Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng người nông dân trong văn học đương đại qua truyện ngắn của nguyễn min...

Tài liệu Hình tượng người nông dân trong văn học đương đại qua truyện ngắn của nguyễn minh châu và tạ duy anh

.PDF
90
26
116

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------------- LÊ THỊ TÂM HÌNH TƢỢNG NGƢỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƢƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VÀ TẠ DUY ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – 2018 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------------- LÊ THỊ TÂM HÌNH TƢỢNG NGƢỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƢƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VÀ TẠ DUY ANH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức Hà Nội – 2018 LỜI CẢM ƠN Em xin gửi tới PGS. TS Hà Văn Đức lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn Khoa Văn học, đặc biệt các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, Phòng sau đại học, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu Xin cảm ơn tới bạn bè, gia đình, đồng nghiệp, những ngƣời thân yêu đã luôn ở bên cạnh động viên, cổ vũ tôi. Mặc dù đã có những cố gắng, song luận văn khó tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong nhận đƣợc sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô, các bạn đồng nghiệp và bạn đọc để tác giả đƣợc rút kinh nghiệm, bổ sung cho luận văn đƣợc hoàn chỉnh hơn. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Lê Thị Tâm MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài…………………………… ....................................... 03 2. Lịch sử vấn đề ................................................................ ……………...04 3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu………… ...... …………....08 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 10 5. Đóng góp của luận văn ......................................................................... 11 6. Cấu trúc luận văn.................................................................................. 11 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh trong dòng chảy truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam ........................................ 12 1.1. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1986 ................................................ 12 1.1.1 Diện mạo chung truyện ngắn Việt Nam sau năm 1986 .............. 12 1.1.2 Diện mạo truyện ngắn viết về ngƣời nông dân sau năm 1986 .... 16 1.2. Hành trình sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh trong dòng chảy văn học đƣơng đại .................................................. 18 1.1.3 Khái quát truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ............................... 18 1.1.4 Khái quát truyện ngắn Tạ Duy Anh ........................................... 20 Chƣơng 2: Các kiểu/ dạng ngƣời nông dân trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh ................................................................... 24 2.1. Nét tƣơng đồng trong hình tƣợng ngƣời nông dân qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh ......................................................... 24 2.1.1 Ngƣời nông dân – nạn nhân của hoàn cảnh .......................... 24 2.1.2 Ngƣời nông dân bị tha hóa………….…………………….....31 2.1.3 Ngƣời nông dân bi kịch ........................................................ 34 2.1.4 Ngƣời nông dân vƣợt lên số phận và hành trình tìm kiếm bản thể ....................................................................................... 37 1 2.2. Sự khác biệt trong hình tƣợng ngƣời nông dân qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh ......................................................... 39 2.1.5 Ngƣời nông dân trong sáng tác Nguyễn Minh Châu ............. 39 2.1.6 Ngƣời nông dân trong sáng tác Tạ Duy Anh ........................ 42 Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện hình tƣợng ngƣời nông dân trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh................................. 46 3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................ 46 3.1.1 Thể hiện qua ngoại hình ........................................................ 46 3.1.2 Thể hiện qua hành động......................................................... 52 3.1.3 Thể hiện qua nội tâm…………………………………………56 3.2 Kết cấu và tình huống truyện .............................................................. 60 3.2.1 Nghệ thuật xây dựng kết cấu ................................................. 60 3.2.2 Nghệ thuật xây dựng tình huống ............................................ 64 3.3 Ngôn ngữ, giọng điệu ......................................................................... 66 3.3.1 Ngôn ngữ............................................................................... 66 3.3.2 Giọng điệu ............................................................................. 75 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................. 78 TƢ LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 81 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Nông thôn và ngƣời nông dân luôn là mảng đề tài lớn đƣợc duy trì và in dấu trên mọi sáng tác văn học Việt Nam từ xƣa đến nay. Điều đó đƣợc minh chứng từ thực tiễn sáng tác với hình ảnh ngƣời nông dân trong làng quê mộc mạc qua các thể loại. Đặc biệt, giai đoạn văn học 1930 – 1945, các nhà văn hiện thực phê phán đã khẳng định sự thành công khi dựng nên bức tranh nông thôn đa sắc với nhiều mảng sáng – tối đan cài về thân phận ngƣời nông dân oằn mình dƣới “xiềng xích”, ách thống trị “đa tròng” của xã hội thực dân, phong kiến. Nhiều nhà văn đã thành công và làm nên tên tuổi với mảng đề tài này nhƣ: Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan… trƣớc cách mạng và sau này là: Đào Vũ, Vũ Thị Thƣờng, Nguyễn Kiên… 2. Từ sau thời kỳ đổi mới (1986) đến nay bên cạnh đề tài sau chiến tranh thì đề tài về ngƣời nông dân đƣợc nhiều nhà văn thể hiện thành công nhất. Dƣới ngòi bút nhạy bén, cách truyền tải đa dạng, dù ở phƣơng thức tiểu thuyết hay truyện ngắn, trên văn đàn cũng ghi nhận đƣợc nhiều tác phẩm đặc sắc, tạo đƣợc dấu ấn riêng. Nhiều nội dung hấp dẫn, mới lạ trong đó không thể không nhắc đến Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh với những truyện ngắn đặc sắc viết về hình tƣợng ngƣời nông dân. 3. Nguyễn Minh Châu – một trong những nhà văn tiêu biểu khoác áo lính trong nền văn học Việt Nam. Khi hòa bình lặp lại, bắc nam xum họp, cả nƣớc vui chung niềm vui độc lập, thống nhất và giải quyết hậu quả khốc liệt của chiến tranh thì với cƣơng vị là nhà văn, ông hƣớng cây bút của mình vào việc miêu tả hiện thực xã hội cũng nhƣ lột tả số phận ngƣời nông dân qua nhiều tập truyện ngắn đặc sắc. 3 Nói đến truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam, là thiếu sót nếu không nhắc tới nhà văn Tạ Duy Anh – ngƣời góp phần to lớn cho nền văn học nƣớc nhà thời kỳ đổi mới sôi nổi. Có thể coi ông nhƣ lớp kế cận phù hợp và nổi trội nhất sau Nguyễn Minh Châu khi viết về hình tƣợng ngƣời nông dân. Đã có nhiều công trình bài viết nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh. Nhƣng với đề tài Hình tượng người nông dân trong văn học đương đại qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh, tôi muốn khảo sát, phân tích những truyện ngắn viết về ngƣời nông dân của hai nhà văn để qua đó tìm ra những điểm tƣơng đồng và khác biệt. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 2.1 Nguyễn Minh Châu – nhà văn lớn, một hiện tƣợng của văn học thập kỉ 20 của thế kỉ XX – “ngƣời mở đƣờng tinh anh và tài ba của văn học dân tộc” với nhiều sáng tác gây đƣợc sự chú ý và đón đợi lớn từ đông đảo giới nghiên cứu và độc giả. Trƣớc đó, đã có một số công trình tìm hiểu về hình tƣợng ngƣời nông dân trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đƣợc chú ý, sau đây tôi xin đƣợc điểm qua một số công trình tiêu biểu: Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu đăng trên báo Văn nghệ số 7 năm 1990 của nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu là những phát hiện sắc sảo với nhiều ý kiến hay về nội dung, những điểm nhấn quan trọng của tác phẩm. Ông nhận định đó là tác phẩm đa thanh với kiểu âm vang nhiều giọng điệu của sự hóa thân giữa ngƣời nông dân – Lão Khúng và con bò khoang trong cốt truyện đã gợi mở cho bạn đọc nhiều cảm xúc và suy tƣởng sâu sắc. Nguyễn Văn Hạnh đƣa ra nhận định về quan niệm con ngƣời trong tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê cho tới Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu trong đề tài Nguyễn Minh Châu những năm 4 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người in trong Tạp chí Văn học số 3 năm 1993. Thông qua đề tài này ông chỉ ra cách thức xây dựng nhân vật: nét đặc trƣng nhận biết của từng ngƣời, dụng ý nghệ thuật của nhà văn – không lý tƣởng hóa cuộc sống, nhìn nhận cuộc sống đa chiều ở nhiều góc độ trên các vai trò, bình diện khác nhau. Công trình tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu có lẽ của Tôn Phƣơng Lan năm 1996 với đề tài: Tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Công trình đã làm nổi bật tƣ tƣởng nghệ thuật – quan niệm về hiện thực và con ngƣời của nhà văn lớn. Bên cạnh đó là thế giới nhân vật và bút pháp nghệ thuật đặc sắc: tình huống truyện, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ đặc sắc. Những ý kiến đăng ở thể loại tạp chí phải kể tới: Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người – Tạp chí Văn học số 4 năm 1996 và Một vài loại hình nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu – Tạp chí Văn học số 6 năm 1997, Phạm Thị Phƣơng Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn – Tạp chí Văn học số 4 năm 1998, Trịnh Thu Tuyết về Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng truyện ngắn – Tạp chí Văn học số 1 năm 1999. Cuốn sách tổng hợp những bài viết về Nguyễn Minh Châu trên tạp chí, báo… nhằm mục đích khái quát, so sánh và lí giải những đóng góp, đổi mới về cách nghĩ, cách viết về hình tƣợng ngƣời nông dân của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tôn Phƣơng Lan và Lại Nguyên Ân biên soạn do NXB Hội nhà văn in vào năm 1991 mang tên Nguyễn Minh Châu con người và tác phẩm. Ngoài ra không thể không nhắc tới một số tiểu luận phê bình về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nhƣ: 5  Đọc khách ở quê ra và Phiên chợ Giát nghĩ về ngƣời nông dân xứ Nghệ trƣớc yêu cầu đổi mới của Nguyễn Thanh Tùng (Hội văn nghệ Nghệ An năm 1995)  Một hình tượng nông dân điển hình trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu – Lê Quang Hƣng (Hội văn nghệ Nghệ An năm 1995)  Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới về cách nhìn con người – Nguyễn Văn Hạnh (Tạp chí Văn học số 3 năm 1993)  Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu, Lại Nguyên Ân (Tạp chí Văn học số 3 năm 1987)  Lê Quang Hiếu – Một hình tượng người nông dân điển hình trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu (về nhân vật lão Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát) - (Nguyễn Minh Châu – tác giả, tác phẩm – NXB Giáo dục)  Nguyễn Văn Hạnh – Nguyễn Minh Châu những năm 80 của sự đổi mới cách nhìn về con người – (Văn Nghệ. H.1989. Số 27, 28)  Phạm Quang Long – Thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với con người. Niềm tin pha lẫn âu lo – (TCVN, năm 1996. Số 9)  Tôn Phƣơng Lan – Một vài loại hình nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu – (Tiểu luận văn học. Năm 1997. Số 6) Nói về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu, tác giả Hoàng Thị Văn từng nói: “Qua những trang viết, nhà văn gửi lại cuộc đời tấm lòng ƣu ái với những con ngƣời lam lũ, chịu nhiều hi sinh mất mát, nhà văn gửi lại những hiểu biết, khám phá sâu sắc của mình về thế giới nội tâm con ngƣời, về những số phận và cuộc đời buồn vui dang dở”. Tác giả thứ hai phải nhắc tới chính là: nhà văn Tạ Duy Anh – ngƣời đã khuấy động cả một bầu không khí sinh hoạt văn hóa, văn nghệ nƣớc nhà – “là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm”. 6 Ông Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “Tạ Duy Anh Bước qua lời nguyền để đi đến Lão Khổ. Thêm một giả thiết văn học về bản chất và thân phận ngƣời nông dân Việt Nam”. Trong bản tổng kết “Cuộc thi truyện ngắn đề tài nông thôn” đăng trên báo Văn nghệ số 4 – 5 năm 1990 có đoạn viết: “Truyện ngắn Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng trẻ viết về số phận con ngƣời…”. Trên Tạp chí văn học số 4 năm 1995, Hồng Ngọc Hiến còn cho rằng: “Nhiều truyện trong tập truyện Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh mang cảm hứng trút bỏ những thành kiến nặng nề của quá khứ, xóa bỏ những nếp sống gắn liền với bạo lực, sự cùng khốn và tối tăm… và thỏa mãn khát vọng yêu thƣơng – nhu cầu nhân tính cao nhất của con ngƣời”. Bài Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đã đƣa ra một số cái nhìn cơ bản về quan niệm của tác giả và con ngƣời: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Ngƣời xấu thì cứ xấu nhƣ lão Phụng… ngƣời đẹp thì nhƣ hoa nhƣ ngọc: Quý Anh, chị Túc, bà Ba, nhƣ sản phụ chờ sinh. Nhƣng bản chất con ngƣời thì luôn ở ranh giới thiện – ác. Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái đấu tranh với xã hội với môi trƣờng, với kẻ thù, với ngƣời thân, với chính bản thân mình.” Trong bài viết Tạ Duy Anh - người đi tìm nhân vật tác giả Thụy Khuê đã nhận thức về nhân vật Tạ Duy Anh với cái nhìn lịch sử: “Những nhân vật của Tạ Duy Anh qua bao tác phẩm từ hơn mƣời năm nay vẫn gắn bó mật thiết với nhau trong một tƣơng quan chặt chẽ, họ hàng, làng nƣớc. Họ xuất thân cùng ở làng Đồng, họ cùng tiềm ẩn thù hận dòng họ, hận thù giai cấp…”. 7 Báo Pháp Luật số 140 năm 2004 đƣa nhận định: “ông là một tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con ngƣời nhất là khi họ rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng nhƣng cũng đầy thƣơng xót con ngƣời và đặc biệt là cuộc đời đầy thăng trầm của ngƣời nông dân”. Báo Giáo dục và thời đại số 80 năm 2004 đặt câu hỏi: “Số phận con ngƣời phải chăng luôn là sự trăn trở, dằn vặt trong ông” và tác giả bài báo cũng đƣa ra gợi ý về câu trả lời: “Nhân vật nào của ông cũng thấp thoáng bóng dáng của ngƣời nông dân sinh ngày 9 tháng 9 tại làng Đồng”. Trong những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu về truyện ngắn Tạ Duy Anh nhƣ:  Nguyễn Thị Mai Loan: Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh (ĐH Sƣ phạm Hà Nội, năm 2004)  Phạm Thị Hƣơng: Tạ Duy Anh từ quan niệm nghệ thuật đến những đổi mới trong sáng tác truyện ngắn (ĐH Sƣ phạm Hà Nội, năm 2005)  Vũ Thị Thanh Hà với: Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh (ĐH Sƣ phạm Hà Nội, năm 2005)  Phạm Quỳnh Dƣơng: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh (ĐH Khoa học xã hội nhân văn, năm 2008)  Lã Thị Hiếu: Hiện thực nông thôn trong truyện ngắn Tạ Duy Anh (Đại học Đà Nẵng, năm 2011) Từ những lập luận điểm trên có thể khẳng định những nghiên cứu và đánh giá về hình tƣợng ngƣời nông dân trong văn học đƣơng đại Việt Nam qua thể loại truyện ngắn chƣa thực sự trọn vẹn. Hơn nữa những công trình về Nguyễn Minh Châu hay Tạ Duy Anh hầu hết tập trung ở thể loại tiểu thuyết – những tác phẩm dài hơi, có dấu ấn lớn hơn. Vì vậy, thiết nghĩ 8 những lí do này là gợi ý cho đề tài luận văn này của tôi tiến hành và thực hiện. 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của tôi là những truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh viết về ngƣời nông dân trong tiến trình vận động của văn học đƣơng đại. Trong quá trình nghiên cứu, tôi sẽ tham khảo, xem xét một số nhân vật và hình tƣợng ngƣời nông dân của các tác giả khác nhằm mục đích liên hệ và mở rộng thêm vấn đề. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tác phẩm có hình tƣợng ngƣời nông dân trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh trong dòng chảy văn học đƣơng đại. Cụ thể, khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu gồm: Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lau, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát (1989), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu… Khảo sát truyện ngắn của Tạ Duy Anh gồm: Bước qua lời nguyền (1989), Quả trứng vàng (1989), Hiệp sĩ áo cỏ (1993), Luân hồi (1994), Con dế ma (1999), Ánh sáng nàng (2000), Vĩ ngựa trở về (2000), Ngày hội cuối cùng (2000), Những truyện không phải trong mơ (2003), Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh (2003)… 3.3 Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài này, với mục đích tìm hiểu thấu đáo và cụ thể hình tƣợng ngƣời nông dân trong văn học đƣơng đại Việt Nam nói chung và trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh nói riêng để thấy đƣợc điểm thống nhất và khác biệt trong cách thể hiện nhân vật. 9 Mặt khác, đặt hình tƣợng ngƣời nông dân trong cái nhìn đối sánh qua sáng tác của hai nhà văn, tôi muốn cho ngƣời đọc nhìn nhận những điểm kế thừa và phát huy, chuyển biến của ngƣời nông dân từng giai đoạn khác nhau, dƣới những ngòi bút sáng tạo khác nhau. Qua đó thấy đƣợc mỗi hình tƣợng có điểm mạnh riêng, vốn sống riêng và phong cách nghệ thuật riêng không thể trộn lẫn. Hình tƣợng ngƣời nông dân nào đƣợc xây dựng cũng đều là tâm huyết, “đứa con tinh thần” của mỗi nhà văn nhƣng chắc chắn với vốn sống, hiểu biết và khả năng sáng tác riêng thì mỗi hình tƣợng ấy sẽ mang trong mình những nét chấm phá riêng, tạo cho ngƣời đọc những hình tƣợng đa dạng, phong phú, góp phần to lớn cho nền văn học đƣơng đại nƣớc nhà. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp loại hình: biểu hiện ở hai khía cạnh: cấu trúc bên trong của đối tƣợng và tìm ra những quy luật phát triển của nó. Cụ thể hơn trong luận văn này, nét tƣơng đồng rõ nhất của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh đều thể hiện qua thể loại: truyện ngắn. Sử dụng phƣơng pháp này nhằm làm rõ những đặc trƣng của thể loại truyện ngắn trong sáng tác của hai nhà văn. Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống – cấu trúc: đối tƣợng chỉ đƣợc bộc lộ đầy đủ trong mối quan hệ qua lại với các yếu tố trong cùng hệ thống. Nếu tách mình ra khỏi hệ thống, đối tƣợng chỉ là một yếu tố ngẫu nhiên, đơn lẻ và sự đánh giá về nó sẽ trở nên phiến diện, không đầy đủ và không có giá trị khoa học. Truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh là một hệ thống hoàn chỉnh. Nghiên cứu hình tƣợng ngƣời nông dân trong sáng tác của họ nhất thiết phải đặt trong hệ thống hoàn chỉnh đó. Phƣơng pháp xã hội học văn học: Mỗi hình tƣợng nghệ thuật là con đẻ tinh thần của nhà văn đồng thời cũng là sản phẩm cụ thể của từng thời 10 kỳ lịch sử khác nhau, vì vậy ở mỗi thời kì nó mang ý nghĩa nhất định. Cụ thể hơn khi nghiên cứu đề tài này, ta phải đặt đối tƣợng trong từng hoàn cảnh cụ thể, có nhƣ thế mới chính xác và khách quan, kết quả nghiên cứu mới có sức thuyết phục cao. Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp: Mỗi hình tƣợng nghệ thuật là một kết cấu hoàn chỉnh đƣợc xây dựng bởi nhiều chi tiết, yếu tố có mối quan hệ không thể tách rời: phân tích đƣợc tiến hành theo phƣơng hƣớng tổng hợp, còn tổng hợp đƣợc thực hiện dựa trên kết quả của phân tích. Ngƣời nông dân trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh sẽ đƣợc tìm hiểu gắn với từng chi tiết trong sáng tác của họ. Phƣơng pháp so sánh – đối chiếu: Giúp chúng ta hiểu rõ bản chất và vị trí của một hiện tƣợng văn học trong các mối tƣơng quan đa chiều của nó làm tăng tính sinh động, hấp dẫn. Đặc biệt trong đề tài này, hình tƣợng ngƣời nông dân trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh sẽ đƣợc đƣa ra so sánh ở nhiều cấp độ và phƣơng diện khác nhau để thấy đƣợc điểm tƣơng đồng và khác biệt cũng nhƣ thành công và hạn chế ở mỗi tác giả. 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Luận văn góp phần nhận diện chung nhất tiến trình vận động và phát triển của truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam qua tuyển tập truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh nhằm thấy đƣợc sự kế thừa, tiếp nối những thành tựu của giai đoạn trƣớc 1986 và những vấn đề mà giai đoạn sau tiếp cận, phản ánh. Giúp bạn đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về truyện ngắn Việt Nam viết về đề tài ngƣời nông dân, tiêu biểu là tập truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh trên cả hai phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Công trình sẽ góp thêm một tƣ liệu cho việc học tập và nghiên cứu 11 Tạ Duy Anh, Nguyễn Minh Châu trong trƣờng đại học và công tác giảng dạy tác phẩm của hai tác giả. CẤU TRÚC LUẬN VĂN 6. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phần Nội dung của Luận văn này gồm 03 chƣơng: Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh trong dòng chảy truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam Chƣơng 2: Các kiểu/ dạng ngƣời nông dân trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện hình tƣợng ngƣời nông dân trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Tạ Duy Anh NỘI DUNG Chƣơng 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU VÀ TẠ DUY ANH TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM 1.1 Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1986 1.1.1 Diện mạo chung truyện ngắn sau năm 1986 Sau chiến thắng 1975, đất nƣớc thống nhất, niềm vui của khúc ca khải hoàn lan rộng khắp cả nƣớc, len lỏi từng thôn xóm. Ngay sau đó, cả nƣớc đồng lòng góp sức bắt tay vào công cuộc hàn gắn hậu quả, vết thƣơng chiến tranh với những nỗi lo cơm áo gạo tiền của cuộc sống thƣờng nhật. Hiện thực ấy không đơn giản là kiến thiết, xây dựng và nhận những trái ngọt mà chúng ta đã trải qua thời kỳ dài bao cấp với vô số những bất cập không thể tránh khỏi. Nhƣng dƣới sự lãnh đạo của Đảng, tình trạng dần đƣợc cải thiện, đời sống kinh tế dần khởi sắc sau thời gian dài trì trệ. Đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), Đảng ta đã xác định 12 đƣờng lối đổi mới một cách toàn diện và sau đó là Nghị Quyết 05 đã thổi một luồng sinh khí vào đời sống văn học nghệ thuật nƣớc nhà, từ đây mở ra một thời kì đổi mới của văn học Việt Nam từ cách nhìn hiện thực, cách nhìn nhận cuộc sống, con ngƣời cho đến tƣ duy nghệ thuật. Giai đoạn văn học trƣớc năm 1975 gắn liền với nhiều biến cố lịch sử, theo sát từng bƣớc đi, từng cuộc chiến trong phong trào cách mạng. Giá trị của tác phẩm bấy giờ gắn với nội dung hiện thực và lấy đó là thƣớc đo. Nguyễn Minh Châu từng nhận xét: “Tôi không hề nghĩ rằng mấy chục năm qua nền văn học cách mạng – nền văn học ngày nay có đƣợc là nhờ bao nhiêu trí tuệ mồ hôi và cả máu của bao nhiêu nhà văn, không có những cái hay, không để lại đƣợc những tác phẩm chân thực. Nhƣng về một phía cũng phải nói thật với nhau rằng: mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh hoạ, văn học minh hoạ, với những cây bút chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khắc khổ đã có sẵn mà chúng ta quy cho đấy là tất cả hiện thực đời sống đa dạng và rộng lớn” [24;13]. Vô số tác phẩm thời kì đổi mới cho ngƣời đọc thấy cái nhìn hiện thực đa chiều từ truyện ngắn tới tiểu thuyết. Nhà văn sau đổi mới đã nhào nặn hiện thực, trăn trở trƣớc xã hội để đƣa ra những tác phẩm đích thực nhƣng không mất đi sự phong phú, đa dạng của cuộc sống. Con ngƣời – nhân vật trung tâm luôn đƣợc nhìn nhận ở nhiều vị thế và đặt trong cái nhìn đa chiều của mọi mối quan hệ: con ngƣời với xã hội, với lịch sử, với gia đình/ gia tộc, với tự nhiên… và với chính con ngƣời. Hình ảnh con ngƣời trong văn học hiện lên chân thực với cả tốt – xấu, thiên thần – ác quỷ, cao cả – tầm thƣờng. Văn học thời kì đổi mới có nhiều khám phá, phát kiến lớn và phản ánh cuộc sống đƣơng đại bộn bề những ngổn ngang. Đó không chỉ là sự chuyển đổi của số lƣợng tác giả, tác phẩm mà còn ở chất lƣợng, tƣ duy và cảm hứng sáng tác. 13 Một kỉ nguyên mới mở ra khi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã kết thúc sau hơn ba mƣơi năm. Văn học đƣợc trả lại đúng giá trị vốn có, đƣợc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” – trích Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Vì vậy mà văn xuôi thời kỳ đổi mới, chiếm vị trí quan trọng nhƣng đồng thời cũng xuất hiện nhiều cuộc tranh cãi gay gắt trên văn đàn. Chính điều đó nhƣ cú “hích” thúc đẩy nền văn học phải vận động, chuyển mình và tiếp thu những giá trị mới – đây là quy luật phát triển tự thân cần thiết so với nền văn học cũ. Đáng chú ý là tƣ tƣởng tự do dân chủ đã đem đến nguồn động viên, cổ vũ lớn lao cho các văn nghệ sĩ – những ngƣời coi viết văn là nghề cao quý, chân chính – họ đƣợc nhìn nhận cuộc sống một cách thoải mái, hƣớng ngòi bút của mình vào mọi ngõ ngách của đời sống, số phận từng nhân vật đƣợc phơi bày… đã tạo nên “thời kỳ phong phú của hiện tƣợng văn học” – nhƣ nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã nói. Ngƣời ta nhận thấy rằng, chƣa bao giờ văn học lại chứa đựng không khí đổi mới lại sôi sục và náo nhiệt tới vậy. Và cũng chƣa bao giờ ngƣời ta thấy văn xuôi lại chiếm địa vị thống trị văn đàn lớn nhƣ thế. Nguyễn Minh Châu chính là một trong những tác giả tiêu biểu “mở đƣờng tinh anh” cho cú “hích” đó với loạt truyện ngắn lừng danh: Bức tranh, Phiên chợ Giát, người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành… Ba tác phẩm, ba bức tranh, ba đời sống, ba số phận với những tâm tƣ tình cảm, bút pháp không trùng lặp đã thể hiện Nguyễn Minh Châu xứng đáng là bậc thầy trong văn xuôi thời đƣơng đại. Tiếp đó phải kể tới Thời gian của người, Gặp gở cuối năm của Nguyễn Khải cho đến Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp đã khiến cho nhiều cây bút giật mình nhận ra “từ nay không còn có thể viết nhƣ trƣớc nữa, “phải đổi thay… phải viết khác đi”, “cần tìm cho mình một ngôn ngữ nghệ thuật khác” (Nguyên Ngọc). Cùng với đó là sự khuyến khích đổi mới văn nghệ của Bộ chính trị ở Nghị quyết 14 05: “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Ở thời điểm mà “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, văn học trên đà phát triển mạnh mẽ, nở rộ với hàng loạt cây bút tài năng đƣợc bộc lộ cùng nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau đƣợc “đơm hoa kết trái”. Thời kỳ đầu công cuộc đổi mới, tiểu thuyết thịnh hành và “lên ngôi” khoảng năm đến sáu năm nhƣng sau đó truyện ngắn dành lại đƣợc thế “thƣợng phong” với hàng loạt tác phẩm cho thấy tính nhân văn sâu sắc, toàn diện và những nhân vật “đời”, ăn nhập gần gũi với đời sống thực tại nhất. Các tác giả dần quay lại truyện ngắn để thể hiện những vấn đề cuộc sống, số phận cá nhân với nhiều đau thƣơng đan lẫn niềm vui sƣớng, hạnh phúc hay những rung động nhẹ nhàng đến dằn vặt đau đớn… Qua ba cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn nghệ, Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và tạp chí Văn nghệ quân đội có gần 700 truyện ngắn dự thi. Nếu tính cả truyện ngắn đăng trên báo, tạp chí trong năm con số sẽ lên hàng vạn – đó là thống kê cơ bản cho ta thấy đƣợc tốc độ phát triển của truyện ngắn cũng nhƣ số lƣợng nhà văn cầm bút. Tiếp đến, cuộc thi truyện ngắn năm 2001 – 2002 do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức có gần 2.000 tác phẩm dự thi bằng số lƣợng truyện ngắn bốn năm 1978 - 1979, 1983 – 1984. Có thể nói chƣa bao giờ truyện ngắn phát triển phong phú về số lƣợng lẫn chất lƣợng nghệ thuật nhƣ thời kì này. Với dung lƣợng có thể coi là “nhỏ bé”, tƣớc bỏ những chi tiết “rƣờm rà”, sự dồn nén các yếu tố không gian, thời gian, tâm lý nhân vật, kết cấu. Nó đi sâu vào mọi vấn đề của đời sống thƣờng ngày từ những mất mát của ngƣời lính trong chiến tranh đến những hận thù của dòng họ, gia tộc, sự khắc nghiệt của cái đói khát, nghèo khổ, cô đơn, niềm hân hoan, hạnh phúc, xót xa, những vấn đề thuộc về tâm linh, tiềm thức và 15 vô thức…bao nhiêu phức tạp của đời thƣờng đều đƣợc truyện ngắn phản ánh một cách chân thực. Nếu ví tiểu thuyết nhƣ cây đại thụ với đầy đủ gốc, hoa lá cành xum xuê…thì truyện ngắn đƣợc coi nhƣ lát cắt ngang của thân cây đó. Nhƣng điều quan trọng mặt cắt thân cây ấy vẫn thể hiện rõ nét từng đƣờng vân hiện thực. Truyện ngắn giờ đây không còn là “mũi khoan thăm dò nhỏ và nhẹ” (Nguyên Ngọc) mà đã mang sức nặng của sự khái quát, để qua mỗi câu chuyện có thể khái quát đƣợc một cảnh đời, một kiếp ngƣời, một vận hội, một thời đại. Truyện ngắn đƣơng đại còn xuất hiện sự đan xen khéo léo của nhiều thể loại trong một tác phẩm nhƣ có cả thơ, văn xuôi và kịch; tiêu biểu cho loại hình đặc sắc này là truyện ngắn giàu tính kịch ở Không có vua – Nguyễn Huy Thiệp; chất thơ với biểu hiện nhiều suy cảm ở truyện ngắn Trong cơn mưa - Phạm Thị Hoài; dung nạp nhiều yếu tố trữ tình và khắc họa nhân vật với nhiều trạng huống tâm trạng phải kể tới truyện ngắn Cái nhìn khắc khoải, Dòng nhớ, Chiều vắng, Hiu hiu gió bắc…của Nguyễn Ngọc Tƣ; hình thức truyện ngắn – nhật ký là tác phẩm của nhà văn Phan Thị Vàng Anh, Mưa – Nguyễn Huy Thiệp… Tƣ duy tiểu thuyết trong truyện ngắn đƣợc đặc trƣng bởi sự “dài hơi”, ôm chứa nhiều vấn đề đời sống, sự luân chuyển ngôi kể, đan xen các điểm nhìn, kỹ thuật phân tích tâm lý, độc thoại nội tâm… Ở đây có thể thấy ở nhiều trƣờng hợp nhƣ: Giọt máu, Con gái thủy thần – Nguyễn Huy Thiệp, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát – Nguyễn Minh Châu, Bước qua lời nguyền – Tạ Duy Anh, Cánh đồng bất tận – Nguyễn Ngọc Tƣ, Nhiệt đới gió mùa – Lê Minh Khuê… Điều này đã chứng tỏ những biến động bề mặt và trong cấu trúc tự sự của thể loại truyện ngắn. Nhu cầu làm mới thể loại không ngừng vận động và phát triển, sự xâm lấn và đan cài giữa các yếu tố trở nên nở rộ đã chứng tỏ nhu cầu bức thiết, quy luật vận động nội tại của thể loại. 16 1.1.2 Diện mạo văn xuôi viết về người nông dân sau năm 1986 Trƣớc kia, văn xuôi viết về đề tài ngƣời nông dân chủ yếu là việc giác ngộ cách mạng, đấu tranh giai cấp, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp… thì sau đổi mới, ta thấy đƣợc sự chuyển biến cơ bản trong tƣ tƣởng khi chủ yếu tác phẩm khám phá số phận con ngƣời cá nhân trên nhiều góc độ, quanh các mối quan hệ: gia đình, dòng họ, làng xóm, cộng đồng, đến chính bản thân mình… Thể loại mang lại nguồn sinh lực tràn trề nhựa sống – truyện ngắn, với tên tuổi và tác phẩm tiêu biểu: Nguyễn Minh Châu với Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Chiếc thuyền ngoài xa, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,…Nguyễn Quang Lập với Tiếng gọi phía mặt trời lặn, Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Nguyễn Quang Thiều với Hai người đàn bà xóm trại, Tạ Duy Anh với Bước qua lời nguyền, Lũ vịt trời, Xưa kia chị đẹp nhất làng, Vòng trầm luân trần gian…Võ Thị Hảo với Biển cứu rỗi, Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường đường, Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Phan Thị Vàng Anh với Khi người ta trẻ, Phan Triều Hải với Một tối ở quán bar... Văn xuôi đƣơng đại viết về ngƣời nông dân Việt Nam ở bất kỳ vùng quê nào cũng gắn con ngƣời trong những mối quan hệ “bất di bất dịch”, hiện hữu vốn có. Trƣớc hết là quan hệ dòng tộc – khác với ngƣời thành phố, ngƣời thôn quê bao giờ cũng coi trọng “tình làng nghĩa xóm”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Truyện ngắn của Tạ Duy Anh - Bước qua lời nguyền là tác phẩm đầu tiên đề cập tới chủ đề này với nhiều thông điệp và dụng ý nghệ thuật đáng suy ngẫm. Câu chuyện kể với danh xƣng “tôi” – ngƣời đƣợc giao trọng trách cao cả khi phải tiếp tục việc trả thù gia đình Quý Anh – con của địa chủ Hứa. Những dằn vặt nội tâm, những suy tƣ đau đáu của “tôi” đƣợc Tạ Duy Anh lột tả sâu sắc khiến ngƣời đọc cảm thông và thƣơng xót cho cái bi kịch kia, sự thù hằn truyền kiếp của con ngƣời làm 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất