh phúc thật sự, niềm hạnh phúc khát khao có được giờ nằm trong tầm tay làm con người ta bỗng dưng hồn nhiên như đứa trẻ. Có một gia đình rồi Tử Quân vun vén, bồi đắp cho tình yêu và làm một người vợ đảm đang “tuy không có tài về khoa nấu nướng, nhưng nàng làm hết lòng, hết sức… suốt ngày mồ hôi đầm đìa, tóc cứ dính bết vào trán và hai bàn tay thì ngày càng thô ráp đi” [18, 399]. Đây là những việc mà một người phụ nữ, một người vợ có thể làm để vun vén, chăm sóc cho người chồng, cho tổ ấm của mình. Những việc bình thường vụn vặt nhưng cũng chứa đựng tình yêu lớn lao trong đó. Chị Tư Thiền trong Ngày mai goá chồng, một mình nuôi con, cũng như bao người phụ nữ khác, chị muốn có một chỗ dựa. Đặc biệt là khi con chị ốm đau, một mình ôm con chờ trời sáng “người khác thì thấy chóng, nhưng chị thì 11 thấy sao mà lâu thế” [18, 51]. Có lẽ vì một mình không ai chia sẻ cùng, nên chị càng nóng ruột, càng lo lắng hơn, giá như chồng chị còn sống thì chị sẽ không vất vả thế, lúc này chị càng khao khát một gia đình trọn vẹn hơn bao giờ hết. Lúc bế con đi chữa bệnh về mệt quá, chị “ rất mong mỏi có một vị thiên tướng nào trên trời sai xuống giúp chị một tay” [18, 53], nhưng thực ra “vị thiên tướng” mà chị mong mỏi ấy chính là một người đàn ông, một người chồng có thể chèo chống, giúp đỡ, che chở cho chị và con trong những lúc ốm đau bệnh tật, san sẻ bớt nỗi lo cho chị. Khao khát của người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn thực ra cũng đơn giản, một gia đình thực sự hạnh phúc nhưng dường như nó quá cao sang, xa vời với họ. A Thuận trong Trong quán rượu là một cô bé mới lớn, cũng biết khao khát hạnh phúc, cái cô bé muốn chỉ là một cái “nơ nhung”. Cái “nơ nhung” không chỉ đơn thuần là một đồ trang sức đối với cô gái mà còn ẩn chứa trong đó nhiều ý nghĩa. Cô rất thích một chiếc nơ nhung màu đỏ nhưng không được “cũng muốn có một cái, nhưng không làm sao có được” [18, 236]. Người Trung Quốc vốn có quan niệm màu đỏ là màu của hạnh phúc, của sự may mắn. Hình ảnh chiếc nơ nhung màu đỏ là biểu tượng cho ước mơ, khát vọng của cô bé tội nghiệp về một cái gì đó thật tốt đẹp, thật hạnh phúc. Chỉ một vật nhỏ nhoi thế thôi cũng nằm ngoài tầm tay của cô bé: “Thứ “nơ” nhung đó thì các tỉnh miền Bắc mới có chứ ở thành S tìm đâu ra; con bé muốn có thì có làm sao được” [18, 236]. Hạnh phúc luôn nằm ngoài tầm tay của A Thuận. Cô vất vả khổ sở từ bé, không dám đòi hỏi điều gì, ốm nặng cũng giấu bố. Có một người chồng chưa cưới, đó cũng là một niềm hạnh phúc mà cô mong mỏi, nhưng người chồng đó như thế nào, cô cũng không biết “xấu hổ không dám hỏi ai” [18, 239]. Qua việc không có được chiếc nơ nhung đó càng thấy cô bé mơ ước, khát khao hạnh phúc như thế nào. Đến khi chiếc nơ nhung được mang về cho cô bé thì đã muộn, cô bé đã chết, hạnh phúc, ước mơ trở thành vô nghĩa. Con người ta lúc sống thì luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, thậm chí cả những điều ngoài tầm tay của mình. Điều trớ trêu là khi hạnh phúc đến thì tất cả lại trở nên vô nghĩa. Trong truyện ngắn Lỗ Tấn dường như gia đình, hạnh phúc là điều mà người phụ nữ không bao giờ có được trọn vẹn nên họ luôn khát khao và mong ước. Là con người không ai là không khát khao một niềm hạnh phúc, đặc biệt với những người phụ nữ phải chịu bao nhiêu áp bức, bất công, chịu bao nhiêu tủi hổ. Họ chỉ mong muốn có một mái ấm gia đình, một người chồng, một người yêu thương, chở che cho mình. Nhưng dường như càng bất công hơn khi những 12 ước muốn đó cũng bị từ chối và họ phải sống âm thầm, lặng lẽ, mang theo bên mình bao nỗi tủi thân, mặc cảm và khát khao. Hình tượng người phụ nữ khát khao hạnh phúc không chỉ được đề cập tới trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Trong văn học Nga ta bắt gặp một Giamilia trong Giamilia của Ts. Aitmatop mặc dù đã có chồng nhưng cuộc sống không hạnh phúc, đến khi gặp Đaniyar tình yêu trong nàng trỗi dậy, nàng khát khao một hạnh phúc thật sự, nàng đã cùng Đaniyar bỏ trốn “anh Đaniyar, em đã đến, chính em đã đến với anh” [1, 92], “mặc cho thiên hạ nói gì thì nói” [1, 93]. Giamilia khát khao hạnh phúc, dám kiếm tìm hạnh phúc và vượt lên trên tất cả để có được hạnh phúc đó. Qua ngòi bút của Lỗ Tấn, những khát khao hạnh phúc của người phụ nữ hiện lên một cách giản dị nhưng thiết tha, gợi lên trong lòng người đọc bao nỗi cảm thương về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Qua những khát khao tưởng như nhỏ bé đó, tác giả lên án, tố cáo những hủ tục phong kiến vẫn còn đè nặng lên vai người phụ nữ không cho họ được hưởng một chút hạnh phúc nào dù đó là điều họ xứng đáng được hưởng. 1.2.1.2. Có tinh thần phản kháng Phải chịu nhiều tủi nhục, ngang trái, nhiều bất công đè nén trong cuộc đời, người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn không chỉ khát khao hạnh phúc mà còn biết phản kháng, biết đứng dậy đấu tranh để giành hạnh phúc, giành quyền sống chính đáng cho mình. Thím Tường Lâm trong truyện Lễ cầu phúc lấy chồng, chồng chết, ở với bà mẹ chồng cay nghiệt, không chịu được cuộc sống đó, thím đã bỏ nhà đi làm thuê, những mong kiếm được công việc nuôi thân và thoát khỏi bà mẹ cay nghiệt “thím ở nhà còn có bà mẹ chồng cay nghiệt lắm” [18, 214]. Việc thím bỏ nhà đi làm thuê đã cho thấy thím đã có ý thức đấu tranh, tự tìm cho mình một lối thoát, một con đường sống, thím không cam chịu cuộc sống đày đoạ, khổ sở thế mãi. Khi bị bắt về để gả cho người khác thím “khóc và la lên mấy tiếng” [18, 215], thím đã vùng vẫy cố mong có ai đó nghe và cứu mình, thím sợ một cuộc sống lặp lại như cũ với bà mẹ chồng cay nghiệt. Khi bị gả cho người khác thím phản kháng kịch liệt: “Thím ta làm giữ lắm cơ… suốt dọc đường cứ la hét, chửi bới ầm ỹ lên, lúc về đến Hạ Gia Úc thì khản tịt cả cổ. Lôi ra khỏi kiệu, hai người đàn ông và chú em nữa ra sức kìm giữ thím ta lại, mà thím ta cũng chẳng chịu lễ bái cho ra trò, vừa sơ ý, hở tay ra một cái; là ối giời ơi, a di đà phật, thím ta đập đầu ngay vào góc hương án rồi, thủng một lỗ sâu hoáy, máu tươi vọt ra, 13 phải lấy hai nắm tàn nhang dịt vào, rồi lấy hai vuông vải điều buộc chặt lại mà vẫn không cầm nổi. Mãi đến khi mỗi người một tay xúm lại vực thím ta vào trong buồng với chồng, rồi khoá trái lại mà thím ta vẫn chửi” [18, 218]. Sự phản kháng của thím Tường Lâm tuy là sự phản kháng tiêu cực, tìm đến cái chết nhưng dù sao ý thức phản kháng, chống lại sự ép buộc cũng đã hình thành trong đầu thím. Phản kháng để thoát khỏi sự sắp đặt của người khác, phản kháng để không làm trái với lễ giáo phong kiến. Trong truyện Ly hôn cô Ái là một người phụ nữ mạnh mẽ, dám thách thức cả lễ giáo phong kiến để giành lại công bằng, để tìm lại hạnh phúc cho mình, cô đã nhiều lần đi kiện chồng và gia đình chồng. Sự đấu tranh của cô Ái là đấu tranh cho mình, nhằm cứu vớt danh dự cho bản thân khi bị chồng ruồng bỏ phũ phàng: “Anh nghĩ xem, thằng chó ấy nó mê một con đàn bà goá thế là nó bỏ tôi. Tưởng dễ lắm đấy” [18, 374]. Hành động đi kiện của cô Ái cho ta thấy trong tư tưởng của cô, ý thức phản kháng đã hình thành, cô không chấp nhận bị coi thường, không cam chịu sự ruồng rẫy của người chồng có cưới xin đàng hoàng “về làm dâu nhà hắn có cưới xin hẳn hoi, kiệu hoa đến rước chứ có phải... Đã dễ mà rẫy ra được” [18, 380]. Cô muốn giãi bày những uất ức mà cô phải chịu đựng cho người khác hiểu, thanh minh cho mình, không phải lỗi do mình mà bị chồng bỏ rơi, cô cũng mong nhận được sự thông cảm của người đời, tránh sự khinh bỉ của những người xung quanh với hoàn cảnh của mình. Cô rất kiên quyết: “Thế thì cháu sẽ liều mạng, cùng khuynh gia bại sản luôn thể” [18, 381]. Sự hăm hở, kiên quyết của cô cho thấy ý thức phản kháng mạnh mẽ, niềm tin lớn lao vào sự phản kháng đó. Cô vừa hi vọng vừa tin chắc rằng mình sẽ đòi lại được công bằng cho bản thân và gia đình. Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất là một nữ sinh của thời đại mới, với những tư tưởng mới, cô không chịu ép mình trong lễ giáo phong kiến, mà vươn mình tới những tư tưởng phóng khoáng hơn, đứng lên đấu tranh, tìm hạnh phúc cá nhân và một cuộc sống mới. Việc bỏ nhà ra đi và sống cuộc sống vợ chồng với Quyên Sinh đã khẳng định được bản lĩnh cũng như sự thách thức và phản kháng của cô với xã hội. Cô kiêu hãnh tuyên bố: “Người em là của em, không ai có quyền can thiệp vào đời em cả” [18, 333]. Cô chống lại cả bề dày lịch sử, sống với cái tôi cá tính của mình, hiểu rõ những gì mình nói và hành động, dường như “trong óc nàng niềm tin tưởng triệt để đó kể còn dứt khoát mạnh mẽ” [18, 334]. Trước những ánh mắt “tò mò, chế nhạo, đểu cáng, khinh bỉ” [18,336] của những người xung quanh cô vẫn thản nhiên “bất chấp tất cả, không thèm bận lòng vì những điều ấy, cứ khoan thai bình tĩnh bước tới, thản nhiên như đi giữa chốn không người” [18, 336]. Sự phản kháng của Tử Quân còn thể hiện ở việc 14 “nàng đã to tiếng với ông chú đến nỗi ông chú giận, không nhận nàng là cháu nữa” [18, 337]. Để tìm được hạnh phúc của mình, để được sống là chính mình, cô bất chấp tất cả, bỏ nhà ra đi, từ bỏ mọi thứ thuộc gia đình của mình. Đó là sự phản kháng kiên quyết, mãnh liệt của Tử Quân. Ở nước ta, đề tài người phụ nữ được phản ánh xuyên suốt tiến trình của văn học. Nhìn chung, họ đều là những người phụ nữ chịu thương, chịu khó, giàu lòng vị tha, họ cũng chịu nhiều bất hạnh trong cuộc đời, cũng bị những tư tưởng phong kiến lạc hậu trói buộc và đâu đó vẫn có những con người có tư tưởng phản kháng, đứng lên chống lại các thế lực áp bức, đứng lên giải thoát cho mình để tìm cho mình một cuộc sống mới. Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một người phụ nữ chịu thương, chịu khó, chăm chỉ làm ăn. Nhưng số phận của chị vẫn long đong lận đận, gặp nhiều oan trái, hết nạn nọ đến nạn kia vì sự đè nén áp bức của thế lực thống trị ở nông thôn. Ở chị cũng có tinh thần phản kháng chống lại thế lực thống trị khi bị chúng áp bức quá đáng “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem” [20, 295]. Lời nói của chị như một lời thách thức đối với bọn phong kiến tay sai chà đạp con người. Ở chị Dậu không chỉ ánh lên với vẻ đẹp của người mẹ, người vợ đảm đang tháo vát, yêu chồng, thương con mà chị còn ánh lên với phẩm chất của người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh. Mặc dù đang rất cần tiền để cứu chồng nhưng chị không chịu bán rẻ nhân phẩm của mình cho bọn quyền thế. Hành động ném tiền vào mặt tri phủ Tư Ân và vùng ra ngoài đêm tối khi bị ông quan trên tám mươi tuổi sàm sỡ đã phản ánh sự đấu tranh quyết liệt của chị Dậu. Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, cũng là một phụ nữ có số phận không may mắn, chịu món nợ truyền kiếp cho cha mẹ và cô cũng bị sợi dây phong kiến, thần quyền siết chặt: mình đã cúng ma nhà nó chứ người kia tội tình gì mà chết ở đây. Cô đã đứng dậy phản kháng, cắt dây trói cho A Phủ và cũng chính là cắt sợi dây thần quyền trói buộc cô bấy lâu nay, giải thoát cho mình đi tìm một cuộc sống mới. Trong sáng tác của nhóm “Tự Lực văn đoàn”, để đấu tranh cho quyền sống, quyền bình đẳng của người phụ nữ, nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt đã phản ứng gay gắt với mẹ chồng:“Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi, bà cũng là người, tôi cũng là người” [8, 143], cô đã dũng cảm và mạnh mẽ đứng dậy đấu tranh để được giải phóng, không chịu sự ràng buộc của bất kì một luật lệ, một quan niệm nào. Sự phản kháng của người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn không có một kết thúc như mong muốn là do sự hiểu biết chưa rõ ràng về những việc họ làm, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất