Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ nôm tày...

Tài liệu Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ nôm tày

.PDF
96
131
103

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG HẢO HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Thu Trang THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này được cá nhân tôi thực hiện. Mọi kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Hảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Luận văn là một phần kết quả nghiên cứu của dự án “Những vấn đề cấp bách về bảo tồn và phát huy các giá trị văn học cổ truyền dân tộc thiểu số Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển” (Ủy ban Dân tộc là cơ quan chủ quan, Viện NCXH và NVNM là cơ quan chủ trì, TS Trần Thị Ngọc Anh chủ nhiệm), mã số CTDT.30.17/16-20. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Ngô Thị Thu Trang - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi về tri thức, phương pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa học này. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Hảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC .......................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2 2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm ..................................................... 2 2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày .............................................. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................... 7 3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 7 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8 4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 8 4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 8 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 8 6. Đóng góp mới của luận văn ......................................................................... 9 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN .................................................................................................... 10 1.1. Các khái niệm ......................................................................................... 10 1.1.1. Truyện thơ Nôm Tày ....................................................................... 10 1.1.2. Hình tượng văn học .......................................................................... 12 1.2. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày .......................................................... 13 1.3. Vài nét về văn hóa dân tộc Tày............................................................... 15 1.4. Đôi nét về hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam ..... 19 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................................................... 27 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 2.1. Người phụ nữ đẹp và có xuất thân quyền quý, huyền ảo ....................... 27 2.1.1. Người phụ nữ xuất thân quyền quý và huyền ảo ............................. 27 2.1.2. Người phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp ............................................. 32 2.2. Người phụ nữ có khát vọng yêu đương mãnh liệt và luôn chủ động trong tình yêu, hôn nhân ................................................................................ 37 2.3. Người phụ nữ nhân hậu, đảm đang, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức hy sinh ............................................................................................................ 41 2.4. Người phụ nữ trí tuệ, giàu bản lĩnh luôn nỗ lực vượt lên trên nghịch cảnh để vươn tới hạnh phúc ........................................................................... 60 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................... 70 3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ................................................................... 70 3.1.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật............................................................. 70 3.1.2. Miêu tả nội tâm nhân vật.................................................................. 73 3.2. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................. 76 3.2.1. Ngôn ngữ của người phụ nữ ............................................................ 77 3.2.2. Ngôn ngữ của những nhân vật khác................................................. 79 3.3. Biện pháp nghệ thuật so sánh ................................................................. 80 KẾT LUẬN....................................................................................................... 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 88 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hình thành và phát triển song hành với các loại hình văn học khác. Bằng góc nhìn của mình, các tác giả người dân tộc thiểu số đã tái hiện một cách chân thực và độc đáo những giá trị đời sống của đồng bào dân tộc, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá và mơ ước của họ trong từng thời kì. Đó chính là một trong những kho vàng lịch sử kí thác bằng ngôn ngữ nghệ thuật được gìn giữ và lưu truyền. Tác giả Vũ Anh Tuấn đã có nhận xét: “Văn học của các thành phần dân tộc ít người ở Việt Nam nói chung cũng như văn học truyền thống của đồng bào Tày là một di sản có vị trí quan trọng vào bậc nhất trong lĩnh vực truyền thống văn hóa tinh thần tộc người, hợp thành toàn bộ nền văn hóa tinh thần dân tộc thống nhất trong đa dạng” [42, 239]. Văn học các dân tộc thiểu số nói chung, văn học dân tộc Tày nói riêng đã góp phần làm phong phú và đa dạng hơn các giá trị của nền văn học dân tộc. Trong kho tàng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam, truyện thơ Nôm Tày là thể loại tiêu biểu và có nhiều thành tựu. Truyện thơ Nôm Tày là truyện thơ Nôm được sáng tác và đón nhận bởi đồng bào dân tộc Tày. Thể loại này không chỉ là những tác phẩm truyền miệng mang đậm sắc thái dân tộc mà còn được lưu truyền bởi hệ thống chữ viết riêng. Chữ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Tày là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa giữa người Tày với người Kinh. Dù một số tác phẩm vay mượn cốt truyện của văn học người Kinh như Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Tử - Ngọc Hoa… nhưng các tác giả cũng thổi vào tác phẩm một luồng gió mới lạ. Truyện thơ Nôm bởi thế cũng là một trong những thể loại mang tính chất trụ cột của văn học trung đại dân tộc Tày. Hình tượng người phụ nữ trong văn học là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều công trình bởi giá trị hiện thực và nhân văn mà nó đem lại. Đây là hình tượng trung tâm trong mọi thời đại văn học. Những tác phẩm kiệt xuất, những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn giá trị thẩm mĩ cao đẹp dường như đều dành để trân trọng đối tượng này. Bởi thế, có thể nói rằng, người phụ nữ chính là hình tượng đẹp đẽ, tiêu biểu cho nền văn học dân tộc. Do đó, nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ là một trong những việc làm nhằm phát hiện, lưu giữ lại những những giá trị nhân bản nhất của nền văn học dân tộc. Xuất phát từ những lí do trên cùng với việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã có, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Truyện thơ Nôm là thể loại nòng cốt của một giai đoạn trong văn học Việt Nam. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện thơ Nôm. Nhiều nhà nghiên cứu tập trung làm rõ những vấn đề chung về truyện thơ Nôm như: xác định thể loại, phân loại, chỉ ra nguồn gốc và quá trình phát triển, phương thức sáng tác... Có thể kể đến những công trình như Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX) của Nguyễn Lộc [18], Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh Lê [16], Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể loại của Kiều Thu Hoạch [7], Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam của Trần Đình Sử [35], Giảng văn văn học trung đại Việt Nam của Lã Nhâm Thìn [37]... Tác giả Nguyễn Lộc khẳng định: “Truyện Nôm là một thể loại khá độc đáo của văn học dân tộc” [18, 475] và đi sâu lí giải nguồn gốc truyện Nôm, phân biệt truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học, làm rõ nội dung xã hội, đặc điểm nghệ thuật của truyện Nôm bình dân... Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch đề cao việc nghiên cứu truyện Nôm trên phương diện phôn - klo: “Theo chúng tôi, truyện Nôm là một thể loại sinh thành và phát triển từ cội nguồn văn hóa dân gian thì việc tiếp cận nó từ góc độ fôn klo học phải được xem là một phương pháp luận khoa học đúng đắn nhất trong quá trình tìm hiểu và nhận diện nó” và nhấn mạnh: “... việc tìm hiểu truyện Nôm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn không thể chỉ dừng ở các văn bản tĩnh tại, mà còn cần thiết phải được nhìn nhận trong môi trường vận động của các sinh hoạt fôn - klo muôn màu muôn vẻ” [42, 378]. Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê cũng đã đề cập đến việc có nhiều ý kiến xung quanh thuật ngữ truyện Nôm: “Xung quanh một thuật ngữ định danh cho thể loại này cũng đã nảy sinh nhiều ý kiến. Nói chung, ý kiến phổ biến, thống nhất vẫn gọi loại tiểu thuyết văn vần này là Truyện Nôm. Cũng có ý kiến gọi là Truyện thơ và có trường hợp nêu lên “các tiểu thuyết dài có chương hồi(?)” viết bằng thể lục bát như Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều, Truyện Nhị độ mai, Truyện Lục vân Tiên... nên gọi là Truyện diễn ca...” [16, 54 - 55]. Những giá trị của truyện thơ Nôm cũng được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm để làm sáng tỏ những khía cạnh xoay quanh nội dung và nghệ thuật các tác phẩm thuộc thể loại này. Các tác phẩm được phân tích, bình luận, đánh giá một cách kĩ lưỡng về các phương diện nhân vật, ngôn ngữ, thời gian, không gian, thời điểm sáng tác ... Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành đối tượng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả. Cho đến nay, các tác phẩm truyện thơ Nôm vẫn đang tiếp tục được soi chiếu dưới góc độ của những lí thuyết nghiên cứu hiện đại, góp phần cung cấp thêm những góc nhìn mới về các tác phẩm. Và việc nghiên cứu các khía cạnh nội dung, nghệ thuật của từng tác phẩm cụ thể vẫn là công việc cần thiết. Về nhân vật người phụ nữ trong truyện Nôm, Nguyễn Lộc đưa ra nhận xét: “Một điều đáng chú ý nữa là truyện Nôm bình dân rất đề cao vai trò của người phụ nữ. Nếu so sánh người phụ nữ trong truyện Nôm bình dân với người phụ nữ trong tác phẩm văn học bác học, có thể thấy rất rõ người phụ nữ trong văn học bác học ít tính chủ động hơn nhiều... Nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm bình dân khác hẳn. Dù là nàng Cúc Hoa hay nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công, nàng công chúa trong truyện Hoàng Trừu, hay nàng Phương Hoa trong một truyện cùng tên, tất cả đều chủ động. Chủ động trong tình yêu, và chủ động trong việc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đối với các nhân vật phụ nữ trong truyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Nôm bình dân, hoàn cảnh dù éo le ngang trái đến đâu cũng không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần và ý chí đấu tranh của họ. Tư tưởng định mệnh, buông xuôi hầu như không có trong bất cứ một tác phẩm nào” [18, 486 - 487]. Như vậy có thể thấy, Truyện Nôm là thể loại văn học đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Người phụ nữ cũng là một hình tượng văn học nổi bật trong các truyện Nôm bình dân và đã được phân tích, đánh giá ở những góc độ nhất định. 2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Với sự phong phú về số lượng và sự hấp dẫn về mặt nội dung cũng như nghệ thuật, trong những năm qua truyện thơ Nôm Tày luôn nhận được sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu của nhiều học giả. Các tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư trong cuốn Văn hóa Tày Nùng [17] đã dành tâm huyết của mình để giới thiệu về Truyện thơ Nôm khuyết danh. Năm 1997, Lê Trường Phát bảo vệ thành công Luận án PTS. Khoa học Ngữ văn với đề tài “Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam”[31]. Trong công trình này tác giả cũng tập trung nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam về mặt kết cấu cốt truyện, nhân vật, một số phương diện ngôn ngữ ... Trong Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam [23], Phan Đăng Nhật chia truyện thơ các dân tộc ít người thành ba loại đề tài: truyện thơ về tình yêu, về sự nghèo khổ và về chính nghĩa. Tác giả đưa ra nhận định về nguồn gốc của truyện thơ (bắt nguồn từ dân ca và truyện kể), giá trị và sức hấp dẫn của truyện thơ (có khả năng diễn tả mọi tình cảm tinh vi, phức tạp, phương pháp kể truyện lý thú...), vai trò của truyện thơ (đánh dấu một bước phát triển cao của văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số). Từ những nghiên cứu của mình tác giả đưa ra nhận xét mang tính khái quát: “Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa các loại, thể văn học, đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát triển sau nó. Gần đây, một số bài thơ thể kể chuyện, các truyện thơ hiện đại, các thể truyện ký bằng văn xuôi của các tác giả dân tộc ít hoặc nhiều đều đã tiếp thu và phát huy những tinh hoa trong truyện thơ của dân tộc mình”[23, 209]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Võ Quang Nhơn trong Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam [24] đã căn cứ vào phương thức diễn xướng, lưu truyền và nguồn gốc kế thừa của truyện thơ các dân tộc để chia loại hình truyện thơ thành 4 nhóm sau: nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian; nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc; nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc; nhóm truyện thơ thiên về thuyết giáo đạo đức của truyện thơ Nôm Kinh. Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cũng đưa ra nhận định: “Truyện thơ một mặt kế thừa và phát triển truyền thống tự sự và trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một mặt tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ những sự kế thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và các trí thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian mới, với nội dung bề thế hơn về dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn. Ở một số dân tộc ít người, thể loại truyện thơ đánh dấu bước phát triển mới của văn học dân gian. Nó phản ảnh quá trình vận động, biến chuyển của văn học dân gian các dân tộc ít người, tiến tới tiếp cận và đi dần vào quỹ đạo của nền văn học thành văn của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam” [24; 450]. Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn đã có một công trình nghiên cứu quy mô và giàu giá trị cả về mặt lí luận và thực tiễn, đó là công trình Truyện thơ Tày Nguồn gốc - quá trình phát triển và thi pháp thể loại [42]. Công trình nghiên cứu một cách hệ thống về nguồn gốc thể loại truyện thơ Tày, trên cơ sở đó tác giả xác lập quá trình phát triển và phân tích thi pháp của thể loại truyện thơ Tày. Công trình này được giới nghiên cứu đánh giá cao bởi những đóng góp lớn lao của tác giả đối với nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ngoài những công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu còn có các bài viết trên tạp chí cũng đi vào khai thác các khía cạnh cụ thể của truyện thơ Nôm Tày. Có thể kể đến các bài viết như: “Đọc sách Nôm Tày Tần Chu” của tác giả Hiền Lương (Tạp chí Hán Nôm số 1/1989); “Về tác phẩm truyện thơ Tày - Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Nùng Lưu Đài - Hán Xuân” của Nguyễn Minh Tuân (Tạp chí Hán Nôm số 3/2004); “Tìm hiểu đôi nét về truyện thơ Nôm Tày - Nùng Toọng Tương” của tác giả Trần Thị Thu Hường (Tạp chí Hán Nôm số 3/2004); “Tìm hiểu yếu tố đạo giáo trong một số truyện thơ Nôm Tày – Nùng” của Nguyễn Minh Tuân (Tạp chí Hán Nôm số 1/2009)... Trong khoảng thời gian khá dài nhiều nhà nghiên cứu, nhiều trí thức người dân tộc Tày đã dày công sưu tầm, biên dịch và lần lượt giới thiệu các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày. Có thể kể đến những công trình như: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 6 do nhóm Nông Quốc Chấn, Hoàng Thao, Hà Văn Thơ biên soạn, Nxb Văn học xuất bản năm 1981; Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam do Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 1992; Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc, Tập 1 do Đặng Văn Lung, Trần Thị An biên soạn, Nxb Văn hóa dân tộc năm 1995; Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội năm 2000; Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2003; Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại do Triều Ân dịch, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2004; Tử thư - Văn Thậy do Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội năm 2005; Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 22 do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2008... Công việc sưu tầm, biên dịch và giới thiệu những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày vẫn đang được các thế hệ nối tiếp nhau thực hiện và ngày càng thu được nhiều thành quả đáng kể, giúp người đọc có cơ hội tiếp cận kho tàng quý giá này của đồng bào Tày một cách dễ dàng và đầy đủ hơn. Từ đó cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu bộ phận văn học đặc sắc và giàu giá trị này. Cho đến nay truyện thơ Nôm Tày vẫn đang được các nhà nghiên cứu quan tâm. Vấn đề sưu tầm các truyện thơ Nôm Tày và chuyển dịch sang tiếng Việt vẫn đang được coi trọng. Bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam (19 tập) do Viện nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm, biên dịch được xuất bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn trong thời gian gần đây đã góp phần giúp người đọc tiếp cận nhiều hơn với kho tàng truyện thơ Nôm Tày.... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ chủ yếu tập trung giới thiệu những vấn đề đặc trưng của thể loại chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. Đến nay, chưa có công trình nào đặt hình tượng này làm đối tượng nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày nhằm làm sáng tỏ một nội dung quan trọng và hấp dẫn của bộ phận văn học này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện hình tượng người phụ nữ trong một số tác phẩm truyện thơ Nôm Tày. Từ đó góp phần khẳng định vẻ đẹp và giá trị của hình tượng nghệ thuật này. - Khẳng định ý nghĩa của truyện thơ Nôm Tày trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc Tày. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan như: các khái niệm (truyện thơ Nôm, truyện thơ Nôm Tày, hình tượng văn học), khái quát một số nét về văn hóa Tày, hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại... - Thống kê, khảo sát, phân tích đặc điểm của các nhân vật nữ trong các tác phẩm, từ đó khái quát hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. - Phân tích các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong các tác phẩm nhằm làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là văn bản các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày trong bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam gồm 19 tập do Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm, biên dịch, Nxb Khoa học xã hội xuất bản từ năm 2008 đến năm 2018. Trong phạm vi có hạn của luận văn chúng tôi chỉ nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày như: Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa, Lưu Đài - Hán Xuân, Tạng Ba, Nàng Kim, Ngọc Long, Ngọc Sinh, Lưu Tương, Nho Hương, Tống Kim, Trần Bằng, Lý Kế Khanh. Đây là những tác phẩm mà trong đó hình tượng người phụ nữ được thể hiện một cách tập trung và rõ nét nhất. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tiếp cận liên ngành: Việc nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không chỉ thuộc lĩnh vực văn học mà còn liên quan đến những lĩnh vực khác như văn hóa học, dân tộc học, xã hội học... Vì thế trong quá trình tiếp cận các văn bản chúng tôi cần có phương pháp nghiên cứu liên ngành để đáp ứng được yêu cầu. - Phương pháp khảo sát, thống kê: Chúng tôi sử dụng phương pháp này khi tiếp cận từng đặc điểm cụ thể của đối tượng để có cái nhìn chi tiết, chính xác nhất trong quá trình trình bày kết quả nghiên cứu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp đi vào tiếp cận các tác phẩm truyện thơ Nôm ở cả hai phương diện nội dung và hình thức thể hiện. Từ đó, đưa ra những đặc điểm cụ thể của đối tượng nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn - Phương pháp so sánh: Phương pháp này được thực hiện khi so sánh hình tượng người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày với nhau và với người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Kinh. 6. Đóng góp mới của luận văn Nghiên cứu Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày, chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tương đối hệ thống và toàn diện về hình tượng người phụ nữ trong cái nhìn, cách phản ánh của tác giả đồng bào dân tộc Tày. Đồng thời, khẳng định những nét đặc sắc của hình tượng người phụ nữ trong văn học dân tộc thiểu số nói chung và trong truyện thơ Nôm Tày nói riêng. Từ đó, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của một bộ phận quan trọng trong nền văn học dân tộc. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn được triển khai qua 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan Chương 2: Đặc điểm hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Truyện thơ Nôm Tày Trong công trình của mình các nhà nghiên cứu đã dùng một số tên gọi như: truyện Nôm, truyện thơ Nôm, truyện thơ... và cũng đã đưa ra những quan niệm khác nhau. Theo Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX (Lại Nguyên Ân, NXB Giáo dục, 1999), truyện thơ Nôm là “một thể loại sáng tác tiếng Việt (chữ Nôm) thời trung đại, phát triển mạnh từ nửa sau thế kỉ XVIII và suốt thế kỉ XIX. Số lượng tác phẩm nay còn tìm được khoảng trên 100 truyện, tạo thành một bộ phận khá lớn của sáng tác tự sự (cả chữ Hán và chữ Nôm) ở thời trung đại Việt Nam” [1, 664]. Khi xác định những đặc điểm của thể loại, nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê cho rằng: “Truyện Nôm nằm trong hệ thống tác phẩm phản ánh cuộc sống bằng phương thức tự sự... - có nghĩa là phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh một nhân vật và trên cơ sở ấy, sự phát triển có tính chất hoàn chỉnh của một tính cách nhân vật... sử dụng ngôn ngữ văn tự dân tộc: chữ Nôm” [16, 55 - 56]. Trong cuốn Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại của tác giả Vũ Anh Tuấn có in bài viết “Truyện thơ” của nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật. Trong bài viết này Phan Đăng Nhật đưa ra quan niệm của mình về truyện thơ của dân tộc thiểu số (tương đương khái niệm truyện Nôm của người Kinh): “Văn học dân gian và các dân tộc nước ta (dân tộc đa số cũng như thiểu số) có nhu cầu sáng tạo và lưu truyền một loại hình thơ ca kể truyện dài hơi... Ở văn học Kinh, người ta gọi đó là truyện Nôm... Thực chất những tác phẩm được gọi là truyện Nôm (hoặc truyện Nôm bình dân) là những tác phẩm có tính chất tự sự diễn đạt bằng tiếng Việt, viết bằng chữ Nôm và đặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn biệt là hình thức thơ ca dài hơi. Do nhấn mạnh hình thức thơ ca nên có người đề nghị gọi là truyện thơ Nôm. ... Nếu ở người Kinh có truyện thơ Nôm thì ở các dân tộc thiểu số (DTTS) có một loại hình tương đương: truyện thơ. Đó là những tác phẩm tự sự dưới hình thức thơ ca. Ở các DTTS không cần phải phân biệt với tính bác học và hình thái ghi chép bằng chữ Hán. Các dân tộc thiểu số nước ta có một kho tàng truyện thơ phong phú...” [42; 399]. Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn thì cho rằng truyện thơ là “một loại văn học dân gian đã thành văn và mới chỉ đặc biệt phát triển trong vài ba thế kỉ trở lại đây” [42, 12]. Bên cạnh đó có thể kể đến những quan niệm về truyện thơ như: “Truyện thơ là thể loại phát triển cuối cùng và cũng là đỉnh cao của dân ca Tày... Truyện thơ là thể thơ đã có sự chặt chẽ về vần điệu, và với nghệ thuật của thể này, đó là một thể thơ độc đáo của dân tộc Tày. Về cách gieo vần chữ thứ bảy câu trên vần với chữ thứ năm câu dưới và cứ tiếp tục như thế với số chữ ổn định là bảy chữ, thích hợp với giọng kể chuyện, dễ nhớ cho người nghe, dễ đọc cho người kể” [42, 16]. Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật thì cho rằng truyện thơ là một lời hát dài và “Truyện Nôm miền xuôi cũng như truyện thơ miền núi, đều là bước nối giữa văn học dân gian và văn học thành văn, đều mang tính chất của cả hai loại hình nói trên” [42, 20]. Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cũng coi truyện thơ là “một dấu nối giữa văn học truyền miệng và văn học thành văn” và khẳng định truyện thơ ở nhóm truyện thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức “đã thể hiện khá rõ tính chất thành văn, tiếp cận với đặc điểm thi pháp của văn học bác học và đánh dấu một bước phát triển mới của văn học dân gian” [42, 20]. Như vậy, có thể khái quát như sau: Truyện thơ Nôm Tày là một trong số những thể loại của văn học dân tộc Tày, là dạng sáng tác thành văn của dân tộc Tày, là những tác phẩm có tính chất tự sự diễn đạt bằng thơ tiếng Tày, viết bằng chữ Nôm Tày. Các truyện thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn Nôm Tày không rõ tác giả, phổ biến qua con đường truyền miệng, chủ yếu được các trí thức bản tộc lưu giữ lại bằng cách chép tay. Nội dung của các truyện thơ Nôm Tày phản ánh hiện thực cuộc sống, tâm tư tình cảm, ước mơ khát vọng của người dân Tày. Các văn bản truyện thơ Nôm Tày thường dùng thể thơ bảy chữ, vần lưng (chữ thứ bảy cuối câu trước vần với chữ thứ năm của câu sau). 1.1.2. Hình tượng văn học Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra định nghĩa: “Hình tượng văn học là hình tượng nghệ thuật thể hiện bằng chất liệu ngôn từ nghệ thuật, hay còn gọi là nghệ thuật ngôn từ” [1; 149]. Chất liệu xây dựng nên những hình tượng này không phải là thực thể vật thể mà là một hệ thống kí hiệu, ngôn ngữ. Trong các công trình thuộc lĩnh vực Lí luận văn học như Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo dục, 2011), Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên, Nxb Giáo dục, 2002), các nhà nghiên cứu cũng đã lí giải về hình tượng văn học. Hình tượng văn học trước hết là hình tượng nghệ thuật. Nó chính là một chiếc cầu, một dấu gạch nối giữa tác giả - tác phẩm và người đọc. Người nghệ sĩ tạo ra tác phẩm văn học để thể hiện những nhận thức về đời sống, bộc lộ những suy nghĩ, đánh giá của mình về cuộc đời và cắt nghĩa các mối quan hệ xoay quanh chủ thể con người. Với bản chất là nghệ thuật ngôn từ, văn học không diễn đạt trực tiếp những ý nghĩ, tình cảm bằng định lí, công thức, bằng các khái niệm khô khan, trừu tượng mà đem đến cho độc giả thế giới quan sâu sắc qua hệ thống hình tượng nhân vật cụ thể. Hình tượng ấy có thể có thật, có thể được tạo dựng nên từ một nguyên mẫu nhưng cũng có thể là một hình tượng hư cấu. Song, hình tượng văn học luôn là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội – mang bản chất của con người mà qua đó, họ sẽ bộc lộ được những phẩm chất, tính cách, đặc điểm dựa trên nhu cầu và ý đồ phản ánh của người sáng tác. Như vậy, hình tượng nghệ thuật là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn tượng nghệ thuật dù là phương tiện để tái hiện cuộc sống nhưng không phải tô vẽ y nguyên như hội họa, ghi chép trung thực như lịch sử mà là kết quả của sự sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của người nghệ sĩ văn học. Qua những hình tượng đó, cụm từ “đồng sáng tạo” được phát huy tác dụng khi độc giả chính là đối tượng tiếp nhận và làm nên sức sống của tác phẩm văn học nói chung và hình tượng văn học nói riêng. Khai thác, phản ánh hình tượng tốt, tác phẩm sẽ khiến cho độc giả phải day dứt, trăn trở vì cuộc đời, số phận và những vấn đề xã hội đặt ra qua hình tượng văn học. Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật bằng ngôn từ, tái hiện lại bức tranh hiện thực đời sống, thể hiện tư tưởng, quan niệm của nhà văn, nhà thơ qua việc xây dựng những hình tượng nghệ thuật cụ thể. Hình tượng văn học chính là hạt nhân quan trọng để hình thành nên các tác phẩm văn học. Hình tượng văn học là bức tranh đời sống vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng. Đặc biệt, hình tượng này luôn mang giá trị thẩm mĩ và giá trị tư tưởng mà người sáng tác ghép lồng. Hình tượng văn học đã đem đến cho các tác giả một phương tiện nghệ thuật để phản ánh. 1.2. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày Giai đoạn thế kỉ XVII - XIX là thời kì lên ngôi của truyện thơ Nôm Tày. Đây là một thể loại phổ biến và tiêu biểu, góp phần tạo nên diện mạo truyện thơ của nền văn học nước nhà. Truyện thơ Nôm Tày gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người Tày và là niềm tự hào của họ. Truyện thơ Nôm Tày được ra đời và lưu truyền cho đến ngày nay cần phải kể đến sự xuất hiện của chữ Nôm Tày. Tuy nhiên, đây là một vấn đề đang được giới nghiên cứu quan tâm song thực không dễ dàng giải đáp. Hoàng Triều Ân trong Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ có viết: “Nguồn gốc chữ Nôm Tày là do nhà túc nho Cao Bằng tên là Lê Thế Khanh chế tác đầu tiên; những nhà trí thức dân tộc đời sau tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh dần. Chữ Nôm Tày đã xuất hiện từ thế kỉ thứ V” [2;15]. Trong cuốn Truyện Nôm Tày - nguồn gốc, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn quá trình phát triển và thi pháp thể loại, tác giả Vũ Anh Tuấn kết luận: “Chữ Nôm Tày đến thế kỉ XVII đã trở nên hoàn hảo” [42;45]. Trong cuốn Lượn cọi tác giả Lục Văn Pảo có viết: “Như vậy, chữ Nôm Tày có từ cuối thời Lê là chắc chắn. Có điều là đẩy lên nữa đến thế kỉ nào thì còn phải tìm thêm căn cứ” [30; 13]. Với một vài giả thuyết và kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy, chữ Nôm Tày xuất hiện từ rất sớm và dần hoàn thiện vào khoảng thế kỉ XVI - XVII. Đây là một cơ sở để thể loại truyện thơ Nôm Tày đạt được những thành tựu rực rỡ trên văn đàn văn học. Triều Ân cùng một số nhà nghiên cứu khác trong cuốn sách Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ đã tìm cách truy nguyên nguồn gốc thể loại này: “Suy nghĩ tìm tòi truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ, ta thấy có nét chung là xuất hiện từ sau khi có văn tự Nôm Tày (là thế kỉ thứ V); đi vào cụ thể từng pho truyện ta sẽ thấy sự xuất hiện khác nhau về thời điểm ta cần đọc xem xét nội dung truyện cũng như bối cảnh lịch sử, tương quan lịch sử của truyện đó” [2;32 - 33]. Các nhà nghiên cứu cũng đã tổng kết: “Truyện thơ Nôm Tày bắt nguồn từ xã hội người Tày là chủ yếu (trừ truyện Sơn Bá - Chúc Anh Đài gốc Trung Quốc hoặc có một vài truyện mượn tích hoặc truyện của người Việt để Tày hoá như Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa...). Trong truyện thơ Nôm Tày, dù có mượn tên nhân vật (như vua nước ngoài) mượn tên đất nước dưới miền xuôi hoặc dưới âm phủ, ta hãy quên những tên rất thật ấy đi để thấy giá trị hiện thực, nhân đạo... của truyện. Tên nhà vua, tên đất, lúc này chỉ còn có giá trị ước lệ, vay mượn “cho có chuyện” mà thôi” [2; 35-36]. Về nội dung của các truyện thơ Nôm Tày, Lại Nguyên Ân khái quát như sau: “Truyện Nôm Tày phản ánh nhiều vấn đề xã hội trong cộng đồng dân tộc, nhất là các xung đột giàu - nghèo, dân thường - quan lại; ca ngợi những người có công đánh giặc giữ nước, những tấm gương nhân nghĩa, tiết hạnh; cảm thông với những người nghèo, bị áp bức, bị rơi vào cảnh ngộ khó khăn... Đề tài tình yêu lứa đôi giữ vị trí chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm; sự thủy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn chung trong tình duyên được thể hiện vừa như là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, vừa như một chuẩn mực đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ của con người trong cộng đồng xã hội Tày - Nùng” [1; 663]. Với những nội dung chủ đạo đó, truyện thơ Nôm Tày sử dụng lối nói văn vần, dùng thể thất ngôn trường thiên, gieo vần ở tiếng thứ năm và tiếng thứ bảy mỗi câu . Bên cạnh đó, một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được các tác giả sử dụng như: xây dựng hình tượng nhân vật, sáng tạo tình tiết truyện, xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật… Như vậy, truyện thơ Nôm Tày là một thể loại văn học được hình thành từ lâu đời và để lại nhiều thành tựu về cả nội dung và nghệ thuật. 1.3. Vài nét về văn hóa dân tộc Tày Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số nước ta. Phần đông người Tày cư trú ven các thung lũng, triền núi thấp ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang v.v... Vùng Việt Bắc là nơi người Tày sinh sống nhiều hơn cả. Ở vùng đất này, người Tày là cư dân bản địa và giữ vai trò chủ thể từ rất lâu đời. Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. * Văn hóa vật chất Nhà ở và trang phục là những yếu tố văn hóa đặc biệt, xuất hiện nhiều trong các sáng tác văn học và có ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy, quan niệm của người Tày. Về nhà ở, những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái lợp cỏ gianh và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Người Tày sống định cư, quây quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ, có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang (Trung Quốc). Về trang phục, người Tày sử dụng vải chàm. Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất