Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tƣợng con ngƣời trong nghệ thuật gốm việt nam thời lê sơ (1428 1527)...

Tài liệu Hình tƣợng con ngƣời trong nghệ thuật gốm việt nam thời lê sơ (1428 1527)

.PDF
208
29
59

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHAN THANH SƠN HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC Ngành: Mỹ học Mã số: 92 29 007 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 1. GS. TS. Tạ Ngọc Tấn 2. PGS. TS. Vũ Thị Phƣơng Hậu HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong luận án này là trung thực và không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định. Nghiên cứu sinh Phan Thanh Sơn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT A Ảnh BĐ Bản đồ CTST Chủ thể sáng tạo ĐK Đường kính H Chiều cao HTCN Hình tượng con người HTNT Hình tượng nghệ thuật NCS Nghiên cứu sinh NNƯT Nghệ nhân ưu tú NXB Nhà xuất bản PGS. TS Phó giáo sư. Tiến sĩ PL Phụ lục QHTM Quan hệ thẩm mỹ TNPT Tín ngưỡng phồn thực TNTG Tín ngưỡng tôn giáo Tr Trang VHXH Văn hóa xã hội MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2. Cơ sở lý luận 1.3. Một số khái niệm sử dụng trong luận án Tiểu kết Chương 1 Chƣơng 2: KHÁI LƢỢC VỀ THỜI LÊ SƠ VÀ NGHỀ GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ 2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời Lê sơ (1428 - 1527) 2.2. Nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ Tiểu kết Chương 2 Chƣơng 3: NỘI DUNG VÀ NGÔN NGỮ THỂ HIỆN HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM THỜI LÊ SƠ 3.1. Nội dung thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ 3.2. Ngôn ngữ thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ Tiểu kết Chương 3 Chƣơng 4: CÁC GIÁ TRỊ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ VỚI NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 4.1. Giá trị thẩm mỹ của hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ 4.2. Phát huy giá trị hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ với nghệ thuật gốm đương đại Tiểu kết Chương 4 KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Trang 1 9 9 21 26 38 39 39 45 62 64 64 90 110 112 112 132 152 153 155 156 161 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuyên suốt diễn trình phát triển của lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam, nghệ thuật gốm từ buổi đầu xuất hiện đến nay vẫn là một bộ phận cấu thành quan trọng, không thể tách rời, đặc biệt là ở phương diện tạo hình, từ hình khối cùng các thủ pháp tạo hình, màu sắc đặc trưng cho đến trang trí thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật (HTNT) biểu hiện thành những mảng đề tài, tất cả đều mang tính thống nhất trong sự phản ánh các mối quan hệ của con người trong đời sống tự nhiên và xã hội. Xuất hiện từ sơ kỳ đá mới, nghệ thuật gốm thể hiện tính hình tượng bằng hệ thống biểu tượng về thế giới tự nhiên mang tính kỹ thuật nhiều hơn là mỹ thuật. Đến thời đại kim khí, hình tượng con người (HTCN) đã xuất hiện trong trang trí đồ đồng. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lịch sử dân tộc có thể bị gián đoạn, nhưng văn hóa vẫn tiếp biến tự nhiên. Trong những giai đoạn lịch sử này, HTCN trong mỹ thuật truyền thống của người Việt vẫn chủ yếu xuất hiện trong trang trí đồ đồng và một số chất liệu khác như gỗ, đá, chưa thấy trên chất liệu gốm. Bước sang thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, hơi thở tự do đã đem lại sinh khí mới cho nền mỹ thuật dân gian truyền thống Việt Nam, cùng đó là tinh thần “giải Hoa” bộc lộ rõ nét trong từng dấu ấn văn hóa nghệ thuật. HTCN xuất hiện trong mọi loại hình nghệ thuật. Với nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống, thời Lý, HTCN trong nghệ thuật gốm biểu hiện sự tiếp biến với các yếu tố văn hóa Ấn Độ thông qua sự du nhập nghệ thuật tạo hình Chăm pa. Thời Trần, hào khí Đông A tạo nên HTCN gắn liền với công cuộc giữ nước, đánh đuổi ngoại xâm, phong cách hồn nhiên, tối giản của mỹ thuật dân gian là chủ đạo. Đến thời Lê sơ, cương vực Đại Việt đã mở rộng về phía Nam đến Quảng Nam, nhưng về cơ bản mọi hoạt động kinh tế, chính trị cũng như đặc trưng văn hóa vẫn biểu hiện rõ hơn cả ở khu vực Bắc bộ, hình thái xã hội phong kiến dân tộc độc tôn tư tưởng Nho giáo làm nền tảng dần trở nên hoàn thiện, ảnh hưởng của Phật giáo, Lão giáo bị hạn chế, nghệ thuật dân gian ở các thời kỳ trước, đặc biệt là mỹ thuật không được chú trọng phát triển. Tuy vậy, thời kỳ này nghệ thuật gốm đã phát triển mạnh với dòng gốm hoa lam chủ đạo trên mọi phương diện tạo hình của nghệ thuật gốm Việt Nam. Trong hệ thống hình tượng của nghệ thuật trang trí trên gốm 2 thời Lê sơ, HTCN xuất hiện trong mọi loại hình: từ sản phẩm ứng dụng đến tượng điêu khắc gốm với sự phản ánh phong phú từ biểu hiện cho thế giới tự nhiên, các tích thần thoại trong nước và ngoài nước, đến các nội dung phản ánh hiện thực của đời sống xã hội... Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, nghệ thuật gốm cũng như HTCN trên đồ gốm đã được đề cập trong rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu ở các lĩnh vực lịch sử, khảo cổ, văn hóa, mỹ thuật học, nhưng hầu hết chỉ tập trung vào từng lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, cũng như chưa có nghiên cứu nào được soi xét và mang tính tổng hợp để có thể đưa ra được những kết quả có giá trị khoa học một cách đầy đủ, đặc biệt là với hình tượng con người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ. Chính bởi lẽ đó, cho đến nay tuy đã có một số minh chứng cụ thể khẳng định tính đặc trưng riêng biệt của nghệ thuật gốm Việt Nam nói chung, giá trị nghệ thuật cũng như giá trị văn hóa thông qua hệ thống biểu tượng, HTNT..., nhưng các vấn đề nghiên cứu như hình tượng con người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, cùng các giá trị thẩm mỹ của nó vẫn chưa được đặt trong các quan hệ thẩm mỹ (QHTM) để đánh giá khách quan, cũng như vẫn chưa có sự thống nhất bởi vẫn còn tồn tại những tư duy chủ quan về nghiên cứu nghệ thuật gốm trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực. Với tư cách là một khoa học nghiên cứu sự vận động của các quan hệ thẩm mỹ trong hiện thực, trong tâm hồn và trong nghệ thuật, mỹ học và cụ thể là Mỹ học Mác - Lê nin lấy QHTM giữa con người và hiện thực làm nền tảng, cái đẹp là trung tâm, hình tượng là đặc trưng cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất [22,tr40]. Khái niệm trên cho thấy, khoa học mỹ học mang tính biện chứng tuân theo các quy luật khách quan nghiên cứu dựa trên cơ sở các mối quan hệ xã hội, quan hệ của con người với hiện thực, tự nhiên, trên cơ sở kết quả nghiên cứu khu biệt trong từng lĩnh vực khoa học liên quan, trên nền tảng các QHTM thông qua biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật, của HTNT, để làm nổi bật giá trị của cái đẹp trong các mối quan hệ phức tạp trong đời sống xã hội của con người, cùng những tác động tích cực cũng như tiêu cực trong quá trình vận động của lịch sử phát triển xã hội loài người. Bởi vậy mỹ học cũng được ví như là triết học của cái đẹp. Mặt khác, sự ra đời của các hình thái xã hội cùng các mối quan hệ trên mọi phương diện đều là sản phẩm của con người và được phản ánh bởi con người. Nói cách khác, con người là đầu mối, là nguồn gốc và cũng là nguyên nhân trong mọi biến đổi 3 của đời sống xã hội, HTCN trong nghệ thuật cũng vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong các QHTM và trong hệ thống các hình tượng nghệ thuật, HTCN cũng chính là biểu hiện tập trung nhất cho các giá trị thẩm mỹ cũng như giá trị nhân văn gắn liền với sự phản ánh khát vọng vươn tới cái đẹp của con người trong đời sống thẩm mỹ dân tộc cũng như cho văn hóa dân tộc. Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh (NCS) mạnh dạn chọn đề tài “Hình tƣợng con ngƣời trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ (1428 1527)” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Mỹ học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các tài liệu lịch sử, hiện vật và tư liệu điền dã, luận án nghiên cứu làm sáng tỏ đặc trưng nghệ thuật, sự vận động và giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ, từ đó bàn luận nhằm phát huy giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam từ truyền thống đến đương đại, góp phần xây dựng một đời sống thẩm mỹ hiện đại, nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ; - Đánh giá khái quát về bối cảnh lịch sử, các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và tình hình phát triển nghề gốm thời Lê sơ; - Làm sáng tỏ nội dung và hình thức thể hiện HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ trong các QHTM; - Đưa ra các ý kiến bàn luận về giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ và các khuyến nghị về phát huy giá trị trong sự phát triển của nghệ thuật gốm ngày nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ qua sự biểu hiện trên các hiện vật, qua các tài liệu nghiên cứu khảo cổ, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Khảo sát tiến trình phát triển của Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ trong sự phát triển chung của mỹ thuật truyền thống từ năm 1428 đến năm 1527. Khảo sát sự thể hiện HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam đương đại (từ những năm 2000 đến nay), nhằm phát huy giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam ngày nay. - Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ tập trung vào trung tâm văn hóa cơ bản của tộc người chủ thể là người Việt vùng Châu thổ Bắc bộ, và đó cũng chính là giới hạn không gian của vấn đề cần nghiên cứu của đề tài đặt ra từ góc độ khoa học biện chứng của mỹ học Mác - Lênin. - Phạm vi địa bàn khảo sát, điền dã: Thực hiện khảo sát, điền dã chủ yếu trên địa bàn Hà Nội, Hải Dương, tập trung vào các trung tâm gốm có truyền thống lâu đời như Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu, Cậy (Hải Dương) và một số hiện vật lịch sử, các bộ sưu tập tại các bảo tàng... 4.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án sử dụng mỹ học Mác - Lê nin làm nền tảng cơ sở lý luận, trong đó vận dụng hai lý thuyết: - Lý thuyết giá trị thẩm mỹ lấy chuẩn mực đánh giá giá trị thẩm mỹ có ba tiêu chí: tiêu chí về tính sáng tạo, tiêu chí về tính nhân văn, tiêu chí về sự hài hoà và hoàn thiện thẩm mỹ. - Lý thuyết phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời, quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điền dã Phương pháp điền dã là phương pháp dựa vào các chuyến đi thực tế tại địa bàn để tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập thông tin cần tìm hiểu. Phương pháp này có vai trò quan trọng trong tiếp cận đối tượng nghiên cứu. 5 Trong quá trình nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ, NCS đã vận dụng phương pháp điền dã để thực hiện những chuyến đi thực tế đến các cơ sở sản xuất gốm sứ có truyền thống từ thời Lê sơ như Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Hải Dương), các bảo tàng..., tìm kiếm thêm những hiện vật, thông tin phục vụ đề tài. - Phương pháp phỏng vấn sâu Phỏng vấn sâu là phương pháp phỏng vấn nhằm giúp người nghiên cứu hiểu sâu, hiểu kỹ về vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu, được thực hiện trong quá trình điền dã. Phỏng vấn sâu là phương tiện tốt cho nghiên cứu nhằm chỉ ra bản chất, mô hình cấu trúc của hiện tượng. Thông qua các câu hỏi mở có chủ định theo chủ đề, theo khách thể để người được phỏng vấn hoàn toàn khách quan trong trả lời. Phương pháp này dùng để phỏng vấn các cá nhân nhà nghiên cứu, họa sỹ, nghệ nhân..., có trình độ hiểu biết về nghệ thuật gốm thời Lê sơ để lý giải về các biểu hiện phản ánh trong HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã thực hiện phỏng vấn, nói chuyện với một số nghệ nhân ở Bát Tràng: Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Văn Hoạt, Vũ Thị Hải Lý…; Với một số nghệ nhân, họa sỹ ở Chu Đậu: Nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Hạ Bá Định, Hạ Quang Long (Hải Dương); các họa sỹ gốm như Đặng Toàn Hưng, Hoàng Tiến Thanh, kỹ sư silicat Nguyễn Phương Loan (chuyên ngành Gốm - Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp), nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Thủy (Giám đốc Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền); một số nhà nghiên cứu như Vũ Đình Nhâm (Ban Mỹ thuật ứng dụng - Viện Mỹ thuật, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam), họa sỹ Nguyễn Hải Ninh (Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch)… - Phương pháp tổng hợp, hệ thống Tập hợp các nguồn tư liệu gồm: Các nguồn sử liệu được ghi chép chính thống; các nguồn phi chính thống như truyền thuyết dân gian; các công trình nghiên cứu đã được công bố; các ghi chép, phỏng vấn trong qua trình điền dã; các loại hình nghệ thuật có liên quan; thông tin internet. Qua khai thác tư liệu tổng hợp từ các nguồn nhằm hệ thống lôgíc về tiến trình phát triển, sự phản ánh các QHTM của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ trong các quan hệ của đời sống xã hội, làm cơ sở thực hiện phương pháp phân tích để tìm ra cách tiếp cận mới cũng như những luận điểm khoa học trong nghiên cứu của mình. 6 - Phương pháp phân tích tài liệu Phương pháp phân tích tài liệu là sử dụng kết quả nghiên cứu được hệ thống từ các phương pháp điền dã, phỏng vấn, tổng hợp các nguồn tư liệu… để rút ra những thông tin cần thiết, đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Khi nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ, NCS đã sưu tầm nhiều tài liệu thuộc nhiều chuyên ngành lịch sử, khảo cổ, lịch sử mỹ thuật, văn hóa… Tuy nhiên, trong sự hạn chế của các tài liệu chuyên khảo về HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, giữa các tài liệu ở các chuyên ngành khác nhau vẫn có sự chưa thống nhất, nhìn chung là chỉ khái lược chung chung. Do đó, việc xử lý thông tin cần người nghiên cứu phải cẩn trọng, tỷ mỷ và công phu. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành Vận dụng, sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học như: văn hóa học, mỹ thuật, dân tộc học, xã hội học, sử học... trong các quan hệ với mỹ học để làm rõ các vấn đề về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Sử dụng các thuật ngữ, khái niệm, các khái quát lý luận của các khoa học khác trong nghiên cứu về mỹ thuật, văn hóa để tiến hành nghiên cứu về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. - Phương pháp so sánh, đối chiếu Phương pháp này được sử dụng trong nhiều ngành khoa học. Vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu sẽ giải quyết được một số vấn đề phát sinh trong quá trình nghiên cứu về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Với phương pháp này, NCS sẽ thực hiện việc so sánh đối chiếu giữa kết quả tổng hợp tài liệu với kết quả thu thập từ nghiên cứu điền dã, quan sát tham dự và phỏng vấn sâu để phân tích tìm ra được sự tương đồng và khác biệt về thể hiện HTCN trong nghệ thuật gốm qua các giai đoạn lịch sử, trong QHTM với các chất liệu khác của mỹ thuật dân gian Việt Nam, cũng như trong QHTM với các quốc gia khác, điển hình là Trung Quốc các thời Tống, Nguyên, đặc biệt là thời Minh để nhận biết những điểm tương đồng, khác biệt, phổ biến, đa dạng, kế thừa, tiếp biến, giao lưu văn hóa cũng như những giá trị đặc trưng mang tinh thần độc lập dân tộc. - Phương pháp hệ thống - cấu trúc Phương pháp này nhằm tiếp cận hệ thống đi từ chỉnh thể đến các thành tố hợp thành của HTCN và mối quan hệ nội tại của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt 7 Nam thời Lê sơ; đi từ các bộ phận, các thành tố biểu hiện của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội thời Lê sơ để nhận diện về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Phân tích cấu trúc HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ về đặc điểm nhân dạng, các yếu tố biểu tượng theo quy luật trong chỉnh thể thống nhất. 5. Giả thuyết nghiên cứu - Vẫn có một mạch nguồn mỹ học dân tộc chảy từ quá khứ đến hiện tại trong nghệ thuật gốm Việt Nam. Đặc biệt là dòng gốm hoa lam thời Lê sơ, các biểu hiện đặc trưng nghệ thuật cũng như giá trị thẩm mỹ của nó vẫn đang giữ một vị trí quan trọng trong sự đa dạng của nghệ thuật gốm Việt Nam đương đại. - Hình tượng nghệ thuật là biểu hiện mang tính người cao nhất và HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống là biểu hiện tập trung nhất của mỹ học dân gian truyền thống. - Đời sống thẩm mỹ ở mọi thời đại, giữa truyền thống và hiện đại luôn tồn tại mối quan hệ có tính tương tác, nó là những nhân tố quan trọng tác động tới cả chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ, tạo nên giá trị thẩm mỹ cho HTCN trong nghệ thuật nói chung, nghệ thuật gốm nói riêng. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Trên phương diện ý nghĩa khoa học, nghiên cứu Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ nhằm đóng góp một cách có hệ thống về các QHTM, thực chất là quan hệ của con người với hiện thực trong bối cảnh đời sống, xã hội, của từng giai đoạn phát triển lịch sử văn hóa học, lịch sử học, dân tộc học, xã hội học, triết học dân tộc trong sự bất phân của văn - sử - triết... bằng đặc trưng của HTNT. Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài nghiên cứu sẽ đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn, xác định rõ nền tảng phát triển của đời sống thẩm mỹ, quy luật vận động. Đồng thời làm rõ diễn biến những tác động từ đời sống văn hóa xã hội cũng như áp lực chính trị vào các QHTM thông qua Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Vận dụng sức mạnh của HTNT để tạo nên một môi trường văn hóa thẩm mỹ nhằm phát huy triệt để các chức năng xã hội của nghệ thuật, tạo ra những tác động mang tính giáo dục tích cực tới nhận thức về văn hóa dân tộc và thẩm mỹ dân tộc 8 trong xã hội Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, để từ đó tạo được nền tảng vững chắc cho sự phát triển nghệ thuật gốm hiện đại mang đậm tính thời đại bằng màu sắc văn hóa nghệ thuật bản địa. Trên cơ sở những nhận định rút ra từ quá trình nghiên cứu, đề tài đưa ra một số đề xuất cụ thể nhằm có được phương thức chuyển tải những yếu tố bản sắc văn hóa trong nghệ thuật gốm, đặc trưng thẩm mỹ của người Việt kết hợp với HTCN thông qua ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại để tạo ra một cấu trúc mở, sẵn sàng tiếp nhận những cái mới, cái hiện đại, đặc biệt là phát huy năng lực bản địa hóa các yếu tố ngoại lai trong tiến trình hội nhập, nhưng vẫn giàu bản sắc truyền thống của người Việt. Các họa sỹ, nghệ nhân có thể lấy đó làm gợi ý, tiền đề về mặt lý luận để chủ động vận dụng, đưa yếu tố văn hóa, bản sắc dân tộc vào nghệ thuật gốm một cách hài hòa, hợp lý, phù hợp, không gượng ép, dung hòa với các tiêu chí khác của đời sống nghệ thuật; giữa phong cách, tính thẩm mỹ dân tộc với yêu cầu thực tiễn trong các QHTM và đời sống xã hội. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của luận án Chương 2: Khái lược về thời Lê sơ và nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ. Chương 3: Nội dung và ngôn ngữ thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Chương 4: Các giá trị và phát huy giá trị thẩm mỹ của hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ với nghệ thuật gốm Việt Nam đương đại. 9 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Hình tượng con người là một đề tài hằng xuyên trong diễn trình lịch sử mỹ thuật Việt Nam nói chung, trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ cũng không phải là ngoại lệ. Trong sự vận động của các QHTM giữa con người và hiện thực, bằng ngôn ngữ nghệ thuật đặc trưng của chất liệu gốm, HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ biểu hiện sự vận động của cái đẹp trong các hình thức tồn tại khác nhau nghệ thuật tạo hình. Mặt khác, thông qua HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, đời sống thẩm mỹ của một giai đoạn lịch sử được tái hiện tương đối đầy đủ trong sự phức hợp của các QHTM với hiện thực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nó là biểu hiện của một lĩnh vực tinh tế và nhạy cảm của đời sống tinh thần con người, một bộ phận hữu cơ cấu thành văn hóa nhân loại, biểu hiện trình độ phát triển cao của các quan hệ văn hóa, xã hội. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu (cả trong nước và nước ngoài) ở rất nhiều góc độ khác nhau (triết học, văn hóa học, nghệ thuật học...), với những mức độ khác nhau (liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp) bàn về chủ đề nghệ thuật gốm, HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ. Theo đó, NCS tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án “Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ” với các chủ đề sau: - Nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam và nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ; - Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa, xã hội với lịch sử hình thành và phát triển nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam thời Lê sơ; - Nghiên cứu về HTNT và HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. 1.1.1. Nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam và nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ Trước hết, phải kể đến công trình Lược sử mỹ thuật và mỹ thuật học của nhóm tác giả Chu Quang Trứ, Phạm Thị Chính, Nguyễn Thái Lai. Trong cuốn sách này, phần hai “Lịch sử mỹ thuật Việt Nam”, chương VI: Mỹ thuật thời Lê sơ 10 [46,tr194] có đề cập đến sự phát triển của mỹ thuật thời Lê sơ là một tổng thể của ba loại hình nghệ thuật kiến trúc (kiến trúc cung đình và kiến trúc tôn giáo), điêu khắc và hội họa. Tuy không đề cập đến chất liệu gốm cũng như nghệ thuật gốm nhưng cuốn sách này đã khái lược những nét cơ bản về mỹ thuật thời Lê sơ, cùng những khái niệm cơ bản về mỹ thuật nói chung có thể áp dụng cho các chất liệu được sử dụng trong sáng tác mỹ thuật. Cuốn sách Mỹ thuật của người Việt của Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng nghiên cứu tổng quan lịch sử phát triển của mỹ thuật Việt Nam truyền thống từ thời kỳ đồ đá đến đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu về nghệ thuật gốm thời Lê sơ, các tác giả đã nêu được đặc trưng chất liệu là gốm men trắng ngà, vẽ màu lam bằng bút mềm tự do [32,tr138], phong cách nghệ thuật mang tính mô tả giản lược, cùng một số nhận xét tương đối rõ nét về diện mạo mỹ thuật thời Lê sơ như sự kết hợp không nhuần nhuyễn, sự tiếp thu chưa chọn lọc..., nên còn thấy rõ dấu hiệu của sự gắn ghép các yếu tố nghệ thuật Trung Hoa với truyền thống trong nước. Đây là một đặc điểm quan trọng nói lên tính chất giao thời của nghệ thuật Lê sơ [32,tr138]. Các tác giả cho rằng về sự áp dụng Khổng giáo, thời Lê sơ đã tỏ ra bất lực trước nhiệm vụ, vai trò mà vương quyền giao cho, để rồi “nghệ thuật tạo hình thời Lê sơ là một thử nghiệm không thành công của nghệ thuật cung đình - tập quyền và Khổng giáo khủng hoảng” [32,tr118]. Trong bối cảnh đó, “bia đá và đồ gốm chính là thành tựu lớn đã tạo ra trường phái và phong cách duy nhất của thế kỷ này với một nhân tố mới là “sự thanh thoát và mộc mạc có học, vừa hiện thực vừa tinh thần hóa cao” Cuốn Mỹ thuật thời Lê sơ, Nguyễn Đức Nùng cũng đề cập đến 4 thể loại mỹ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội họa trang trí và đồ gốm như hai công trình nghiên cứu trình bày ở trên [29,tr66-71]. Cuốn sách Một con đường tiếp cận lịch sử của tác giả Trần Lâm Biền là một tập hợp các nghiên cứu về mỹ thuật và kiến trúc dưới góc độ tâm linh của người Việt cổ [5]. Dựa vào đặc trưng kết cấu xã hội của người Việt, tác giả từng bước nghiên cứu bản chất của xã hội đó đến sự hình thành nhận thức thẩm mỹ cũng như quan niệm về cái đẹp của người Việt, đặc biệt là sự giải mã các hình tượng, biểu tượng, cũng như giá trị nhân văn của nó trong đời sống xã hội, có liên quan đến giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Cuốn Nghệ thuật gốm Việt Nam của Trần Khánh Chương [9], với 158 trang nội dung là kết cấu của những bài viết giới thiệu khái lược tổng quan nghệ thuật 11 gốm Việt Nam trên hai phương diện, chất liệu kỹ thuật và nghệ thuật ở một số dòng gốm truyền thống chủ đạo như gốm hoa nâu, gốm men ngọc, gốm hoa lam. Năm 2001, trong cuốn Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ, tác giả Trần Khánh Chương đã tập hợp 30 bài viết về gốm Việt Nam của mình. Trong các bài: Nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam, tr. 130, Tượng gốm Việt Nam, tr. 229, và Gốm từ truyền thống đến hiện đại, tr. 274, với khái niệm “Gốm hoa lam là thuật ngữ để chỉ các loại sản phẩm gốm được trang trí bằng hoa văn màu lam, mà chất liệu phát màu chủ yếu là ô xít”[10,tr131]. Theo ông, thời Lê sơ, gốm hoa lam là những sản phẩm có phẩm chất kỹ thuật cao, nghệ thuật độc đáo, thu hút được người dùng, khiến nó thay thế dần gốm hoa nâu nổi tiếng của thời Lý - Trần. Về cơ bản luận án có thể kế thừa và phát triển sâu hơn trong luận giải về hình thức biểu hiện của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Trong cuốn Hoàng thành Thăng Long, Viện Khoa học xã hội Việt Nam Viện Khảo cổ học - 2006, NCS quan tâm đến chương IV giới thiệu về đồ gốm sứ trong hoàng cung Thăng Long, trong đó có gốm thời Lê sơ đã được phân loại và xác định chủ yếu là loại gốm xương mỏng thấu quang có minh văn là chữ “quan” được sản xuất ở lò quan Thăng Long với chất lượng tốt nhất và đây chính là những đồ ngự dụng dành cho vua nhà Lê sơ[21,tr74 ] bên cạnh những trung tâm gốm hoa lam như Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Nam Sách - Hải Dương). Trong cuốn Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition (Gốm Việt Nam: một truyền thống riêng biệt) của John Stevenson & John Guy (eds), NCS tập trung vào một số bài sau: John Guy trong bài Vietnamese Ceramics and Cultural Identity (Gốm Việt Nam và bản sắc văn hóa) đã nghiên cứu nghệ thuật gốm Việt Nam trong mối quan hệ văn hóa khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc [56,tr10-21]. NCS lấy đó làm cơ sở so sánh, đối chiếu, tìm ra những đặc điểm chung trong sự tiếp biến văn hóa với các yếu tố bên ngoài, nhằm khẳng định những giá trị riêng có của nghệ thuật gốm Việt Nam thông qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. John Stevenson có bài The evolution of Vietnamese Ceramics (Cuộc cách tân của gốm Việt Nam), nghiên cứu tiến trình phát triển của gốm Việt Nam trên các phương diện kỹ thuật, nghệ thuật, thẩm mỹ, mối quan hệ của nghệ thuật gốm trong môi trường chính trị xã hội [58,tr22-45]. Tác giả đã tìm ra cái đặc trưng riêng biệt của năng lực cảm thụ cái đẹp của thợ gốm Việt Nam: “Thợ gốm Trung Quốc cảm 12 nhận cái đẹp bằng mắt, thợ gốm Việt Nam cảm nhận cái đẹp bằng con tim” (Chinese pottery is good for the eye, Vietnamese pottery is good for the heart)[58,tr43]. John Guy, Vietnamese Ceramics in International Trade (Gốm Việt Nam trong thương mại quốc tế), nghiên cứu đồ gốm Việt Nam trong mối quan hệ kinh tế ngoại thương[57,tr47-60]. Trong nghiên cứu này, tác giả cho thấy, con đường thương mại cũng chính là môi trường cho sự vận động tiếp biến của văn hóa. Philippe Truong trong bài viết From Prehistory to Han (Từ thời tiền sử đến Hán) [59,tr95-108] cho thấy, tác động của Trung Quốc là trực tiếp rõ ràng, nhưng thợ gốm Việt đón nhận thụ động trên cơ sở áp đặt hay đơn thuần chỉ là sao chép, họ đã sáng tạo nên các sản phẩm mới với các yếu tố mới trên nền tảng được học hỏi, tạo nên tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam qua sự biểu hiện của nghệ thuật gốm Việt Nam. Regina Krahl trong công trình Vietnamese Blue and White and related wares (Gốm hoa lam Việt Nam trong mối quan hệ đồ gốm), chủ yếu là trình bày các vấn đề về mối quan hệ giữa gốm hoa lam Việt Nam với nghệ thuật gốm Trung Quốc các đời Nguyên, Minh. Trong nghiên cứu này, tác giả có đề cập đến một loại đồ gốm được gọi là kendi vốn có nguồn gốc từ đồ kim khí phổ biến dưới triều Minh[60,tr 154], được thể hiện bằng ngôn ngữ đặc trưng của gốm hoa lam ở cả hai loại hình điêu khắc và hội họa. Bùi Minh Trí, Kerry Nguyễn Long 2001, Vietnamese Blue and White Ceramics (Gốm hoa lam Việt Nam ). Trên nền tảng khảo cổ học, nghiên cứu này khái lược tiến trình lịch sử của dòng gốm hoa lam Việt Nam từ khái niệm, nguồn gốc, các trung tâm sản xuất, đặc trưng nghệ thuật đến bối cảnh xuất khẩu[44,tr8], liên quan đến các QHTM trong nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ dưới góc nhìn của khoa học mỹ học. 1.1.2. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa, xã hội với lịch sử hình thành và phát triển nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam thời Lê sơ Cuốn The Chinese Potter - A practical history of Chinese ceramics (Gốm Trung Quốc - Một thực tế lịch sử của gốm Trung Quốc) của tác giả Margaret Medley Margaret Medley nhận định, tiến trình lịch sử gốm Trung Quốc là một tiến trình công nghiệp hóa nghề gốm thủ công[55,tr265], cơ sở cho sự phát triển của các dòng gốm nổi tiếng Trung Quốc cũng như sự lan tỏa và ảnh hưởng của nó tới truyền 13 thống gốm của hầu hết các nước vùng Đông Bắc Á và Việt Nam. Sheh Cheng (1988), Blue and White Porcelain of the Ming and Ch,ing dynasties (Sứ hoa lam triều Minh và Thanh), là một nghiên cứu chuyên khảo về dòng sứ hoa lam đời Minh - Thanh (Trung Quốc) trên phương diện kỹ thuật và nghệ thuật trang trí cùng những tác động từ chính trị - kinh tế - xã hội đến sự phát triển của dòng gốm này ở Trung Quốc [61]. Nhìn chung, cả hai công trình nêu trên là nguồn cứ liệu quan trọng cho việc tham chiếu những mối liên hệ có liên quan đến sự hình thành và phát triển của HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, cùng giá trị đặc trưng riêng biệt của nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống thời Lê sơ trước cái bóng khổng lồ của nghệ thuật gốm Trung Quốc. Tác giả Hoàng Xuân Chinh với công trình Cổ vật gốm sứ Trung Quốc. Với 424 trang cả ảnh, tác giả nghiên cứu lịch sử gốm sứ Trung Quốc dưới góc độ khảo cổ học [7]. Bằng tính khách quan khoa học, đây là nguồn tư liệu quan trọng cho việc mở rộng góc nhìn trong sự so sánh, đối chiếu các vấn đề thẩm mỹ của HTCN trên chất liệu gốm giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong công trình Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc của tác giả Diệp Lang, NCS quan tâm đến: thiên thứ nhất, chương II (tr91-123); thiên thứ II, chương XIII (tr434-456), chương XV (tr475- 527) Ở vị trí thời hiện đại, trong nghiên cứu này, tác giả dựa trên bốn nguyên tắc: Sự quán thông tương hỗ của mỹ học cổ điển và mỹ học đương đại; Sự dung hợp lẫn nhau của mỹ học Trung Quốc và mỹ học phương Tây; Sự thẩm thấu lẫn nhau giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên; Sự thúc đẩy lẫn nhau giữa mỹ học cơ sở và mỹ học ứng dụng [27,tr22]. Các phạm trù là lịch sử mỹ học, tác giả tiến hành nghiên cứu theo sơ đồ sau: Lịch sử ý thức thẩm mỹ: Dãy hình tượng - Lịch sử nghệ thuật - Lịch sử phê bình nghệ thuật. Dãy phạm trù “ý tượng”, “khí vận” - Lịch sử mỹ học. Từ đó đưa ra công thức: Lịch sử ý thức thẩm mỹ = Lịch sử mỹ học + Lịch sử các môn nghệ thuật[27,tr33]. Dưới góc độ lý luận mỹ học Mác - Lênin, công trình nghiên cứu Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc khi đặt vào bối cảnh lịch sử cụ thể của Đại Việt thời Lê sơ sẽ cho thấy được những giá trị riêng biệt của mỹ học Đại Việt trong bối cảnh lịch 14 sử cụ thể thời Lê sơ. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) với Cơ sở văn hóa Việt Nam, đi từ khái niệm cơ bản, cấu trúc, các thiết chế và chức năng của văn hóa đến diễn trình lịch sử của văn hóa. Lấy con người là chủ thể của văn hóa, tác giả khẳng định con người cũng là sản phẩm của văn hóa [52,tr7]. Ông nghiên cứu con người trong hai thế giới: thực tại và biểu tượng, cùng năng lực biểu trưng riêng có của tư duy con người [52,tr11]. Ở đó, con người một mặt sáng tạo ra văn hóa, mặt khác con người cũng là đối tượng của văn hóa. Đây là nguồn tư liệu bổ sung thêm cơ sở khoa học cho sự phản ánh hiện thực xã hội thông qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Cuốn Tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội dân gian người Việt ở châu thổ Bắc bộ, tác giả Vũ Anh Tú [40,tr45-51] với những tiêu chí nhận diện tín ngưỡng phồn thực (TNPT), một trong những thành tố thuộc cơ tầng văn hóa nguyên thủy, trong mối quan hệ với các tín ngưỡng khác. Đây là cơ sở cho mối liên hệ với hiện thực tín ngưỡng tôn giáo (TNTG) qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Trên phương diện lịch sử văn hóa, địa lý học lịch sử Việt Nam, các công trình của học giả Đào Duy Anh đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực kinh tế sinh hoạt, xã hội kinh tế sinh hoạt, tri thức sinh hoạt (Việt Nam văn hóa sử cương) [2]; lịch sử địa lý Việt Nam qua các thời kỳ (Đất nước Việt Nam qua các đời) [1] là cơ sở khoa học cho việc xác định cụ thể hơn vấn đề văn hóa vùng, từ đó phát triển và làm rõ hơn các QHTM trong HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ. Công trình Làng nghề thủ công mỹ nghệ miền Bắc của tác giả Trương Minh Hằng [18], hay cuốn Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của tác giả Bùi Văn Vượng [50], phần lịch sử tuy khái lược, nhưng phần nào cũng có giá trị trong nghiên cứu về tính truyền thống và kế thừa truyền thống, qua đó luận giải sâu hơn về tính quy luật trong sự vận động của HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ Trần Duy, 2002, Cảm luận nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật [11,tr201-209]. Bằng các phương pháp nghiên cứu liên ngành hiện đại: triết học, sử học, huyền học, địa lý phong tục học..., được xâu chuỗi thành một hệ thống nghệ thuật học ở cả phương Tây và phương Đông. Tác giả đã dàn trải nghiên cứu theo các mốc lịch sử, nhưng không minh chứng được bằng các sự kiện văn hóa nghệ thuật cụ thể. Tuy vậy vẫn có những nhận định mang tính tương đồng với nhiều nghiên cứu khác về lịch sử nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc. Công trình Về tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình của Viện Nghệ thuật - 15 Bộ Văn hóa của nhiều tác giả nghiên cứu về tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình, chủ yếu là về mỹ thuật hiện đại [20,tr94,95]. Tuy nhiên, bài Một số đặc điểm dân tộc trong tranh dân gian của cán bộ phê bình mỹ thuật Nguyễn Trân lại có một số vấn đề liên quan đến đề tài HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, bởi dù có sự ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai, nhưng HTCN cũng như thiên nhiên đều được hình thành từ thực tế cuộc sống tự nhiên, xã hội, được người thợ phản ánh lại bằng trí nhớ, lấy ước lệ tạo hình làm tiêu chuẩn. Cuốn Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á của tác giả Phạm Đức Dương, nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á trên cơ sở quan hệ của con người với ba thế giới: thế giới thực tại, thế giới biểu tượng, thế giới ý niệm, với đặc trưng nổi trội là sự thống nhất trong đa dạng [12,tr16]. Kết cấu xã hội lấy mô hình bản, làng khép kín độc lập làm hạt nhân, tạo nên quan hệ con người với tự nhiên ở ba vấn đề: triết lý âm dương, các hệ lịch, triết lý sống dựa trên quan điểm “vạn vật hữu linh”. Phân tích cơ tầng Đông Nam Á trong văn hóa Việt Nam, tác giả nghiên cứu sự khu biệt của văn hóa Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Theo ông, văn hóa như có chất keo dính kết các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội tạo nên hình hài và bản sắc dân tộc không thể bị trộn lẫn, ngay cả khi hội nhập với những cộng đồng lớn hơn, bởi văn hóa có khả năng bao quát một cách trực tiếp, đảm bảo tính bền vững xã hội, tính kế thừa: Mỗi nền văn hóa dân tộc đều có tính đặc thù riêng biệt, không chỉ điều kiện môi trường, lịch sử xã hội tạo nên sự khác nhau của các nền văn hóa, tâm lý của con người ngay cả khi rất gần nhau vẫn luôn tồn tại ý thức khu biệt “ta với người” cũng là một yếu tố quy định quan trọng trong sự khác nhau của các nền văn hóa [12,tr10]. Đây chính là những vấn đề liên quan đến các QHTM giữa con người với con người, con người với hiện thực ở mọi khía cạnh đời sống vật chất và tinh thần, mang giá trị thẩm mỹ trong các quan hệ hội dưới góc độ khoa học mỹ học. Cuốn Văn hóa gốm của người Việt vùng đồng bằng sông Hồng của tác giả Trương Minh Hằng cho thấy “khảo về sự khởi nguồn, khởi nghiệp của các làng nghề gốm cổ đồng bằng sông Hồng, có thể nhận thấy, hiếm có làng nào không hình thành từ sông và sinh tồn nhờ sông” [17,tr32]. Trong sự liên quan đến HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ có một số điểm sau: Thứ nhất, kết quả nghiên cứu về một số khái niệm về gốm và đồ gốm bổ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan