0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ AN
H×NH T¦îNG NG¦êI N¤NG D¢N KHÈN
HOANG
TRONG V¡N XU¤I NGHÖ THUËT
CñA PHI V¢N, B×NH NGUY£N LéC,
S¥N NAM
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60.22.32
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHAN HUY DŨNG
1
NGHỆ AN - 2012
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.
Lí do chọn đề tài....................................................................................1
2.
Lịch sử vấn đề.......................................................................................3
3.
Đối tượng nghiên cứu.........................................................................14
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................14
5.
Phương pháp nghiên cứu.....................................................................14
6.
Đóng góp của luận văn........................................................................14
7.
Cấu trúc của luận văn..........................................................................15
Chương 1.
NGƯỜI NÔNG DÂN KHẨN HOANG - MỘT HÌNH
TƯỢNG LỚN CỦA VĂN XUÔI NAM BỘ THẾ KÝ XX...........16
1.1.
Khái niệm người nông dân khẩn hoang..............................................16
1.1.1. Nam Bộ - vùng đất mới.......................................................................16
1.1.2. Khẩn hoang - một công việc đặc thù và ý nghĩa to lớn của nó...........17
1.1.3. Người nông dân khẩn hoang Nam Bộ.................................................19
1.2.
Nhìn chung về hình tượng người nông dân khẩn hoang trong văn
xuôi Nam Bộ thế kỷ XX.....................................................................20
1.2.1. Hình tượng người nông dân khẩn hoang trong văn xuôi Nam Bộ
từ đầu thế kỷ XX - 1945......................................................................20
1.2.2. Hình tượng người nông dân trong văn xuôi Nam Bộ từ 1945
đến 1975.............................................................................................25
1.2.3. Hình tượng người nông dân trong văn xuôi Nam Bộ từ 1975
đến nay................................................................................................29
1.3.
Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam - Những nhà văn thành
công nhất trong việc xây dựng người nông dân khẩn hoang..............30
1.3.1. Tiểu sử, sự nghiệp văn học của ba nhà văn.........................................30
1.3.2. Nhìn chung về điểm gặp gỡ và khác biệt giữa ba nhà văn trong
việc thể hiện hình tượng người nông dân khẩn hoang........................36
Chương 2.
NHẬN THỨC THẨM MỸ VỀ NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA
NGƯỜI NÔNG DÂN KHẨN HOANG TRONG VĂN XUÔI
TỰ SỰ PHI VÂN, BÌNH NGUYÊN LỘC, SƠN NAM................42
2.1.
Nhận thức thẩm mỹ về hoàn cảnh sống của người nông dân
khẩn hoang..........................................................................................42
2.1.1. Không - thời gian hoang sơ, thách thức..............................................42
2.1.2. Không - thời gian quy thuận con người..............................................50
2.1.3. Những tai ương đến từ tổ chức xã hội.................................................53
2.2.
Nhận thức thẩm mỹ về những nét đẹp của người nông dân
khẩn hoang..........................................................................................57
2.2.1. Yêu đất đai, nguồn cội........................................................................57
2.2.2. Cần cù và sáng tạo..............................................................................72
2.2.3. Can đảm và nghĩa khí..........................................................................76
2.3.
Những điểm chất khác nhau giữa ba nhà văn khi thể hiện hình
tượng người nông dân khẩn hoang......................................................92
2.3.1. Với Phi Vân.........................................................................................92
2.3.2. Với Bình Nguyên Lộc.........................................................................94
2.3.3. Với Sơn Nam......................................................................................96
Chương 3.
CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG NGƯỜI
NÔNG DÂN KHẨN HOANG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT
CỦA PHI VÂN, BÌNH NGUYÊN LỘC, SƠN NAM.................100
3.1.
Hư cấu trên cơ sở khảo cứu công phu...............................................100
3.1.1. Sự kết hợp giữa vốn sống phong phú với tinh thần phân tích
khoa học trong trần thuật, miêu tả.....................................................100
3.1.2. Tính xác thực tương đối của những con người, địa danh.................106
3.1.3. Ghi chép và tưởng tượng...................................................................107
3.2.
Vận dụng phương ngữ.......................................................................115
3.2.1. Cách vận dụng phương ngữ của người kể chuyện............................115
3.2.2. Những thành công và hạn chế của từng nhà văn trong việc cá thể
hóa ngôn ngữ nhân vật......................................................................123
3.3.
Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa “chuyện lạ” và chuyện thường ngày
...........................................................................................................129
3.3.1. Liều lượng những" câu chuyện lạ" được đem tới.............................129
3.3.2. Vấn đề bình thường hóa những chuyện phi thường..........................132
3.3.3. Những cách phẩm bình trực tiếp về nhân vật của người kể chuyện
...........................................................................................................137
KẾT LUẬN..................................................................................................145
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................148
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chúng ta biết đến văn học Nam Bộ thế kỷ XX với những sáng tác
của Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Trang
Thế Hy, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê
Văn Thảo, Hồ Tĩnh Tâm, Nguyễn Ngọc Tư,… Những thế hệ nhà văn này
trưởng thành trong những thời kì khác nhau nhưng họ đã góp phần làm nên sự
bề thế, phong phú cho văn học Nam Bộ. Và hơn thế nữa, những người nghệ sĩ
đó đã để lại dấu ấn rõ nét tạo nên dòng chảy khác biệt, chứng tỏ sức sống của
một bộ phận văn học phát triển từ mảnh đất đặc thù. Vì vậy, có thể xem văn
học Nam Bộ là một vùng văn học độc đáo và thực sự cần nghiên cứu chuyên
tâm, lâu dài. Thực hiện đề tài này là một cách để chúng tôi dần tiếp cận, khám
phá mảnh đất văn học mà từ lâu vẫn đang còn vẻ “hoang sơ”, bí ẩn như chính
cuộc sống con người Nam Bộ.
1.2. Nam Bộ là vùng đất mới, nó được tạo lập trong quá trình người
dân miền Trung, Bắc di dân vào khai hoang, mở rộng bờ cõi, gây dựng sự
sống. Nam Bộ được sinh ra từ những hi sinh, từ xương máu của những bậc
tiền nhân đi khai hoang. Chính vì vậy, cảm hứng về những con người mang
gươm đi mở cõi trời Nam trở thành cảm hứng lớn trong sáng tác của nhiều thế
hệ nhà văn Nam Bộ. Từ ca dao dân ca Nam Bộ đến văn học viết Nam Bộ đầu
thế kỉ XX cho đến nay, có thể kể từ Hồ Biểu Chánh cho đến những nhà văn
trẻ ngày hôm nay như Nguyễn Ngọc Tư, dù xuất hiện đậm nhạt nhưng lúc nào
người đọc cũng nhận ra hình tượng người nông dân khẩn hoang với tâm thế
cao đẹp của những con người “mở đường” sống cho mảnh đất Nam Bộ.
Sự gặp gỡ nghệ thuật lớn lao chứng tỏ rằng, đối với mỗi người nghệ sĩ
Nam Bộ chân chính, sáng tạo nghệ thuật phải hướng tới nguồn cội thiêng
liêng, hướng tới những giá trị đổi bằng xương máu của tiền nhân, những
2
người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Nam Bộ kiếm tìm sự sống. Với chúng
ta, tiếp cận với hình tượng nghệ thuật này là một cơ hội quý giá để hiểu hơn
về vẻ đẹp của con người khẩn hoang nơi mảnh đất xa xôi tận cùng của Tổ
quốc, và để cảm nhận về một hương sắc riêng của văn học nước nhà. Đó cũng
chính là lí do tiếp theo thúc đẩy chúng tôi lấy hình tượng này làm đối tượng
nghiên cứu chính của đề tài.
1.3. Trong bộ phận văn học Nam Bộ, như chúng tôi đã nói, hình tượng
người nông dân khẩn hoang xuất hiện trong các tác phẩm, đậm, nhạt còn tùy
vào hướng tiếp cận hiện thực của từng nhà văn. Chúng tôi muốn nói tới Phi
Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, vì chính họ là những nghệ sĩ hướng tới
xây dựng hình tượng này như những ám ảnh nghệ thuật, đem lại niềm xúc
động cho người đọc… Tìm đến với phóng sự Đồng quê, Dưới đồng sâu của
Phi Vân, nghiền ngẫm những trang văn như Rừng mắm, Thèm mùi đất,
Cuống rún chưa lìa, Đò dọc… của Bình Nguyên Lộc, và thưởng thức
Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận được rõ
nét hình ảnh tiền nhân khai hoang mở đất như một kết tinh thẩm mĩ cao đẹp
trong mỗi tác phẩm.
Nhà văn Sơn Nam đã nguyện cả đời sẽ viết về cuộc khẩn hoang miền
Nam, bởi vì đó là một cuộc “khẩn hoang đặc biệt” (chữ dùng của Sơn Nam)
và cũng vì ông muốn trả món nợ ân nghĩa với mảnh đất quê hương ông. Cùng
với Bình Nguyên Lộc, Phi Vân, nhà văn Sơn Nam xứng đáng trở thành người
tiếp sinh lực cho đề tài lớn này trong văn học Nam Bộ. Và cũng chính họ đã
tiếp thêm sức sống mãnh liệt cho hình tượng thẩm mĩ về người nông dân khẩn
hoang Nam Bộ vốn có từ cội nguồn từ truyền thống.
1.4. Truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh hạ của Sơn Nam được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường cũng đã xây dựng hình tượng thẩm mĩ trung tâm
là người nông dân Nam Bộ trong cuộc khẩn hoang đầy những gian lao, nhọc
3
nhằn. Cho nên, nghiên cứu về hình tượng này nói chung và tác giả Sơn Nam
nói riêng, chúng tôi hi vọng cung cấp được một cái nhìn toàn diện, góp phần
hữu ích vào việc tiếp cận tác phẩm văn học này trong nhà trường. Chúng tôi
cũng có chút hi vọng đưa Sơn Nam cùng với Phi Vân, Bình Nguyên Lộc đến
với đông đảo bạn đọc, để họ nhận được sự định giá xứng đáng hơn vì những
đóng góp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Văn học Nam Bộ là vùng văn học chữ quốc ngữ bắt đầu hình thành
và phát triển từ cuối thế kỉ XIX. Đây là bộ phận văn học có một đời sống sôi
nổi với hàng trăm cây bút và một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Người ta
thường biết đến văn học Nam Bộ với những tên tuổi như Trương Vĩnh Ký, Hồ
Biểu Chánh, Huỳnh Tịnh Của, Phi Vân (trước 1945) và Bình Nguyên Lộc,
Trang Thế Hy, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang
Sáng,…Tuy nhiên, văn học Nam Bộ không chỉ có thế. Các tác giả sáng tác
trên nhiều thể loại xuất hiện khá rầm rộ như Nguyễn Khánh Nhương, Trương
Duy Toản, Michel Tinh, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt…
nhưng vì dấu ấn để lại ít cho nên họ trở nên lạ lẫm với bạn đọc. Nhưng điều
đó cho thấy, văn học Nam Bộ từ cuối thế kỉ XIX đến trước và sau 1945 có thể
gọi là một bộ phận văn học khá sôi động.
Trong không khí sôi động đó, bộ phận văn học này đã để lại những tên
tuổi có thể gọi là đỉnh cao chứng tỏ tiềm năng và sinh lực của mình. Chính
những tác giả đó đã làm nên cái mà người ta thường vẫn gọi đó là văn học
Nam Bộ. Những Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam,
Đoàn Giỏi, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Ngọc Tư… là những người làm
cho tên gọi văn học Nam Bộ mang tính đặc thù. Một số trong những gương
mặt nổi bật trên cũng chính là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi khi tìm
hiểu về văn học Nam Bộ.
4
Rõ ràng, văn học Nam Bộ không phải là một thuật ngữ văn học, nhưng
người ta gọi tên nó như một cụm từ khá ổn định (không ai gọi văn học Bắc Bộ
hay Trung Bộ). Điều đó không phải ngẫu nhiên. Bản thân tên gọi đã mang dấu
hiệu về những nét đặc thù của bộ phận văn học này. Nó bao gồm những sáng
tác của những tác giả Nam Bộ hoặc mang màu sắc Nam Bộ (có những tác giả
người Bắc nhưng vẫn xếp những sáng tác của họ vào bộ phận văn học Nam
Bộ vì màu sắc Nam Bộ xuất hiện trong tác phẩm của họ). Màu sắc Nam Bộ là
một cách nói còn mơ hồ nhưng chúng ta có thể thấy biểu hiện cụ thể qua các
phương diện như: hình tượng không gian, thời gian, con người, ngôn ngữ lẫn
giọng điệu… Hình tượng người nông dân khẩn hoang cũng chính là một trong
những biểu hiện của màu sắc Nam Bộ, thể hiện nét đặc thù của hiện thực mà
các nhà văn Nam Bộ tập trung phản ánh.
2.2. Những nghiên cứu về hình tượng người nông dân khẩn hoang
trong văn học Nam Bộ nói chung và trong sáng tác của Phi Vân, Bình Nguyên
Lộc, Sơn Nam nói riêng còn khá ít ỏi. Điều đáng nói là những nghiên cứu đó
thực sự chưa xứng với bản thân tầm vóc của một hình tượng văn học lớn và
hết sức độc đáo này.
Trong bài Sưu tầm và giới thiệu ca dao dân ca Nam Bộ, tác giả Trần
Văn Nam đã phân nhóm chủ đề những bài ca dao thể hiện hình ảnh người đi
khẩn hoang. Tác giả không chỉ giới thiệu mà còn cảm nhận được khá rõ nét
cuộc sống của con người khẩn hoang qua những sáng tác dân gian. Đó là
những bài ca dao gợi nhớ đến bậc tiền nhân mở cõi, “những người đã đổ mồ
hôi xương máu đẩy lùi dần cảnh hoang sơ vào quá khứ”, là những bài ca dao
khích lệ tinh thần những người khẩn hoang, cả những bài ca dao buồn nhớ vì
xa xứ, vì chết chóc nơi rừng thiêng nước độc. Bài viết mặc dù chỉ dừng lại
giới thiệu ca dao dân ca Nam Bộ - vùng đất mới nhưng đã tập trung đi thẳng
vào hình ảnh những con người khẩn hoang. Điều này cho thấy, từ trong ca
5
dao, dân ca, cuộc sống của người dân Nam Bộ, khẩn hoang là một hành trình
đầy ý nghĩa.
Tuy vậy, nhìn sang những nghiên cứu về văn học viết đề tài người nông
dân khẩn hoang Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy hầu hết các bài nghiên cứu đều
tập trung khám phá hình tượng nói chung, chưa gọi tên hay đúng hơn là chưa
đặt ra vấn đề khẩn hoang để lí giải hình tượng.
Hồ Biểu Chánh là tác giả khá nổi bật trong văn học Nam Bộ, ông được
coi là “nhà văn của người nông dân Nam Bộ” (Trần Hữu Tá). Nghiên cứu
nhiều nhất về tác giả này, chúng ta phải kể đến tác giả Huỳnh Thị Lan Phương
với các bài viết khá công phu: Tính cách người nông dân Nam Bộ trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh, Cái nhìn của Hồ Biểu Chánh về người nông dân Nam
Bộ, Sự kế thừa và đổi mới quan niệm về con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh...Tuy nhiên, hầu hết các bài viết này đều chỉ dừng lại nghiên cứu hình
tượng người nông dân Nam Bộ trên các phương diện như tính cách, nỗi khổ
từ áp bức giai cấp… từ đó khái quát quan niệm của tác giả về con người cũng
như thái độ với người nông dân Nam Bộ. Như vậy, hình tượng con người
khẩn hoang có xuất hiện trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh nhưng thực sự
chưa được phát hiện khi tiếp nhận. Điều này cũng có thể thấy ở các bài
nghiên cứu được post lên hobieuchanh.com…
Hình tượng người nông dân khẩn hoang Nam Bộ còn được xuất hiện
trong các sáng tác của những nhà văn giải phóng như Đoàn Giỏi, Nguyễn Thi,
Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng… Nhưng đậm nét nhất có lẽ phải kể đến
những sáng tác của Đoàn Giỏi, nhà văn của “đất rừng phương Nam”. Tuy
nhiên, nghiên cứu về các sáng tác của ông, các bài viết cũng chỉ ở mức độ
bình tán, hoặc chú trọng khai thác chất Tây Nam Bộ đặc sệt qua bối cảnh
thiên nhiên hoang dã, trú phú, con người trung hậu trí dũng, qua tập tục văn
hóa, ngôn ngữ, giọng điệu… Bài viết của tác giả Huỳnh Mẫn Chi khẳng định
6
“Sự tài tình của Đoàn Giỏi là như tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người
như thửa ông cha ta còn mang gươm mở cõi” [6] Như vậy, trên một phương
diện nào đó, bài viết đã nhìn nhận hình ảnh người nông dân khẩn hoang Nam
Bộ nhưng chỉ dừng lại mức độ “động chạm” khi tác giả nghiên cứu về Đất
rừng phương Nam và Núi cả cây ngàn - hai tác phẩm của Đoàn Giỏi. Những
bài viết khác của Nguyễn Bá, Đoàn Minh Tuấn đều chỉ dừng lại nhấn mạnh
tình yêu với mảnh đất Nam Bộ của tác giả qua sáng tác của mình.
Những nghiên cứu về sáng tác của các nhà văn giải phóng khác viết về
Nam Bộ như Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng... chủ yếu hướng
tới khám phá vẻ đẹp của những con người Nam Bộ trong chiến đấu, họ hiện
lên là những chiến sĩ anh hùng quả cảm như Chị Chiến, Việt, chị Sứ, chị Út
Tịch, anh Sáu… Những nhân vật đó cũng là những chủ nhân của miền đất
mới, họ chiến đấu bảo vệ miền đất mới, thực chất đó cũng chính là tinh thần
khẩn hoang, có điều, những nghiên cứu không gọi tên ra hiện tượng này.
Đến với những sáng tác của những nhà văn “nằm vùng”, sáng tác hợp
pháp trong lòng đô thị miền Nam, hình tượng người nông dân khẩn hoang
Nam Bộ thể hiện khá nổi bật. Trong các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc và
nhất là Sơn Nam, con người Nam Bộ khẩn hoang trở thành hình tượng nghệ
thuật đẹp mà người đọc không khỏi ngạc nhiên khi khám phá.
Nghiên cứu về hình tượng người nông dân khẩn hoang trong sáng tác
của cả ba tác giả Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam thực sự chưa có. Hầu
hết các bài nghiên cứu đều hướng vào những tác giả cụ thể.
Về tác giả Phi Vân, có thể nói những nghiên cứu đang ở mức hiếm hoi.
Theo tài liệu chúng tôi tìm được, có thể kể đến một số bài viết về tác giả này như:
1. Hồ Trường An, Phi Vân, nhà văn mở rộng dải đất bồi qua tập truyện
phong tục Đồng quê.
7
2. Trần Hữu Dũng, Phi Vân - nhà văn đồng quê rặt ròng Nam Bộ.
3. Nguyễn Văn Sâm, Giới thiệu ngắn gọn một nhà văn Phi Vân.
Trong số ít ỏi những nghiên cứu đó, bài viết của Nguyễn Văn Sâm,
đúng như tiêu đề, chỉ là những lời giới thiệu có tính chất tóm gọn trong ít lời
những ấn tượng về nhà văn Phi Vân. Bài viết của tác giả Hồ Trường An cũng
chỉ ở dạng liệt kê, giới thiệu tác phẩm và tóm tắt nội dung ý nghĩa của một số
tác phẩm trong phóng sự ngắn Đồng quê chứ chưa khái quát lên vấn đề gì.
Đáng chú ý hơn cả, trong bài viết của tác giả Trần Hữu Dũng khi nghiên cứu
về những sáng tác của Phi Vân dù còn khá ngắn gọn nhưng phần nào đã khái
quát được hình ảnh người nông dân Nam Bộ và không gian khẩn hoang của
họ. Đó là những con người “chất phác, cục mịch sống với tập tục cổ hủ, lạc
hậu, cuộc sông tối tăm miệt Hậu Giang…”, trong bối cảnh miền Tây Nam Bộ
với “những cái tên mang dấu ấn một thời của tổ tiên đi khai hoang, mở rộng
đất đai về phương Nam…”. Có thể xem đây là bài nghiên cứu có tính định
hướng hơn cả.
Như vậy, có thể thấy nghiên cứu về những sáng tác của Phi Vân còn
quá ít ỏi, và vì vậy, hình tượng người nông dân khẩn hoang trong sáng tác của
ông cũng đang chỉ mới được nhắc đến, chưa có khảo sát công phu qua thực tế
các tác phẩm.
Khác với Phi Vân, Bình Nguyên Lộc được nghiên cứu khá nhiều,
chúng tôi nhận thấy trên các trang báo điện tử nhiều bài viết về tác giả này.
Điểm chung của những bài viết này là mặc dù chỉ là những bài viết nhỏ
nhưng đã phát hiện ra những đặc điểm nổi bật của hình tượng người nông dân
khẩn hoang trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc đó là tình thần “nắm níu quê
hương”, “hoài niệm chốn thôn quê”, yêu thiết tha đất đai nguồn cội trong
cuộc “sinh tồn khốc liệt” để khẩn hoang miền đất mới. Có thể thấy điều này
trong bài viết của các tác giả như:
1. Vinh Lan, Những nắm níu của quê hương trong Cuống rún chưa lìa.
8
2. Trần Phỏng Diều, Con Tám cù lần của Bình Nguyên Lộc: người ở
thành thị hoài niệm về chốn thôn quê.
3. Nguyễn Vy Khanh, Bình Nguyên Lộc và tình đất.
4. Thụy Khê, Bình Nguyên Lộc, đất nước và con người.
5. Lê Phương Chi, Nhà văn Bình nguyên Lộc.
6. Nguyễn Thị Thu Trang, Con người và văn hóa Nam Bộ trong truyện
ngắn của Bình Nguyên Lộc.
7. Phạm Phú Phong, Văn chương Bình Nguyên Lộc- từ góc nhìn văn
hóa.
(…)
Trong những bài viết về Bình Nguyên Lộc, chúng tôi nhận thấy có hai
hướng tiếp cận nổi bật. Xu hướng nghiên cứu tác giả này trên việc khảo sát
tổng thể nhiều môn loại sáng tác của Bình Nguyên Lộc (khảo cứu, nhà báo,
nhà văn) có thể thấy trong bài viết của hai tác giả Phạm Phú Phong, Nguyễn
Vy Khanh. Việc nghiên cứu trên nhiều môn loại đã tạo cơ sở để các tác giả
khẳng định sáng tác của Bình Nguyên Lộc dù trên môn loại nào cũng “luôn
hướng về nguồn cội, luôn truy nguyên tìm kiếm nguồn gốc tổ tiên từ đất Bắc
di dân vào Nam”. Cho nên, suốt bài viết, các tác giả đã cố gắng làm rõ hình
ảnh những con người khẩn hoang Nam Bộ. Đây cũng có thể xem là một bài
nghiên cứu khá tập trung về vấn đề người nông dân khẩn hoang Nam Bộ. Đó
cũng là những tưu liệu để chúng tôi có cái nhìn toàn diện hơn về sáng tác của
Bình Nguyên Lộc nói chung.
Xu hướng thứ hai, hầu hết các bài viết tập trung nghiên cứu Bình Nguyên
Lộc trên những sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết. Dù sáng tác của Bình
Nguyên Lộc hướng tới nhiều chủ đề nhưng nhiều bài viết đã tập trung phát
hiện chủ đề khẩn hoang Nam Bộ qua hình tượng những con người khẩn hoang.
9
Có những bài viết nhìn nhận, phát hiện hình tượng người nông dân
khẩn hoang Nam Bộ qua một số sáng tác cụ thể như bài viết của Vinh Lan,
Trần Phỏng Diều… Đặc biệt, bài viết của tác giả Thụy Khuê với tựa đề Bình
Nguyên Lộc, đất nước và con người bên cạnh việc nhìn nhận một cách khái
quát nhưng khá đầy đủ về văn nghiệp của Bình Nguyên Lộc, bài viết đã có sự
khảo sát các sáng tác của nhà văn này, tập trung chủ yếu vào truyện ngắn, tiểu
thuyết, từ đó đưa ra một số luận điểm lớn khi nghiên cứu sáng tác của nhà văn
miền Đông Nam Bộ này. Tác giả Thụy Khuê qua bài viết đã có những phát
hiện quan trọng xung quanh hình tượng người nông dân khẩn hoang Nam Bộ,
tìm thấy nét độc đáo của việc thể hiện hình tượng thông qua so sánh với hai
nhà văn Nam Bộ khác là Đông Hồ, Hồ Biểu Chánh. “Cái gốc Bắc, tổ tiên
nguồn cội ngoài Bắc được Bình trân trọng tìm kiếm, không riêng gì khía cạnh
lịch sử Nam tiến, mà còn cả về nguồn cội ngôn ngữ”. Và Đò dọc là “tác phẩm
bao dung và nhân hậu, mở vòng tay chào đón đồng bào di cư, trong giai đoạn
lịch sử khó khăn, bằng con đường kết hợp dân tộc, bằng cách nhắc lại lịch sử
di dân, khai phá đất hoang, mở rộng bờ cõi và giao hòa ngôn ngữ”. Không
dừng lại đó, bài viết còn nhấn mạnh được tình đất, tình quê (nỗi nhớ quê qua
bước lang thang trên phố Sài Gòn), lịch sử di dân và cuộc đấu tranh sinh tồn
khốc liệt của những con người khẩn hoang Nam Bộ qua các sáng tác cụ thể
của Bình Nguyên Lộc. Người viết chú ý đến nghệ thuật viết truyện của Bình
Nguyên Lộc qua cách kể chuyện, cách xử lí hiện thực, sử dụng ngôn ngữ…
Bài viết đã cung cấp cái nhìn khá toàn diện, những phát hiện quan trọng, hợp
lí, sát thực qua khảo sát tác phẩm để chúng tôi có thể có những định hướng và
phát triển cho đề tài này.
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang tập trung làm rõ quan điểm
“hướng về quê hương, hướng về cội nguồn” qua các sáng tác của Bình Nguyên
Lộc khá hệ thống, rõ ràng bằng những khảo sát tác phẩm truyện ngắn cụ thể.
10
Bài viết đã hướng đến phân tích và lí giải một trong những phẩm chất nổi bật
của hình tượng người nông dân khẩn hoang miền Đông Nam Bộ “luôn gắn bó
với đất mẹ yêu thương”, “sống hòa đồng với tự nhiên”, trọng nghĩa tình làng
xóm… Bên cạnh đó, người viết còn khái quát nghệ thuật xây dựng hình tượng
qua không gian đô thị Sài Gòn sầm uất nhưng “con người vẫn chưa bứt hết mối
liên hệ với ruộng đồng, thôn xóm cũ”, không gian văn hóa với những tập quán,
sinh hoạt, không gian gặp gỡ chung sống của nhiều tộc người… Có thể xem đó
là những nghiên cứu dù chưa toàn diện nhưng có tính định hướng trong việc
khai thác hình tượng người nông dân khẩn hoang Nam Bộ.
Mặc dù, những bài viết về Bình Nguyên Lộc còn chưa nhiều, hầu hết
thiếu hệ thống và khảo sát cụ thể nhưng đó là những gợi ý nhất định cho
chúng tôi tiếp cận và khai thác đề tài.
So với Phi Vân, Bình Nguyên Lộc thì Sơn Nam là tác giả được nhiều
người nghiên cứu quan tâm hơn về vấn đề hình tượng người nông dân khẩn
hoang Nam Bộ. Bởi vì, so với hai tác giả trên, Sơn Nam trong khối lượng tác
phẩm khá đồ sộ trên nhiều môn loại của mình, luôn lấy cuộc khẩn hoang miền
Nam làm đề tài chính, suốt đời theo đuổi đề tài này, người nông dân khẩn
hoang, do vậy trở thành ám ảnh nghệ thuật, là “niềm day dứt khôn nguôi
trong tâm hồn nhà văn” [22, 26].
Tuy vậy, nghiên cứu về Sơn Nam và những sáng tác của ông xuất hiện
khá nhiều cách tiếp cận. Có nhiều bài viết hướng tới khai thác cuộc đời,
phong cách tác giả, khám phá vốn văn hóa Nam Bộ trong sự am hiểu, trong
giọng điệu, ngôn ngữ, không gian, thời gian, con người... trong đó dù ít nhiều
nhưng bài viết nào cũng “đụng” tới hình tượng người nông dân khẩn hoang
Nam Bộ - một hình tượng không thể không nhắc tới trong sáng tác của người
nghệ sĩ miền Tây Nam Bộ này.
Đó là những bài nghiên cứu nhỏ được đăng tải trên các trang báo điện
tử. Các bài viết tiêu biểu như:
11
1. Tạ Tỵ, Sơn Nam - Hơi thở của miền Nam nước Việt.
2. Trần Phỏng Diều, Hình tượng sông rạch trong truyện ngắn Sơn Nam.
3. Phan Hoàng, Mãi mãi sừng sững một ngọn núi văn học Phương Nam.
4. Huỳnh Công Tín, Nhà văn Sơn Nam, nhà Nam Bộ học.
5. Bùi Mới, Lang thang cùng ông già Nam Bộ.
6. Chu Văn Sơn, Vĩnh biệt nhà văn Sơn Nam.
7. Đinh Từ Bích Thúy, Sơn Nam xuyên bờ: Tình nghĩa giáo khoa thư ở
đầu thế kỷ 21.
8. Hoài Hương, Nhà văn Sơn Nam theo cuộc dạo chơi tuổi già.
9. Nguyễn Mạnh Trinh, Sơn Nam, "ông già Ba Tri" của đồng bằng
Nam Bộ.
10. Lý Lan, Lần theo Hương rừng Cà Mau.
(…)
Những bài viết trên cho thấy được tầm vóc và vị trí của Sơn Nam trong
văn học Việt Nam, nhất là văn học Nam Bộ. Dưới những góc nhìn khác nhau,
các bài viết đã thể hiện được (dù còn mang tính tản mạn) một phương diện nào
đó sự độc đáo của hình tượng người nông dân khẩn hoang Nam Bộ trong các
sáng tác nghệ thuật của Sơn Nam, tập trung ở bộ sách Hương rừng Cà Mau.
Bài viết của Tạ Tỵ có thể xem là những nghiên cứu vào loại đầu tiên về
sáng tác của Sơn Nam. Trong bài, tác giả có nhấn mạnh đến hình tượng
những con người của quá khứ, của dĩ vãng mà chúng ta “viết tên họ trong
cuộc đấu tranh của dân tộc” mà Sơn Nam đã đưa họ “sống lại trong văn
chương”. Thực chất, họ là những bậc tiền nhân trong cuộc đấu tranh giữ đất,
mở đất, tạo dựng nên miền Nam ngày hôm nay. Bài viết tiếp cận những con
người khẩn hoang trong tác phẩm của Sơn Nam từ những phẩm chất, tính
cách nổi bật của họ, đó là tình thương đồng loại “trong cảnh sống cơ cực của
bước đầu khai phá, những con người thương mến nhau qua hoạn nạn, cùng
cảm thông với nỗi cơ cực bần hàn”, là tấm lòng tha thiết với cố hương của
12
những người xa xứ, “Sơn Nam đã dùng văn chương để gửi gắm nỗi khắc
khoải, nỗi nhớ quê cha đất mẹ”, là những con người căm thù giặc Pháp, sống
sòng phẳng ơn trả nghĩa đền,… Đây là nghiên cứu vào loại đầu tiên về Sơn
Nam, nhưng dưới cách này hay cách khác, hình tượng con người trong tác
phẩm Sơn Nam được Tạ Tỵ tiếp cận đúng mạch chủ lưu đó là hình tượng
những con người khẩn hoang Nam Bộ. Tuy nhiên hạn chế của bài viết là đang
cảm nhận chung, thiếu sự lí giải và phân tích theo hệ thống cần thiết, bài viết
vì thế vẫn chưa làm nổi rõ hình tượng người nông dân khẩn hoang Nam Bộ
trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn Hương rừng Cà Mau này.
Huỳnh Công Tín tiếp cận Sơn Nam qua bài viết “Nhà văn Sơn Nam,
nhà Nam Bộ học” đã đưa ra luận điểm về hình tượng con người được khắc
hoạ trong tác phẩm Sơn Nam. Đó là những con người mộc mạc, bộc trực chân
thành hào hiệp, những con người khẩn hoang hiên ngang đẹp đẽ. Người viết
đã đi vào ngôn ngữ của nhân vật để khám phá tính cách Nam Bộ “ngôn ngữ
nhân vật trong truyện Sơn Nam là ngôn ngữ thường nhật của người Nam Bộ,
nó thể hiện tính cách và tâm lí ứng xử của người Nam Bộ”, đây cũng là một
khám phá hợp lí, nhất là đối với nhân vật của Sơn Nam.
Có thể thấy rằng, dưới cách này hay cách khác, hai bài viết trên đã đề
cập đến hình tượng những nhân vật khẩn hoang Nam Bộ, dòng chủ lưu trong
sáng tác của Sơn Nam đặc biệt trong bộ sách Hương rừng Cà Mau. “Sơn
Nam dẫn dắt chúng ta qua tác phẩm để tìm lại sức sống, một sức sống tiềm
tàng, phong phú của những con người coi nhẹ gian lao, cực khổ, khinh cái
chết, trọng tiết tháo và giàu lòng nhân từ trong buổi đầu đi tìm đất mới” [94]
Khác với những bài viết đang còn mang tính ấn tượng, bình tán, Trần
Phỏng Diều tiếp cận tác phẩm của Sơn Nam ở một vấn đề cụ thể đó là không
gian nghệ thuật trong truyện ngắn Sơn Nam - không gian sông rạch. Không
gian sông rạch trở thành bối cảnh để con người khẩn hoang thể hiện sự ứng
xử của mình với tự nhiên. Đây là một cách nhìn có cơ sở. Theo tác giả, trong
13
không gian đó, con người hoà mình với thiên nhiên, để am hiểu thiên nhiên,
để tồn tại, sinh nhai trong buổi đầu khai hoang đầy gian khó. Bên cạnh không
gian sống, sông nước còn là không gian văn hoá, những điệu hò, những đêm
hát bội, từ đó giúp ta hiểu thêm tâm hồn của cha ông trong những ngày đầu
tìm đường sống. Mặc dù người viết chưa đi đến khái quát bối cảnh khẩn
hoang nhưng điều đáng quý là bài viết đã nhìn thấy không gian sinh tồn,
không gian văn hoá, vốn rất đặc trưng trong “Hương Rừng Cà Mau”. Đây là
một gợi ý cho chúng tôi khi đi vào khai thác nghệ thuật xây dựng hình tượng
trong truyện ngắn Sơn Nam.
Gần đây nhất, bài viết của tác giả Phan Huy Dũng trích trong Tác phẩm
văn học trong nhà trường, một góc nhìn, một cách đọc với tựa đề: Bắt sấu
rừng U Minh hạ - câu chuyện về những con người khẩn hoang giàu nghĩa khí
đã tập trung đi sâu vào hình tượng trung tâm là những người nông dân khẩn
hoang Nam Bộ. Bài viết tuy chỉ dừng lại ở một truyện ngắn cụ thể nhưng với
việc tiếp cận trên văn bản tác phẩm và việc khai thác từ hình tượng thẩm mĩ
trung tâm, bài viết đã kết dính được chỉnh thể các yếu tố xung quanh tác
phẩm, tạo nên một cái nhìn thuyết phục. Bài viết đã gợi ra những ý tưởng và
hướng đi cho chúng tôi khi khảo sát tiếp cận hình tượng trên toàn bộ tập
Hương rừng Cà Mau.
Nhìn chung, các bài viết, dưới hình thức này hay hình thức khác đều có
đề cập đến hình tượng những người dân khẩn hoang, một hình tượng trung
tâm không thể không nói đến trong sáng tác của Sơn Nam. Mặc dù hạn chế
của những bài viết là đang ở dạng tản mạn, hoặc thiếu tính hệ thống, hoặc
thiếu khảo sát toàn diện song đó là những tư liệu cần thiết để chúng tôi khám
phá hình tượng.
Điểm qua những nghiên cứu về hình tượng người nông dân khẩn hoang
trong sáng tác của Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy
hầu hết các bài viết đã phân tích vào một số điểm nhấn nổi bật của hình
14
tượng, một số đi vào nghệ thuật xây dựng hình tượng, ý nghĩa, nguồn gốc của
hình tượng… Tuy nhiên, các bài viết chỉ nghiên cứu riêng biệt từng tác giả
hoặc nghiên cứu thiếu hệ thống, toàn diện do thiếu khảo sát cụ thể tác phẩm.
Trên cơ sở tham khảo những nghiên cứu đó, công trình của chúng tôi đi
nghiên cứu tập trung vào vấn đề: Hình tượng người nông dân khẩn hoang
trong văn xuôi tự sự của Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam nhằm cố gắng
xác lập một cái nhìn hệ thống, chỉn chu và toàn diện hơn về hình tượng nghệ
thuật lớn này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hình tượng người nông dân khẩn
hoang trong văn xuôi tự sự của Phi Vân, Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đưa lại cái nhìn tổng quan về hình tượng người nông dân khẩn
hoang trong văn xuôi Nam Bộ thế kỷ XX.
4.2. Phân tích nhận thức thẩm mỹ về những phẩm chất của người nông
dân khẩn hoang trong văn xuôi tự sự Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.
4.3. Làm sáng tỏ những thành công của các nhà văn Phi Vân, Bình
Nguyên Lộc, Sơn Nam khi vận dụng các phương thức nghệ thuật nhằm thể
hiện hình tượng người nông dân khẩn hoang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương
pháp như: phương pháp phân loại, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp hệ thống…
6. Đóng góp của luận văn
15
- Xác lập một cách nhìn toàn diện và có hệ thống về hình tượng người
nông dân khẩn hoang trong văn học Nam Bộ thế kỷ XX.
- Phát hiện những đặc sắc về cách nhìn của những nhà văn Nam Bộ về
hình tượng người nông dân khẩn hoang Nam Bộ.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1. Người nông dân khẩn hoang - một hình tượng lớn của văn
xuôi Nam Bộ thế kỷ XX.
Chương 2. Nhận thức thẩm mỹ về những phẩm chất người nông dân
khẩn hoang trong văn xuôi nghệ thuật của Phi Vân, Bình
Nguyên Lộc, Sơn Nam.
Chương 3. Các phương thức thể hiện hình tượng người nông dân
khẩn hoang trong văn xuôi nghệ thuật của Phi Vân, Bình
Nguyên Lộc, Sơn Nam.
- Xem thêm -